Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học vết thương trong văn xuôi việt nam thời kỳ đổi mới luận văn ths văn học 60 22 32 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------o0o-------------

LÊ VĂN HIỆP

ĐẶC TRƯNG MỸ HỌC CỦA BỘ PHẬN VĂN HỌC “VẾT
THƯƠNG” TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Qua sự so sánh với văn học Trung Quốc)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Văn học

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------o0o------------------

LÊ VĂN HIỆP

ĐẶC TRƯNG MỸ HỌC CỦA BỘ PHẬN VĂN HỌC
“VẾT THƯƠNG” TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Qua sự so sánh với văn học Trung Quốc)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Lý luận văn học
Mã số: 60220120



Người hướng dẫn khoa học
TS. PHẠM XUÂN THẠCH

Hà Nội – 2012


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................5
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................9
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................20
3.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................20
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................21
4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................23
5. Cấu trúc luận văn ..........................................................................................23
CHƯƠNG 1: VĂN HỌC “VẾT THƯƠNG” Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT
NAM – MỘT SO SÁNH LỊCH ĐẠI................................................................24
1.1. Trào lưu Văn học Vết thương ở Trung Quốc..........................................24
1.2. Bộ phận Văn học “vết thương” ở Việt Nam ............................................31
1.2.1. Những dấu hiệu của văn học “vết thương” trước Đổi mới ..................32
1.2.2. Công cuộc Đổi mới và văn học trong công cuộc Đổi mới – tiền đề của
văn học “vết thương” Việt Nam ......................................................................35
1.2.3. Văn học “vết thương” Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới........................39
CHƯƠNG 2: ĐẶC TRƯNG THẨM MỸ CỦA VĂN HỌC “VẾT
THƯƠNG” VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI ...............................................47
2.1. Từ lịch sử như một mục đích đến lịch sử như một chất liệu – Một cách
quan niệm mới về hiện thực .............................................................................48
2.2. Từ số phận cộng động đến bi kịch cá nhân – Một cách quan niệm mới
về con người .......................................................................................................57

2.3. Từ cái anh hùng và cảm hứng lãng mạn tới cái đau thương và cảm hứng
bi kịch – Sự thay đổi về chất của tư duy nghệ thuật ......................................62


CHƯƠNG 3: MỘT VÀI ĐẶC TRƯNG THI PHÁP CỦA VĂN HỌC “VẾT
THƯƠNG” TRONG VĂN XUÔI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ...............................70
3.1. Cốt truyện và kết cấu .................................................................................70
3.1.1. Phương thức tổ chức cốt truyện ............................................................71
3.1.2. Nghệ thuật xử lý thời gian .....................................................................82
3.2. Giọng kể và điểm nhìn ...............................................................................88
3.2.1. Tự sự từ ngôi thứ nhất và sự thu hẹp ảnh hưởng người trần thuật .......89
3.2.2. Tính phức hợp của giọng trần thuật và hiện tượng dòng ý thức ...........93
KẾT LUẬN ........................................................................................................97
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................100


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc nào cũng vậy, đằng sau những trang sử vẻ vang, hào hùng bao
giờ cũng có những giai đoạn đau thương và mất mát. Những bước tiến nghiệt
ngã của lịch sử đôi khi để lại đằng sau nó không ít những “vết thương”, dẫu
mức độ nặng nhẹ có thể khác nhau. Vì vậy, như là lẽ đương nhiên, khi âm điệu
hùng tráng của những thiên trường ca đẹp đẽ về một thời lịch sử hào hùng lắng
lại thì cũng là lúc văn chương hướng tới cái phần mặt trái đau thương nhưng
đầy day dứt ấy. Những “vết thương” của quá khứ và lịch sử vì vậy trở thành
một đề tài không thể không nhắc tới của văn học ở bất kỳ quốc gia nào.
Ở Trung Quốc, bắt đầu từ những năm cuối của thập niên 70 kéo dài cho tới giữa
thập niên 80 của thế kỷ trước, xuất hiện một trào lưu trở thành trung tâm của đời

sống văn học của quốc gia này. Người Trung Quốc gọi trào lưu văn học này
bằng cái tên khá lạ: “Văn học vết thương” (nguyên văn tiếng Trung Quốc là
“thương ngấn văn học” 伤痕文学, có người còn dịch là văn học thương tích1).
Sở dĩ người ta dùng hai chữ “vết thương” để định danh cho trào lưu văn học này
là bởi nội dung mà các tác phẩm thuộc trào lưu này nhắm đến là một sự phủ
nhận triệt để đối với cuộc “Đại cách mạng văn hóa” (1966 - 1976), cuộc cách
mạng mà với người dân Trung Quốc là một “sự bức hại công khai đối với nhân
dân dưới danh nghĩa cách mạng” [66]2 và đã để lại những “vết thương” trầm
1

Theo chúng tôi, nên dịch là Văn học Vết thương vì hai lý do: Thứ nhất, bản thân chữ

“thương ngấn” có nghĩa là “vết thương”. Thứ hai, chữ “thương tích” là một từ Hán Việt hoàn
toàn, khá khó hiểu với người Việt. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ dùng khái niệm “Văn
học Vết thương” để dịch nghĩa khái niệm “Thương ngấn văn học”.
2

Trong luận văn của chúng tôi có sử dụng một số tài liệu từ nguồn internet. Do vậy, trích dẫn
từ những tài liệu này sẽ chỉ được đánh số theo số thứ tự trong danh mục tài liệu tham khảo
theo dạng [XX] mà không có số trang theo dạng [XX, tr. YY].

5


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

trọng cả về thể xác lẫn tinh thần đối với nhiều thế hệ. Tuy nhiên, chỉ từ khi
Trung Quốc bắt đầu bước vào công cuộc cải cách (từ năm 1978), khi sự kìm kẹp
của cuộc “Đại cách mạng văn hóa” được gỡ bỏ, khi tư tưởng được giải phóng
thì người ta mới ý thức được rằng, những “vết thương” ấy khủng khiếp và nặng

nề tới mức nào. Sự “thức tỉnh” trước những nỗi đau, những “vết thương” do
cuộc Cách mạng Văn hóa gây ra là cơ sở thẩm mỹ cho sự ra đời của trào lưu
văn học vết thương ở Trung Quốc. Và chính sự đồng cảm của một đối tượng
độc giả rộng rãi, những nạn nhân vừa thoát khỏi những “tháng ngày địa ngục”
của Cách mạng Văn hóa đã khiến dòng văn học này trở thành dòng văn học
chiếm vị trí trung tâm trong suốt gần một thập kỷ (1976 - 1985) của đời sống
văn học Trung Quốc.
Khác với Trung Quốc (và có lẽ cũng là điều may mắn), lịch sử Việt Nam đã
không diễn ra cái “biến cố khủng khiếp” là cuộc “Đại cách mạng văn hóa”, dẫu
nhiều người vẫn cho rằng, nằm cạnh một nền văn hóa lớn, một “nền văn hóa có
khả năng kiến tạo vùng” (chữ của PGS. Trần Ngọc Vương), Việt Nam chịu
nhiều ảnh hưởng và có không ít sự tương đồng về lịch sử, chính trị lẫn văn hóa
so với Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng giống như ở Trung Quốc và nhiều quốc gia
khác, Việt Nam đã phải trải qua một thế kỷ lịch sử cận hiện đại đầy những biến
động với những biến cố làm thay đổi vận mệnh của từng cá nhân và cả dân tộc.
Đó hẳn nhiên là những trang sử hào hùng, vẻ vang bậc nhất trong lịch sử Việt
Nam và nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho không ít những thiên anh hùng ca
tráng lệ và đẹp đẽ. Song cũng không thể phủ nhận rằng, những biến cố đó trong
nhiều trường hợp đã để lại không ít những đau thương, mất mát nhất định đối
với nhiều số phận cá nhân. Tuy nhiên, trong những năm tháng mà nhiệm vụ
cách mạng, mục tiêu bảo vệ, giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, người ta
đã không có điều kiện để nói và cũng không muốn nói về phần đau thương, mất
mát ấy của lịch sử. Cho tới khi những cuộc chiến tranh đã qua đi, khi những đau
thương, mất mát đã lùi vào quá khứ, khi cách nghĩ, cách nhìn đối với những đau
6


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

thương, mất mát ấy đã trở nên cởi mở hơn thì các nhà văn mới bắt đầu viết về

những “góc khuất” của chiến tranh, về những sai lầm của lịch sử và “vết
thương” mà chúng gây ra cho nhiều thế hệ con người ở hiện tại. Khoảng lùi thời
gian cần thiết khiến bộ phận những sáng tác này càng về sau càng nở rộ và trở
thành một bộ phận quan trọng của văn học Việt Nam đương đại. Cũng chính ở
thời kỳ này, trong bối cảnh những quan điểm về văn chương, tư duy nghệ thuật,
về hiện thực và con người trở nên dân chủ và cởi mở hơn, thì những sáng tác về
đề tài “vết thương” mới có được những thành tựu đáng ghi nhận về mặt thi pháp
nghệ thuật.
Một vài năm trở lại đây, đặt trong mối quan hệ so sánh với văn học Trung Quốc
nhiều người đã bắt đầu gọi bộ phận sáng tác về các “vết thương” của quá khứ là
Văn học “vết thương” Việt Nam (các bài viết Văn học “vết thương” cần được
rộng đường hơn của tác giả Hoàng Hường đăng trên báo VietNamNet, Những
ám ảnh quá khứ trong “Ba người khác” của tác giả Trần Thư đăng trên Chuyên
trang Văn học Quê nhà của Báo Điện tử Tổ Quốc, tham luận Văn chương về các
“vết thương” chiến tranh, hậu chiến của Trần Xuân An tại Đại hội Hội nhà văn
Tp. Hồ Chí Minh, khóa VI, 05/2010…) Việc có tồn tại hay không một dòng văn
học “vết thương” ở Việt Nam là điều vẫn cần tiếp tục thảo luận. Song có một
điều rõ ràng là trong đời sống văn học Việt Nam đương đại, đã và đang tồn tại
một bộ phận văn học lấy những “vết thương” do lịch sử để lại làm đề tài và
rằng, có những điểm tương đồng nhất định về mặt thẩm mỹ và tư duy nghệ
thuật giữa bộ phận sáng tác này với trào lưu Văn học vết thương ở Trung Quốc.
Do vậy, việc người ta gọi bộ phận văn học này là “Văn học vết thương ở Việt
Nam” không phải không có những lý do của nó, dẫu chắc chắn rằng, từ nội
dung tới vận mệnh của hai bộ phận văn học này là khác nhau. Song, dù định
danh ra sao thì sự tồn tại và phát triển của bộ phận văn học về đề tài “vết
thương” ở Việt Nam thời kỳ Đổi mới vẫn đặt ra một đòi hỏi tất yếu cả về mặt
văn học sử lẫn lý luận là phải có những công trình khảo sát và hệ thống hóa về
7



Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

hiện tượng này, đồng thời xác lập những đặc trưng thẩm mỹ nhằm đánh giá
những giá trị về mặt mỹ học cũng mà hiện tượng này đem tới cho đời sống văn
học Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, thực tế văn học sử cũng như lý luận văn
học Việt Nam cho thấy, cho tới nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào đặt
vấn đề khảo sát một cách có hệ thống về bộ phận sáng tác này cũng như lý giải
những giá trị về mặt mỹ học nó đem lại cho nền văn học Việt Nam đương đại.
Là một bộ phận văn chương lấy đề tài chính là lịch sử hiện đại, thể loại thành
công nhất của các sáng tác thuộc bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam
chính là các sáng tác văn xuôi. Bởi lẽ, với đặc trưng là sử dụng lời kể và lời
miêu tả dưới hình thức câu văn xuôi, các sáng tác tự sự có khả năng xây dựng
một bức tranh rộng lớn, phong phú và toàn diện về cuộc sống hiện thực. Điều
này khiến thể loại văn xuôi đặc biệt thích hợp với những đề tài về lịch sử dù là
trong quá khứ hay ở hiện tại. Những sáng tác nổi bật nhất có thể xếp vào bộ
phận văn học “vết thương” ở Việt Nam như các sáng tác giai đoạn cuối đời của
nhà văn Nguyễn Minh Châu, tiểu thuyết Những thiên đường mù của Dương Thu
Hương, Thời xa vắng, Hai nhà của Lê Lưu, Bến không chồng của Dương
Hướng, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, các tác phẩm của Tạ Duy Anh từ
Bước qua lời nguyền, Lão Khổ cho tới Đi tìm nhân vật, rồi mới đây nhất là Ba
người khác của Tô Hoài và Nước mắt một thời của Nguyễn Khoa Đăng,… đều
là những sáng tác thuộc thể loại văn xuôi. Do vậy, có thể nói rằng, những sáng
tác văn xuôi chính là nơi tập trung những đặc trưng rõ nét nhất về mặt thẩm mỹ
của các sáng tác thuộc bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam.
Từ những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn “Đặc trưng mỹ học của bộ
phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới” làm
đề tài nghiên cứu như một nỗ lực ban đầu tìm hiểu về một bộ phận sáng tác
quan trọng trong đời sống văn học đương đại Việt Nam, ngõ hầu trả lời cho câu
hỏi còn gây nhiều tranh cãi: Có tồn tại hay không bộ phận văn học vết thương ở
8



Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Việt Nam và nếu có thì nó khác gì so với Văn học vết thương ở Trung Quốc về
nội dung, quá trình phát triển cho tới những đặc trưng thẩm mỹ?
Việc so sánh với trào lưu Văn học vết thương Trung Quốc được đặt ra như một
yêu cầu tất yếu khi bản thân việc định danh “văn học vết thương ở Việt Nam”
đã mang sự tương quan đối sánh. Hơn nữa, sự tương đồng về lịch sử, xã hội và
văn hóa giữa hai nước sẽ giúp chúng ta có được cái nhìn tường tận và rộng hơn
về một hiện tượng đã và đang trở thành trung tâm của đời sống văn học đương
đại, đặc biệt là khi Văn học vết thương ở Trung Quốc đã kết thúc vận mệnh của
nó từ lâu. Chính vì lẽ đó, trong luận văn của mình, chúng tôi đặt ra yêu cầu mở
rộng liên hệ, so sánh bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam với trào lưu
Văn học vết thương đã từng tồn tại ở Trung Quốc nhằm tìm ra sự khác biệt giữa
hai bộ phận văn học này.
2. Lịch sử vấn đề
- Ở Trung Quốc, Văn học Vết thương được coi là một trào lưu văn học đã hoàn
tất trong quá khứ vì vậy, những giá trị của Văn học Vết thương đối với các nhà
nghiên cứu cũng đã được xác lập từ lâu. Trong hầu hết các tài liệu văn học sử
chính thống (chẳng hạn như cuốn Lịch sử văn học hiện đại Trung Quốc của Chu
Đống Lâm, Đinh Phàm và Chu Hiểu Tiến chủ biên, xuất bản lần thứ nhất năm
1999, của Nhà xuất bản Cao đẳng giáo dục, cuốn sách được sử dụng làm giáo
trình cho tất cả các trường đại học trong cả nước có giảng dạy môn lịch sử văn
học), Văn học Vết thương được nhắc đến như một trào lưu văn học nằm ở trung
tâm của đời sống văn học Trung Quốc ở giai đoạn cuối những năm 1970 và đầu
những năm 1980. Ở đó, Văn học vết thương được coi như một “bước quá độ”
của Văn học Trung Quốc sang “thời kỳ văn học mới” (từ 1976 tới nay). Tuy
nhiên, trong hơn 30 năm ấy, Văn học Vết thương chỉ là trào lưu mở đầu cho
hàng chục những trào lưu văn học xuất hiện liên tục mà từ sự định danh cho tới

nhận diện những đặc trưng nội tại đều rất phức tạp của văn học đương đại
9


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Trung Quốc. Xuất hiện rất nhiều trường hợp các tác giả ở giai đoạn này có thể
thuộc trào lưu Văn học Vết thương nhưng đến giai đoạn sau lại thuộc vào những
trào lưu khác. Những đặc điểm đặc thù đó khiến Văn học Vết thương ở Trung
Quốc dường như không nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu
văn học ngoài những bài viết và công trình mang hơi hướng khái quát văn học
sử về giai đoạn mà nó hiện diện. Tuy nhiên, những công trình loại này cũng
phải chờ tới hơn 20 năm kể từ khi Văn học Vết thương kết thúc sứ mệnh lịch sử
của nó mới bắt đầu xuất hiện. Công trình được coi là dày dặn và đầy đủ nhất về
Văn học Vết thương ở Trung Quốc có lẽ là luận án tiến sĩ “Văn học vết thương”
với tư cách là một trào lưu văn học (nguyên văn 作为文艺思潮的 “伤痕文学”
(1976 - 1984 年) của tác giả Vương Quỳnh, bảo vệ tại Đại học Sư phạm Hoa
Đông, Trung Quốc vào năm 20093. Trong công trình của mình, Vương Quỳnh
đã từng bước mô tả rất chi tiết bối cảnh xã hội, quá trình hình thành, những đặc
trưng nội dung, giá trị lịch sử cũng như những giới hạn lịch sử của trào lưu Văn
học Vết thương ở Trung Quốc. Hầu hết các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí
chuyên ngành đều được triển khai theo hướng đi này, chẳng hạn như bài viết
Văn học vết thương: Ra đời, diễn tiến, tan rã và ý nghĩa của nó của tác giả
Trương Pháp, đăng trên Giang Hán luận đàn, số 9 năm 1998 hay bài viết Giới
hạn lịch sử của Văn học Vết thương của tác giả Trình Quang Vĩ, đăng trên
Nghiên cứu văn nghệ số 1 năm 2005... Theo một hướng triển khai khác, một số
luận văn thạc sĩ như Nghiên cứu tự sự vết thương trong Văn học Vết thương và
Văn học Phản tư (nguyên văn “伤痕”与“反思”文学中的创伤叙事研究) của
Lý Mẫn, bảo vệ tại Đại học Sư phạm Sơn Đông năm 2007 hay Phân tích các mô
thức tự sự của Văn học Vết thương (nguyên văn 伤痕文学叙事模式分析) của


3

Đây cũng là luận án tiến sĩ duy nhất về Văn học Vết thương ở Trung Quốc theo kết quả tìm
kiếm trên trang mạng CNKI, mạng dữ liệu các bài báo học thuật và luận văn, luận án thạc sĩ,
tiến sĩ lớn nhất ở Trung Quốc.

10


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Vu Diễm Hoa, bảo vệ tại Đại học Cát Lâm năm 2009 lại cố gắng tìm kiếm và
khái quát những mô hình chung trong nghệ thuật tự sự của các sáng tác văn học
vết thương từ các góc độ nhân vật, thời gian… Có thể khẳng định rằng, ở Trung
Quốc Văn học Vết thương không phải là một đề tài có thể gây tranh luận và
thực sự hấp dẫn đối với các nhà nghiên cứu. Việc nghiên cứu Văn học Vết
thương ở Trung Quốc đa phần gắn liền với nội dung khẳng định ý nghĩa lịch sử
mà trào lưu văn học này mang lại với tư cách một trào lưu mang tính “quá độ”
cho sự phát triển của văn học Trung Quốc thời kỳ mới.
- Không giống với số phận của trào lưu Văn học Vết thương ở Trung Quốc, cho
tới nay, vẫn chưa có bất cứ tài liệu lý luận chính thống nào ở Việt Nam gọi
những sáng tác lấy những “vết thương” do lịch sử để lại làm đề tài là văn học
vết thương. Ngay việc xác định những “vết thương” trong văn học Việt Nam là
gì cũng còn là một vấn đề chưa thể thống nhất. Nói cách khác, việc có tồn tại
hay không bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam và nếu có thì nên hiểu thế
nào về nội hàm khái niệm “vết thương” trong văn học Việt Nam cho tới nay vẫn
là vấn đề chưa được giải quyết và tiềm ẩn nhiều tranh cãi.
Liên quan tới vấn đề này phải nhắc tới bài viết của tác giả Hoàng Hường đăng
trên Báo VietNamNet vào ngày 09/01/2010: “Văn học vết thương” cần được

rộng đường hơn. Trong bài báo này, tác giả này dẫn lại lời của nhà nghiên cứu
Phong Lê cho rằng, ở Việt Nam có tồn tại một bộ phận văn học “vết thương”
nhưng chưa hình thành một dòng lớn như ở Trung Quốc. Ở điểm này, chúng tôi
chia sẻ quan điểm với nhà nghiên cứu Phong Lê, bởi lẽ, dù chưa phát triển
thành một trào lưu với tuyên ngôn và tiêu chí thẩm mỹ cụ thể, song về đặc trưng
thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật, những sáng tác về đề tài “vết thương” của lịch sử
ở Việt Nam có những điểm tương đồng nhất định với Văn học vết thương ở
Trung Quốc. Vì vậy, như đã nói, việc mượn cách định danh từ văn học Trung
Quốc không phải là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, có một điều chắc
chắn là, văn học “vết thương” Việt Nam không phải là một bản sao của trào lưu
11


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Văn học Vết thương ở Trung Quốc. Bởi lẽ, sự phủ định đối với cuộc Đại Cách
mạng Văn hóa, bối cảnh xã hội cũng như cở sở thẩm mỹ cho sự ra đời của dòng
Văn học vết thương ở Trung Quốc không xuất hiện trong tiến trình lịch sử Việt
Nam. Không có cơ sở xã hội và thẩm mỹ ấy, ở Việt Nam sẽ không bao giờ tồn
tại dòng Văn học Vết thương giống như ở Trung Quốc. Vì vậy, vấn đề quan
trọng ở đây chính là, nên hiểu thế nào về khái niệm “vết thương” trong văn học
Việt Nam? Trong bài viết của tác giả Hoàng Hường nói trên, nhà nghiên cứu
Phong Lê cho rằng: “…thương tích chủ yếu trong văn học Việt Nam chính là ở
thời kỳ cải cách ruộng đất và sửa sai ở miền Bắc” [27]. Như vậy, theo nhà
nghiên cứu này thì những bi kịch và sự ám ảnh do sai lầm của cuộc Cách mạng
ruộng đất gây ra chính là “vết thương” chủ yếu của văn học Việt Nam. Dễ thấy
rằng sự tương đồng phần nào giữa cách mạng văn hóa ở Trung Quốc và cải cách
ruộng đất ở miền Bắc, khi tác nhân của những biến cố kinh hoàng, làm đảo lộn
toàn bộ đời sống từng cá nhân và cả dân tộc này đều là cách mạng (hoặc chí ít
mang danh nghĩa cách mạng) chính là cơ sở cho những nhận định loại này. Và

rằng, dù có sự khập khiễng rõ ràng khi so sánh mức độ nghiêm trọng của những
sai lầm trong Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc và Cải cách ruộng đất ở Việt
Nam song cũng không thể phủ nhận rằng những sai lầm trong chỉ đạo thực hiện
ở cuộc Cải cách ruộng đất đã gây ra không ít những mất mát cho những người
trong cuộc cũng như nỗi ám ảnh cho nhiều thế hệ người Việt sau này. Chính vì
vậy, nếu nói rằng, “thương tích” của văn học Việt Nam chủ yếu là những “vết
thương” do cuộc Cải cách ruộng đất gây ra cũng không phải không có lý. Tuy
nhiên, nếu như cho rằng cải cách ruộng đất là “vết thương” duy nhất của văn
học Việt Nam thì dường như chưa đủ. Lịch sử Việt Nam thế kỷ XX là lịch sử
của những biến cố to lớn, làm đảo lộn đời sống của toàn bộ đời sống xã hội và
từng số phận cá nhân mà cải cách ruộng đất chỉ là một trong số những biến cố
ấy. Thực tế cho thấy, những biến cố trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XX để lại rất
nhiều những “vết thương” khác không hề kém hơn về sự trầm trọng và dai dẳng
12


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

so với cải cách ruộng đất. Đó là những “vết thương” do chiến tranh, “vết
thương” của quá trình cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, của chính
sách hợp tác hóa nông nghiệp, của chính sách bao cấp,… Dù vì bất cứ lý do gì
cũng không ai có thể khẳng định rằng trong số những “vết thương” ấy, “vết
thương” nào “chủ yếu” hơn “vết thương” nào. Nói cách khác, nếu như tồn tại bộ
phận văn học mang tên “vết thương” ở Việt Nam thì khái niệm “vết thương”
trong văn học Việt Nam không chỉ nên hiểu là Cải cách ruộng đất. Ở đây, nhận
xét của Trần Xuân An trong bài tham luận Văn chương về các “vết thương”
chiến tranh, hậu chiến và ánh sáng mới tại Hội nghị nhà văn Thành phố Hồ Chí
Minh, khóa VI (tháng 5/2010) theo chúng tôi là một gợi ý đáng suy nghĩ khi xác
định nội hàm khái niệm văn học “vết thương” ở Việt Nam: “Sau Đổi mới, thật
sự đã có sự mở rộng, đào sâu “mặt trái” của hiện thực xã hội theo đề tài này, để

văn chương ta không còn phiến diện, hiện thực phản ánh trong tác phẩm không
còn là hiện thực “bị cắt xén”, “gọt chân cho vừa giày” hay “cắt đầu cho vừa
giường”. Ít nhiều đã có những tác phẩm viết về “vết thương” chiến tranh, hậu
chiến và cả những “vết thương” không chỉ do các thế lực ngoại xâm hay phản
cách mạng gây ra mà tác nhân chính là Cách mạng” [6].
- Chưa phải là một bộ phận văn chương được định hình hoàn tất và công nhận
rộng rãi trong các tài liệu lý luận và văn học sử mang tính quan phương, tất yếu
dẫn tới tình trạng gần như vắng bóng các công trình khoa học đặt vấn đề nghiên
cứu trực tiếp về bộ phận văn sáng tác này. Tuy nhiên, theo tập hợp của chúng
tôi, những bài viết và công trình dưới đây đã đặt ra những vấn đề dưới nhiều
góc độ có liên quan tới đề tài khảo sát trong luận văn của mình:
1. Chuyên luận Văn học Việt Nam hiện đại – Nhận thức và thẩm định của tác
giả Vũ Tuấn Anh, Nxb Khoa học Xã hội, 2001.
2. Luận án Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nghệ thuật từ 1980 – 1986
của Nguyễn Thị Huệ, năm 2000.
13


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

3. Khóa luận Tìm hiểu tự sự về cải cách ruộng đất thời kì đổi mới qua tiểu
thuyết Tạ Duy Anh, Tô Hoài, Hồng Phi của Tăng Thị Hoàn, bảo vệ tại khoa Văn
học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn năm 2009.
4. Khóa luận Mối quan hệ giữa hiện thực lịch sử và tự sự nghệ thuật trong văn
học Việt Nam từ 1986 đến nay (qua một số tác phẩm tiêu biểu) của Lưu Thị Thu
Hà, bảo vệ tại khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn
năm 2004.
5. Bài viết Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới của Nguyễn
Bích Thu đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, số 11/2006.
6. Bài viết Tiểu thuyết về chiến tranh – Nhìn từ hôm nay của nhà nghiên cứu

Phong Lê đăng trên báo điện tử Văn nghệ Quân đội, ngày 24/02/2010.
7. Bài viết Quá trình cá nhân hóa hư cấu – Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài
lịch sử giữa truyền thống và hiện đại TS. Phạm Xuân Thạch.
Theo nhiều cách diễn đạt khác nhau, các tác giả của công trình và bài viết trên
đây đều khẳng định Văn học Việt Nam kể từ sau Đổi mới 1986 đã và đang phát
triển theo hướng dân chủ hóa và cá thể hóa cao độ của cái tôi cá nhân nhà văn.
Đó là một sự thay đổi rất lớn về quan niệm và tư duy nghệ thuật, đặc biệt là
quan niệm về hiện thực và con người, có ý nghĩa bổ sung và hoàn thiện cho
cách quan niệm phần nào xơ cứng trong giai đoạn trước đó. Trong Văn học Việt
Nam – Nhận thức và thẩm định, tác giả Vũ Tuấn Anh viết: “Cùng với các tư
duy mới về hiện thực, tư duy nghệ thuật về con người cũng đã có những biến
đổi, gắn liền với sự thay đổi quan niệm chính trị - xã hội về con người. Con
người không phải là phương tiện của lịch sử mà là mục tiêu cuối cùng của mọi
cải tổ, mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi vậy, nếu như văn học thời kỳ đã qua
chưa tập trung chú ý đến vấn đề con người bằng những vấn đề lịch sử xã hội thì
với đổi mới văn học, “thay vì miêu tả lịch sử thông qua con người, con người
14


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

trở thành phương tiện để trình bày lịch sử” [5, tr. 155]. Về mặt thi pháp, tuy
chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách toàn diện về mặt thi
pháp của các sáng tác văn xuôi thời kỳ Đổi mới, song những bài viết như Những
biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975 của tác giả Bùi Việt Thắng
in trong chuyên luận 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8, Nxb
Đại học Quốc gia năm 1996 và bài viết của tác giả Phạm Xuân Thạch: Quá
trình cá nhân hóa hư cấu – Tự sự đương đại Việt Nam về đề tài lịch sử giữa
truyền thống và hiện đại đã chỉ ra những điểm đổi mới nổi bật về mặt thi pháp
trong các sáng tác văn xuôi thời kỳ Đổi mới như: Sự suy giảm vai trò của cốt

truyện, sự đa dạng các hình thức cấu trúc tác phẩm, tính chất đa thanh trong
nghệ thuật trần thuật,… Chúng tôi cho rằng, những phát hiện nêu trên là những
đặc điểm cơ bản trong quan niệm và tư duy nghệ thuật cũng như thi pháp của
văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới. Và với tư cách là một bộ phận quan trọng
của nền văn học đương đại, những đặc trưng về tư duy nghệ thuật cũng như thi
pháp của văn học “vết thương” Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
- Liên quan tới một số tác giả, tác phẩm thuộc phạm vi đề tài, chúng tôi cũng
cho rằng có những ý kiến đáng ghi nhận sau đây:
1. Về tác giả Nguyễn Minh Châu và những sáng tác giai đoạn cuối đời như
Phiên Chợ Giát (1988), Cỏ lau (1989), Mùa trái cóc ở Miền Nam (1989): Từ
cuộc thảo luận trên báo Văn nghệ diễn ra vào năm 1985, các nhà nghiên cứu đã
sớm nhận thấy những nỗ lực vượt lên cái bóng của chính mình ở Nguyễn Minh
Châu. Các tham luận của Lê Lựu, Phong Lê, Hà Xuân Trường, Nguyễn Kiên,…
đã góp phần phát hiện và ủng hộ những tìm tòi của Nguyễn Minh Châu trong
những sáng tác giai đoạn cuối đời của nhà văn này. Nhà văn Nguyễn Kiên nhận
định: “Truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu phù hợp với nhu cầu phát triển
chung, nó vượt ra một cái gì gọi là chuyện riêng của Nguyễn Minh Châu, sáng
tác của anh giúp chúng ta bàn bạc được những vấn đề lớn hơn” [24, tr. 249]. Về
sau này, các chuyện luận như Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu của
15


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Tôn Phương Lan, tuyển tập các bài viết về Nguyễn Minh Châu do Nguyễn
Trọng Hoàn giới thiệu Nguyễn Minh Châu – Về tác gia và tác phẩm đã đi sâu
phân tích đánh giá các thành tựu sáng tạo của ông, từ đó khẳng định vị trí tiên
phong, mở đường và những đóng góp quan trọng của nhà văn trong công cuộc
Đổi mới văn học Việt Nam.
2. Về Bảo Ninh và tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (1990): Khác với Nguyễn

Minh Châu, cho tới nay, tên tuổi của Bảo Ninh dường như gắn liền với duy nhất
cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Vì vậy, dường như không có sự tách
bạch trong việc nghiên cứu về tác giả Bảo Ninh hay tiểu thuyết Nỗi buồn chiến
tranh của ông. Xuất bản lần đầu tiên vào năm 1990, Nỗi buồn chiến tranh của
Bảo Ninh đã nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn, một trong những giải
thưởng văn chương quan trọng nhất ở Việt Nam chỉ một năm sau đó, khi cuốn
sách được tái bản với tên gọi gốc do chính tác giả lựa chọn. Tuy nhiên, không
giống với những tiểu thuyết khác cùng được trao giải trong năm này, giải
thưởng dành cho tác phẩm của Bảo Ninh là một lựa chọn gây ra nhiều tranh cãi
nhất trong số các giải thưởng văn chương của tổ chức văn học này tính cho tới
hiện tại. Cùng trong năm này, Hội Nhà văn và Tuần báo Văn nghệ đã tổ chức
hẳn một cuộc tọa đàm về Nỗi buồn chiến tranh. Thế nhưng, cuộc tòa đàm này
cũng không khiến cuộc tranh luận về tác phẩm của Bảo Ninh bớt đi sự phức tạp
với hàng loạt những bài viết sau đó. Nhiều người ủng hộ, đánh giá rất cao Nỗi
buồn chiến tranh cho rằng, tác phẩm này đã bổ sung một cách nhìn một cách
nhìn mới cho cách nhìn đã quen (ý kiến của Trần Đình Sử); thể hiện một cái
nhìn nhân văn đối với cuộc chiến tranh (ý kiến của Nguyên Ngọc). Tuy nhiên,
cũng có không ít người chê bai, cho rằng Nỗi buồn chiến tranh đã cực đoan khi
nhìn nhận và đánh giá về chiến tranh (ý kiến của Vũ Quần Phương) thậm chí là
“lố bịch hóa” hiện thực (xem bài viết Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận tình
yêu của Đỗ Văn Khang đăng trên Văn nghệ, số 43/1992)…

16


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

3. Về Dương Thu Hương và các tiểu thuyết giai đoạn đầu Bên kia bờ ảo
vọng (1987) và Những thiên đường mù (1988): Sau những sáng tác thời kỳ
đầu được công nhận Dương Thu Hương bắt đầu có những phát ngôn mang tính

phản động, phê phán, chống phá đất nước. Năm 2006, sau hàng loạt những bài
viết và phỏng vấn phỉ báng quốc gia, dân tộc, Dương Thu Hương đã xin lưu trú
tại Pháp sau khi được mời sang Paris. Thái độ phản động, quay lưng lại với dân
tộc của Dương Thu Hương là lý do lý giải vì sao những sáng tác (ngay cả những
sáng tác thời kỳ đầu) của nữ tác giả này gần như bị loại khỏi các công trình
nghiên cứu cũng như báo chí chính thống tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi
cho rằng, những sáng tác giai đoạn đầu của Dương Thu Hương như Bên kia bờ
ảo vọng (1987), Những thiên đường mù (1988) là những sáng tác khá thành
công, đặc biệt là với tư cách những sáng tác thuộc bộ phận văn học “vết
thương” mà chúng tôi đang đặt vấn đề nghiên cứu. Do vậy, trong phạm vi của
đề tài, luận văn của chúng tôi sẽ chỉ khảo sát những sáng tác của Dương Thu
Hương ở giai đoạn này, khi những tác phẩm của Dương Thu Hương còn được
xuất bản công khai tại Việt Nam và những các ấn phẩm vẫn được lưu giữ tại
Thư viện Quốc gia.
4. Về Tạ Duy Anh và các tác phẩm Bước qua lời nguyền (1989), Lão Khổ
(1992), Đi tìm nhân vật (2002): Nếu như nói Cải cách ruộng đất là một đề tài
quan trọng của văn học “vết thương” Việt Nam thì có thể nói rằng, Tạ Duy Anh
là nhà văn bị ám ảnh bởi đề tài này. Từ truyện ngắn Bước qua lời nguyền (1989)
cho tới các tiểu thuyết Lão Khổ và đặc biệt Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh dường
như vẫn không thoát ra được sự ám ảnh đó. Cũng có lẽ vì thế, Tạ Duy Anh hiện
vẫn là cái tên khá nóng đối với giới phê bình và nghiên cứu văn chương. Vào
năm 2007, Nhà xuất bản Hội Nhà văn cho ấn hành cuốn Thế giới nghệ thuật Tạ
Duy Anh. Đây là cuốn sách này được tổng hợp từ ba luận văn thạc sĩ: Tạ Duy
Anh và việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Thị Hồng Giang, Thế
giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh của Vũ Lê Lan Hương và Quan niệm
17


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới


nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh của Võ Thị Thanh Hà.
Đây được coi là công trình tập trung và công phu nhất nghiên cứu về thế giới
nghệ thuật của Tạ Duy Anh. Bên cạnh đó, luận văn Tiểu thuyết Tạ Duy Anh của
Trần Thị Bích Thủy, tại Khoa Văn học Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
đặt tham vọng lớn hơn đó là khái quát toàn bộ đặc trưng của tiểu thuyết Tạ Duy
Anh. Đã có nhiều vấn đề của tiểu thuyết Tạ Duy Anh được đặt ra, từ hiện thực
nông thôn, thế giới nhân vật, nghệ thuật tự sự cho tới yếu tố hậu hiện đại trong
tiểu thuyết,… và cũng có không ít những tranh cãi (chẳng hạn như những tranh
luận xung quanh tiểu thuyết Giã biệt bóng tối (2008)). Tuy nhiên, có một điều
có thể chắc chắn rằng, với những nỗ lực của mình, Tạ Duy Anh và những sáng
tác của ông xứng đáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt
Nam đương đại nói chung và văn học “vết thương” ở Việt Nam nói riêng.
5. Về Lê Lựu với tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) và Chuyện làng Cuội
(1991) Sóng ở đáy sông (1995): So với những nhà văn cùng thế hệ mình, Lê
Lựu là một cây bút khá sung sức. Dẫu rằng không phải tác phẩm nào của Lê
Lựu cũng được đánh giá vào hàng “đỉnh cao”, song có một điều chắc chắn là,
tác phẩm nào của Lê Lưu ra mắt đều gây được không ít sự quan tâm của dư
luận. Có thể kể ra đây hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm Lê Lựu như: Thời
xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng của Lê Thành Nghị, Chuyện phiếm với anh Sài
của Hồng Vân, Nghĩ về một Thời xa vắng của Thiếu Mai, Nhu cầu nhận thức lại
thực tại qua một Thời xa vắng của Nguyễn Văn Lưu, Đọc Thời xa vắng của Lê
Lựu của Hoàng Ngọc Hiến, Suy tư từ một Thời xa vắng của Nguyễn Hoà, Một
đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay của Vương Trí Nhàn, Lê Lựu Thời xa vắng của Đinh Quang Tốn, Lê Lựu - Chân dung văn học của Trần
Đăng Khoa... Những bài viết này sau đó đã được chính Lê Lựu tập hợp lại trong
cuốn Tạp văn của mình xuất bản vào năm 2003 do Nhà xuất bản Văn hóa thông
tin ấn hành. Ngoài ra, cũng phải kể đến số lượng khá nhiều những luận văn,
luận án lấy các sáng tác của Lê Lựu làm đề tài nghiên cứu. Các bài viết và công
18



Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

trình này, bằng nhiều cách khác nhau, đã đề cập tới nhiều khía cạnh trong tiểu
thuyết của Lê Lựu, từ nghệ thuật trần thuật, thế giới nhân vật và đặc biệt là cảm
hứng bi kịch trong các sáng tác của ông.
6. Về Ba người khác (2006) của Tô Hoài và Nước mắt một thời của Nguyễn
Khoa Đăng: Ngay từ khi ra mắt vào năm 2006, Ba người khác của Tô Hoài đã
nhận được sự quan tâm của không ít độc giả cũng như giới phê bình. Hội Nhà
văn đã phải tổ chức một buổi tọa đàm về tác phẩm của nhà văn “lão trượng” Tô
Hoài ngay sau khi tác phẩm được xuất bản không lâu. Sự quan tâm đặc biệt mà
giới phê bình cũng như độc giả dành cho Ba người khác chủ yếu là “sự dũng
cảm” của Tô Hoài khi đề cập đến Cách mạng ruộng đất, một đề tài mà lâu nay
nhiều nhà văn vẫn e ngại và né tránh, trong tác phẩm của ông. Phát biểu tại buổi
tọa đàm do Hội Nhà văn tổ chức, Bằng Việt, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học
nghệ thuật Hà Nội đã nói: “Những tác phẩm như Ba người khác có ý nghĩa rất
lớn: Nhìn lại một cách sòng phẳng những sai lầm của chúng ta trong quá khứ.
Không chỉ Cải cách ruộng đất, mà hợp tác hoá nông nghiệp, rồi cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh. Những cái ấy làm kéo lùi sức sản xuất. Và thậm
chí khiến người ta phải nghi ngờ: không biết "đổi mới" bây giờ có thật sự hay
không, hay là sau một thời gian lại "đánh" tư sản? Phải dũng cảm nhìn lại sai
lầm mới rút ra được bài học cho hiện tại và tương lai”. Cũng theo cách đó Nước
mắt một thời của Nguyễn Khoa Đăng tạo được sự chú ý của dư luận chủ yếu là
vì nội dung khá “sốc” của tác phẩm chứ không phải vì sự thu hút của cách kể
chuyện. Tuy nhiên, việc Ba người khác của Tô Hoài và Nước mắt một thời của
Nguyễn Khoa Đăng đề cập một cách trực tiếp đến đề tài cải cách ruộng đất và
sự chú ý mà dư luận dành cho hai tác phẩm này khiến chúng trở thành những
tác phẩm không thể không nhắc tới của bộ phận văn học “vết thương” ở Việt
Nam.

19



Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Có thể thấy, mặc dù chưa có công trình nào đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về văn
học “vết thương” ở Việt Nam như một bộ phận cấu thành nên nền văn học Việt
Nam đương đại, tuy nhiên, xung quanh những đặc trưng chung về nội dung lẫn
nghệ thuật của cả giai đoạn văn học Việt Nam sau đổi mới cho tới những tác giả
và tác phẩm cụ thể liên quan tới bộ phận văn học này đã có rất nhiều các bài
viết và công trình nghiên cứu khác nhau. Những vấn đề mà các công trình, bài
viết này đặt ra cũng rất phong phú với nhiều chiều cạnh khác nhau. Chúng tôi
cho rằng, đó sẽ là những gợi ý quan trọng cho chúng tôi trong quá trình nghiên
cứu văn học “vết thương” với tư cách một bộ phận quan trọng của nền văn học
Việt Nam đương đại.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ thực trạng nghiên cứu liên quan đến đề tài đã trình bày ở trên, mục tiêu mà
chúng tôi đặt ra cho luận văn của mình cụ thể như sau:
- Xác định nội hàm của khái niệm văn học “vết thương” ở Việt Nam, xác định
diện mạo của hiện tượng văn học này trong đời sống văn học Việt Nam đương
đại và trong mối tương quan sao sánh với trào lưu văn học “vết thương” ở
Trung Quốc.
- Xác định những đặc trưng thẩm mỹ của bộ phận văn học “vết thương” ở Việt
Nam nhằm đánh giá những giá trị về mặt mỹ học cũng như phương pháp sáng
tác mà bộ phận văn học này đem đến cho văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới
trước hết thể hiện ở các sáng tác văn xuôi, từ đó tìm ra sự khác biệt về mặt thẩm
mỹ giữa Văn học “vết thương” ở Việt Nam và Văn học vết thương ở Trung
Quốc.
- Tìm hiểu những đổi mới về hình thức nghệ thuật của các sáng tác văn học “vết
thương”, trước hết ở thể loại văn xuôi để thấy được đóng góp về mặt nghệ thuật

20


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

của bộ phận văn học này đối với sự phát triển của văn chương Việt Nam đương
đại, đồng thời tìm ra điểm khác biệt về mặt hình thức nghệ thuật giữa Văn học
“vết thương” ở Việt Nam và Văn học vết thương ở Trung Quốc.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở của việc xác định đề tài, phân tích lịch sử nghiên cứu và nhiệm vụ
nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn sẽ bao gồm toàn bộ các tác phẩm
văn xuôi lấy những “vết thương” của những biến cố trong lịch sử Việt Nam
trong thế kỷ XX làm đề tài. Đó là “vết thương” do chiến tranh, “vết thương” của
cuộc cải các ruộng đất, của cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, hợp tác
hóa nông nghiệp, chính sách bao cấp,… những “vết thương” của quá khứ lịch
sử để lại cho nhiều thế hệ người Việt Nam cho tới ngày nay. Những tác phẩm
thuộc bộ phận văn học “vết thương” sẽ được chúng tôi trình bày cụ thể trong
chương I của luận văn này.
Các đặc trưng của một bộ phận văn học đương nhiên thể hiện rõ nhất trong
những tác phẩm tiêu biểu và điển hình. Theo cách quan niệm đó, trong luận văn
của mình, chúng tôi sẽ tập trung khảo sát những tác phẩm mà chúng tôi cho là
mang tính điển hình của bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam sau đây:
1. Cỏ lau: Tập truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu do Nhà xuất bản Văn học
ấn hành, bản in năm 1989. Tập truyện ngắn bao gồm 3 truyện: Mùa trái cóc ở
Miền nam, Cỏ lau và Phiên chợ Giát. Nguyễn Minh Châu được coi là nhà văn
đi tiên phong cho sự đổi mới văn học Việt Nam kể từ 1986. Ở những tác phẩm
cuối đời của ông người ta thấy những mầm mống đầu tiên của sự đổi mới trong
văn học, đặc biệt là trong truyện ngắn và tiểu thuyết. Do vậy, chúng tôi coi
những truyện ngắn trong tập Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu là những tác phẩm
mang dấu hiệu cho sự ra đời của bộ phận văn học “vết thương” sau Đổi mới

1986.
21


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

2. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, bản in năm 2006 do Nhà
xuất bản Văn học ấn hành.
3. Tiểu thuyết Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, bản in năm 1988
do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành.
4. Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, bản in năm 1987 của Nhà xuất bản Tác
phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam ấn hành.
5. Tiểu thuyết Chuyện làng Cuội của Lê Lựu, bản in năm 2003 của Nhà xuất
bản Văn học.
6. Tiểu thuyết Lão Khổ và truyện ngắn Bước qua lời nguyền in trong Tạ Duy
Anh – Tác phẩm chọn lọc bản in năm 2002 của Nhà xuất bản Văn hóa Thông
tin.
7. Tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, bản in năm 2002 của Nhà xuất
bản Văn hoá dân tộc.
8. Tiểu thuyết Ba người khác của Tô Hoài, bản in năm 2006 của Nhà xuất bản
Đà Nẵng.
9. Tiểu thuyết Nước mắt một thời của Nguyễn Khoa Đăng, bản in năm 2009 của
Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
10. Tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng, bản in năm 1999 của Nhà
xuất bản Hội Nhà văn.
Ngoài ra, do nhiệm vụ so sánh với trào lưu văn học “vết thương” ở Trung Quốc
nên trong những trường hợp cụ thể, chúng tôi sẽ sử dụng cả những tác phẩm
tiểu biểu của văn học Trung Quốc thuộc trào lưu văn học này như: Chủ nhiệm
lớp của Lưu Tâm Vũ, Vết thương của Lư Tân Hoa,…


22


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

4. Phương pháp nghiên cứu
Trước một đối tượng là một hiện tượng văn học còn khá xa lạ đối với lý luận
văn học cũng như văn học sử, việc đặt ra mục tiêu khái quát được những nét
bản chất về diện mạo cũng như đặc trưng về mặt mỹ học của văn học “vết
thương” luận văn đòi hỏi sự vận dụng mang tổng hợp nhiều phương pháp.
Trong luận văn của mình, chúng tôi chủ yếu vận dụng ba phương pháp chính là:
Phương pháp hệ thống, phương pháp mỹ học và phương pháp so sánh. Phương
pháp mỹ học là phương pháp quan trọng nhất trong việc cung cấp những tiền đề
lý luận giúp chúng tôi rút ra những nhận định khái quát về những đặc trưng
thẩm mỹ của bộ phận văn học “vết thương” Việt Nam. Phương pháp so sánh
được sử dụng như một nhu cầu tất yếu để đáp ứng mục tiêu so sánh sự giống và
khác nhau giữa bộ phận văn học “vết thương” ở Việt Nam với dòng Văn học vết
thương ở Trung Quốc. Phương pháp hệ thống được vận dụng như một phương
pháp tối ưu để khảo sát về một bộ phận văn học độc lập như văn học “vết
thương”. Việc đặt bộ phận văn học này trong dòng chảy chung của những sáng
tác về đề tài lịch sử cũng như văn học đương đại theo cái nhìn của phương pháp
hệ thống sẽ cho chúng ta có một cái nhìn toàn diện và bao quát hơn về vị trí và
vai trò của nó.
Ngoài các phương pháp nêu trên chúng tôi cũng sử dụng những thao tác mang
tính bổ trợ như thao tác thống kê, phân tích, tổng hợp, thao tác so sánh đối
chiếu,…
5. Cấu trúc luận văn
Từ nhiệm vụ đã được nêu ở trên, luận văn của chúng tôi sẽ được triển khai theo
ba chương như sau:
Chương 1: Văn học “vết thương” ở Trung Quốc và Việt Nam – Một so

sánh lịch đại
23


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Chương 2: Đặc trưng thẩm mỹ của văn học “vết thương” Việt Nam
Chương 3: Một vài đặc trưng thi pháp của bộ phận văn học “vết thương”
trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Chương 1: VĂN HỌC “VẾT THƯƠNG” Ở TRUNG QUỐC VÀ VIỆT
NAM – MỘT SO SÁNH LỊCH ĐẠI
Sự khác biệt về bản chất trong cơ sở xã hội và thẩm mỹ, một cách tất yếu, quy
định sự khác biệt giữa trào lưu Văn học Vết thương ở Trung Quốc với bộ phận
văn học “vết thương” ở Việt Nam từ nội dung cho tới quá trình vận động và
phát triển. Do vậy, một cái nhìn so sánh theo trục lịch đại giữa hai bộ phận văn
học này sẽ là cần thiếp giúp chúng ta có thể khu biệt hai đối tượng này trên
những đường nét cơ bản nhất. Đây cũng chính là nội dung chủ yếu của chương
1 mà chúng tôi sẽ triển khai dưới đây.
1.1. Trào lưu Văn học Vết thương ở Trung Quốc
Năm 1959, sau những thất bại nặng nề trong kế hoạch Đại nhảy vọt của mình,
Mao Trạch Đông buộc phải từ chức Chủ tịch nhà nước. Những năm đầu thập
niên 60 sau đó, mặc dù vẫn giữ chức chủ tịch đảng song Mao Trạch Đông gần
như buộc phải đứng bên ngoài những vấn đề thường nhật của nhà nước và chính
phủ. Đặng Tiểu Bình, Lưu Thiếu Kỳ, những người đang nắm quyền trong nhà
nước và chính phủ Trung Quốc lúc bấy giờ, dường như muốn trục xuất Mao
Trạch Đông ra khỏi bộ máy quyền lực nhưng vẫn giữ ông ta trong vai trò biểu
tượng quốc gia. Mao Trạch Đông đương nhiên không thể chấp nhận điều đó. Để
lấy lại vị trí và quyền lực của mình và loại bỏ đối thủ trực tiếp khi đó là Lưu
Thiếu Kỳ, Mao đã phát động cái gọi là Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô

sản, thường gọi tắt là Đại Cách mạng văn hóa. Trong bản Thông cáo 16/5 được
thông qua sau Hội nghị Bộ Chính trị mở rộng của Đảng Cộng sản Trung Quốc
24


Đặc trưng mỹ học của bộ phận văn học “vết thương” trong văn xuôi Việt Nam thời kỳ Đổi mới

ngày 16 tháng 5 năm 1966, viện ra lý do rằng, “một số lớn nhân vật đại biểu của
giai cấp tư sản, phần tử xét lại phản cách mạng đã chui vào trong đảng, nhà
nước, quân đội” và “quyền lãnh đạo của một số lớn các đơn vị đã không còn
trong tay những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin và quần chúng nhân dân”;
“Phái đương quyền theo con đường tư bản chủ nghĩa trong đảng đã hợp thành
bộ tư lệnh của giai cấp tư sản, chúng có mặt ở tất cả các ngành các cấp từ trung
ương đến địa phương” và “các cuộc đấu tranh trước đây không giải quyết được
vấn đề này”, Mao Trạch Đông tuyên bố: “Chỉ có thể tiến hành một cuộc Đại
cách mạng văn hóa vô sản công khai, toàn diện, làm từ dưới lên trên, phát động
quần chúng nhân dân bóc trần bộ mặt đen tối của chúng, mới có thể giành lại
được quyền lực bị mất do phái đi con đường tư bản chủ nghĩa tước đoạt” [66].
Trong suốt 10 năm sau đó, dưới danh nghĩa của cách mạng, Đại Cách mạng văn
hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng đã bức tử, đày đọa hàng triệu trí thức,
thanh niên, đẩy họ về nông thôn, sống một cuộc sống khổ ải để “phục hồi lại
tinh thần cách mạng”. Bên cạnh sự bần cùng hóa về vật chất, Đại Cách mạng
văn hóa còn là một sự bức hại về tinh thần khi tất cả những giá trị về văn hóa,
những quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức gần như bị đảo lộn toàn bộ. “Các
tiệm sách phải đóng cửa hết. Trong 6 năm liền không in tập sách nào cả, trừ tập
Sách đỏ của Mao và ít cuốn về kỹ thuật… Trong các thư viện, người đọc sách
chỉ được mượn những tác phẩm ngoại quốc đã được lựa chọn kỹ: Balzac,
Dickens, Zola “những tác giả chứng nhân của thời đại mục nát, tan rã của giai
cấp tiểu tư sản”. Người ta duyệt lại các giá trị văn hoá cũ của nhân loại:
Shakespeare, Mozart, Bethoveen, Bach bị đả kích; ngay Tolstoi, Hugo trước kia

được coi là tiến bộ nay cũng bị mạt sát… Các đền đài, viện bảo tàng đóng cửa
hết, có nơi dùng làm kho chứa rác, làm trại lính. Bảo vật, nhất là các tượng bị
phá huỷ” [30]. Trong suốt thời gian đó, thứ duy nhất người ta bị nhồi nhét vào
đầu chính là tư tưởng Mao Trạch Đông và họ buộc phải coi đây là chân lý nếu
không muốn trở thành phản động. Hoàn toàn không ngoa khi người ta nói rằng,
25


×