Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

LUẬN VĂN: Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (761.89 KB, 71 trang )











LUẬN VĂN:

Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc
và quốc tế trong cách mạng Việt Nam
thời kỳ đổi mới





Phần mở đầu

I- tính cấp thiết cửa đề tài
Khát vọng về cuộc sống hoà bình, ấm no, hạnh phúc là khát vọng của mỗi
con người. Đối với mỗi quốc gia trên thế giới để có được một xã hội tiến bộ, một
cuộc sống hài hoà, một nền kinh tế phát triển thì vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại phải được quan tâm đặt lên vị trí hàng đầu trong chính sách
đối ngoại. Với chiều dài lịch sử hàng trăm năm nay thì sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại vẫn là một vấn đề mang tính chiến lược trong sự tồn tại và
phát triển của tất cả các nước. Đối với các nước đang phát triển thì vấn đề kết hợp
sức mạnh dân tộc và thời đại là một vấn đề không mới, trong kháng chiến giành độc


lập dân tộc nhờ sự kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế mà họ đã đánh đuổi
được quân xâm lược. Vì vậy trong thời kì đổi mới đòi hỏi các nước đang phát triển
phải tăng cường mở rộng hơn nữa sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế để tiến
hành xây dựng đất nước.
Dân tộc việt nam cũng vậy để có được cuộc sống hoà bình, hạnh phúc thì
ngay từ xa xưa cha ông ta đã biết vận dụng sức người sức của, vận dụng sức mạnh
đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự giúp đỡ của bên ngoài tạo thành sức mạnh để xây
dựng đất nước
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đã thể hiện
sâu sắc lòng qyết tâm giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Duới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản dân tộc ta đã biết đoàn kết một lòng, tự lực tự cường, thực hiện
chính sách đại đoàn kết toàn dân. Không phân biệt già trẻ gái trai, tôn giáo đảng
phái kết hợp sức mạnh trong nước với quốc tế làm nên những chiến thắng rực
rỡ từ cách mạng tháng 8 - 1945 đến chiến thắng 1954- chiến thắng Điện Biên Phủ
làm chất động địa cầu đến mùa xuân 1975 ta đẫ giành được thắng lợi hoàn toàn,
giang sơn về một mối, đất nước đi vào xây dựng cuộc sống mới hoà bình ấm no.
Như vậy trong thời kì cách mạng dân tộc dân chủ sự kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại đã được đảng ta vận dụng để chiến thắng kẻ thù mang lại


độc lập tự do cho đất nước. Nhưng trong thời kỳ đổi mới với xu thế thời đại mới sự
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được Đảng ta vận dụng như thế
nào. Ngay từ đại hội đảng VI - 1986 Đảng đã chủ chương đẩy mạnh sự kết hợp
nhân tố dân tộc và quốc tế để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Đại hội đảng
VII, VIII, IX tiếp tục kế thừa và phát triển đường lối đúng đắn đó.
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới với những thành tựu đã đạt
được, chứng tỏ quan điểm của đảng về sự đẩy mạnh kết hợp nhân tố dân tộc và
quốc tế trong thời kì đổi mới là đúng đắn. Tuy nhiên có nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn cần được làm sáng tỏ. Trong xu thế thời đại mới sự kết hợp nhân tố dân
tộc và quốc tế còn là tất yếu khách quan đối với nền kinh tế nước ta hay không?

Nhìn nhận sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của nước ta trong những năm qua
như thế nào? nó có vai trò như thế nào trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước. Quan điểm, nội dung cụ thể, giải pháp bước đi của đảng ta trong sự kết
hợp nhân tố dân tộc và quốc tế ra sao? đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng,
thu hút sự chú ý quan tâm của nhiều người. Với lý do đó tôi chọn đề tài: "Đảng với
sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi
mới"
II- Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
Với mục đích làm rõ quan điểm, chủ trương của Đảng và sự kết hợp nhân tố
dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam thời kỳ đôỉ mới, nhiệm vụ đặt ra là
phải xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của dề tài. Trên cơ sở nghiên cứu, khảo sát
chi tiết, cụ thể những chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng trong sự kết hợp
nhân tố dân tộc và quốc tế của đất nước, đề tài sẽ làm rõ sự cần thiết phải có sự kết
hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế, đó là vấn đề khách quan trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng đất nước
nói chung. Trên cơ sở đó đề tài sẽ làm rõ được quan điểm, nội dung, bước đi của sự
kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại thông qua các kỳ Đại hội, bắt đầu từ Đại hội
VI cho đến nay.



iii- tình hình nghiên cứu.
Đây là một đề tài rất rộng lớn về nội dung, phạm vi góc độ. Từ trước đến nay
đã có rất nhiều người nghiên cứu về vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của
Đảng. Song chủ yếu là nghiên cứu trong phạm vi : Đảng với sự kết hợp nhân tố dân
tộc và quốc tế trong suốt cả thời kỳ trước và sau đổi mới,chủ trương chính sách đối
ngoại nói chung của Đảngvà Nhà nước trước và sau đổi mới Một số đề tài còn
nghiên cứu từng góc độ của sự kết hợp dân tộc và quốc tế như : Sẵn sàng là bạn chủ
động hội nhập, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới Ngoài ra còn một số bài báo được đăng trên các tạp chí như : Nắm chắc thời

cơ vượt qua thách thức, tạo những điều kiện để chủ động hội nhập ; phát huy sức
mạnh dân tộc với sự ngiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
ở đề tài này với thời gian và trình độ có hạn tôi đi vào nghiên cứu : "Đảng
với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc ế trong cách mạng Việt Nam trong thời kì
đổi mới. "
IV - phương pháp nghiên cứu
Khoá luận khảo sát và nghiên cứu các quan điểm, đường lối chủ trương,
phương hướng giải quyết của Đảng ta về sự kết hợp hài hoà nhân tố dân tộc và quốc
tế trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế vốn
có từ khi cha ông ta bắt đầu dựng nước và giữ nước , trải qua bao thời kỳ lịch sử đất
nước và duy trì cho đến ngày nay. Nhưng trong thời kỳ mới sự kết hợp đó phải
được phát triển như thế nào? từ đó có thể sử dụng những phương pháp sau để
nghiên cứu.
1. Phương pháp thống kê phân loại : Sử dụng phương pháp này nhằm thu
nhập và xử lý những tư liệu cần thiết có liên quan đến sự kết hợp hai nhân tố dân
tộc và quốc tế của Đảng ta trong cách mạngViệt Nam trong thời kỳ đổi mới.
2. Phương pháp phân tích và tổng hợp khái quát: Sử dụng phương pháp
này trên cơ sở phân tích mổ xẻ từng vấn đề cụ thể sau đó tổng hợp lại thành từng
luận điểm rồi nâng lên tầm khái quát chung.


Ngoài ra để nghiên cứu, đề tài này còn sử dụng một số phương pháp như:
phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp diễn dịch và quy nạp nhằm tổng hợp
nhấn mạnh một số vấn đề đã phân tích.
V- những nét mới trong đề tài.
Nét mới ở đây là đề tài nghiên cứu khảo sát sâu hơn, kỹ hơn, toàn diện hơn
những quan điểm, chủ chương của Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế
trong cách mạng Việt Nam kể từ năm 1986 trở lại đây
Hiện nay xu thế thế giới đang bước vào quá trình toàn cầu hoá, đòi hỏi mọi
quốc gia trên thế giới phải chủ động hội nhập vì vậy nét mới ở đây là nghiên cứu sự

kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của Đảng ta trong sự phát triển của xu thế thế
giới hiện đại.

VI- ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Về mặt lý luận đề tài nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ gắn bó giữa đoàn kết dân tộcvà đoàn kết quốc tế. Thực chất
đề tài nghiên cứu sự áp dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước của Đảng trong sự nghiệp đổi mới.
Vì vậy nghiên cứu đề tài sẽ giúp người viết bước đầu làm quen với việc đọc và tìm
hiểu tài liệu, rèn luyện tư duy khoa học. Qua nghiên cứu đề tài sẽ thấy được sự đúng
đắn khoa học của chủ nghĩa Mác -Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó người
đọc sẽ giữ vững quan điểm và lập trường đúng đắn của học thuyết chủ nghĩa Mác-
Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Về mặt thực tiễn: đề tài khảo sát trên thực tế Đảng ta với sự kết hợp hai nhân
tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam vào thời điểm từ năm 1986 đến
nay. Chính vì vậy qua đề tài người đọc sẽ thấy được sự phát trriển của đất nước qua
các số liệu đề tài thống kê, thấy được sự pháp triển hẳn về chất khi có sự kết hợp
hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ mới. Đặc biệt qua đề tài chúng ta sẽ
thấy được quan điểm đúng đắn của Đảng ta về sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế
trong thời kỳ đổi mới, từ đó sẽ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tin vào chủ


trương của Đảng có ý thức thực hiện nó. Đồng thời qua đề tài chúng ta sẽ tin tưởng
vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, tin tưởng vào một
xã hội tiến bộ trong tương lai.






Phần nội dung
Chương I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề Kết hợp
nhân tố dân tộc và quốc tế

I- cơ sở lý luận của vấn đề kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế
1. học thuyết chủ nghĩa Mác- Lê Nin.
Học thuyết Mác-Lê Nin là một tài sản lý luận vô cùng quý báu của nhân
loại. Đây thực sự là kết tinh của văn minh trí tuệ loài người. Vào những thập kỷ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, giai cấp tư sản tiến hành bóc lột, vơ vét của cải
nhằm làm giàu cho chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản đã dựa trên mồ hôi, nước mắt,
sức lao động của giai vô sản để làm giàu cho chình mình, chúng sãn sàng gạt bỏ tất
cả những mối quan hệ tình cảm , với chúng chẳng có gì hơn là "mối lợi lạnh lùng và
nối trả tiền ngay không tình không nghĩa ." trước tình hình đó giai cấp vô sản đã
vùng dậy đấu tranh để đòi quyền lợi và nhằm giải phóng chính mình. Trong thời kì
này những phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản diễn ra mang tính chất tự phát
vì chưa có đường lối lãnh đạo, chưa có lý luận soi đường. Trong hoàn cảnh đó chủ
nghĩa Mác - Lê Nin đã từng bước xâm nhập vào phong trào công nhân trở thành tư
tưởng, nền tảng, kim chỉ nam cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Có


lý luận soi đường, có hướng dẫn về mặt tổ chức phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân đã chuyển từ tự phát sang tự giác.
Với cách mạng Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ XX phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân còn mang tính tự phát nhưng sau đó vào
những năm 20 của thế kỷ XX thì phong trào đấu tranh đã chuyển dần sang tự giác
mà mốc đánh dấu sự chuyển biến này là vào năm 1925. Có được sự chuyển biến từ
tự phát sang tự giác của phong trào công nhân Việt Nam là do sự hoạt động tích
cực, sự hy sinh bản thân mình của chủ tịch Hồ Chí Minh. Vượt qua những khó khăn
gian khổ người đã tìm thấy chủ nghĩa Mác - Lê Nin. Qua thực tiễn cách mạng thế

giới qua nghiên cứu người đã đi đến khảng định : "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lê Nin."
Từ sự khảng định đó người đã tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê Nin
vào cách mạng Việt Nam cũng từ đây cách mạng Việt Nam đã có đường lối và
bước đi đúng đắn.
Như vậy qua thực tiễn đất nước trong hiện tại cũng như trog quá khứ chúng
ta có thể thấy được sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lê Nin, thấy được vai trò tư
tưởng kim chỉ nam của học thuyết Mác- Lê Nin đối với cách mạng Việt Nam. Cần
thấy rằng Đảng ra đời, các cương lĩnh cách mạng, đường lối lãnh đạo của Đảng đều
là sự kết hợp lý luận Mác -Lê Nin với thực tiễn đất nước, là sự kết hợp tư tưởng
nhân văn truyền thống Việt Nam với chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam . Hồ chí Minh đã từng nói : "Đảng truyền bá lý
luận Mác -Lê Nin vào trong nhân dân ta, có lý luận soi đường thì quần chúng hành
động mới đúng đắn, mới phát triển được tài năng và lực lượng vô cùng vô tận của
mình ."[1, 12]
Như vậy nhờ có chủ nghĩa Mác -Lê Nin làm nền tảng tư tưởng , làm kim chỉ
nam , có cương lĩnh , đường lối và chính sách cách mạng đúng đắn, sáng tạo nên
Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành đội tiên phong có tổ chức cao nhất của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Từ đó trong quá trình lãnh đạo của mình,


Đảng đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê Nin vào cách mạng Việt Nam trong sự kết
hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế.
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin cho rằng: cách mạng là sự nghiệp của đông đảo
quần chúng nhân dân được giác ngộ cách mạng chứ không phải của riêng một cá
nhân , một giai cấp hay một tầng lớp nào .Đông đảo quần chúng nhân dân được giác
ngộ cách mạng sẽ hợp lại thành một sức mạnh to lớn ,đấu tranh cho các mục tiêu
xác định theo đường lối đúng đắn của chính đảng vô sản. Ngược lại giai cấp vô sản
phải có nhiệm vụ tổ chức, đoàn kết các giai cấp ,các tầng lớp nhân dân được giác

ngộ trong nước tạo thành một sức mạnh tổng hợp để chiến thắng bất kỳ một sự phản
động, xâm lược nào. Đặc biệt cùng với sự tổ chức đó thì giai cấp vô sản giữa các
nước thuộc địa cũng như chính quốc phải liên kết lại tạo thành một sức mạnh vô sản
quốc tế để chống lại sự phản kháng của giai cấp tư sản và các thế lực phản động.
Như chúng ta đã biết vì lợi ích giai cấp tư sản sẽ không bao giờ tự rời bỏ địa vị
thống trị của mình, vì lợi nhuận giai cấp chúng có thể dùng bất cứ một thủ đoạn
nào kể cả những thủ đoạn bỉ ổi nhất. Mặt khác giai cấp tư sản giữa nước trên thế
giới có sự liên kết qua lại với nhau, muốn chặt bỏ, phá bỏ sự liên kết đó thì giai cấp
vô sản giữa các nước phải đoàn kết lại thành một khối thống nhất. Như Mác -Ăng
ghen và sau này là Lê Nin chỉ ra: "vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới đoàn kết lại ."
Như vậy chủ nghĩa Mác -Lê Nin cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc do
giai cấp vô sản lãnh đạo có mối gắn bó khăng khít với cách mạng thế giới và đây
chính là cơ sở lý luận cho Đảng ta vận dụng vào kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc
tế trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Viêt Nam Đảng ta còn căn cứ vào quan
điểm của triết học Mác-Lê Nin về mối liên hệ phổ biến về mối liên hệ giữa yếu tố
bên trong và bên ngoài.
Triết học Mác - Lê Nin cho rằng: trong thế giới vật chất các sự vật hiện
tượng luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Muốn xem xét sự
tồn tại và biến đổi của nó, muốn biến đổi nó phải đặt nó trong mối liên hệ đan xen,


xâm nhập , bổ sung với sự vật khác. theo Ăng ghen: "khi ta quan sát vật chất vận
động thì cái đập vào mắt trước nhất là mối liên hệ lẫn nhau giữa những sự vận động
riêng biệt của những vật thể riêng biệt, là tình trạng cái này làm điều kiện, làm tiền
đề cho cái kia ." [2 ,366]; sau này Lê Nin chỉ rõ : muốn thực sự hiểu được các sự vật
, phải nắm được và nghiên cứu mọi mặt, mọi mối liên hệ của nó.
Theo triết học Mác -Lê Nin : trong mọi sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ
khăng khít giữa mối liên hệ bên trong và bên ngoài .trong đó mối liên hệ bên trong

giữ vai trò chủ đạo, quyết định với sự tồn tại , vận động và phát triển của sự vật.
Tuy nhiên mối liên hệ bên ngoài cũng có tính độc lập tương đối nó tác động trở lại
với mối liên hệ bên trong làm cho mối liên hệ bên trong vận động và phát triển.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới luôn luôn vận động và biến đổi không
ngừng , nhưng chúng có mối liên hệ qua lại với nhau . Trong sự phát triển của mỗi
sự vật hiện tượng đều có mối quan hệ khăng khít giữa bên trong và bên ngoài cũng
như trong mọi cuộc cách mạng muốn giành thắng lợi thì phải biết kết hợp sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế. Chính tư tưởng biện chứng về mối liên hệ bên
trong và bên ngoài đã được Đảng ta vận dụng vào sách lược kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc và trong quá
trình đổi mới từ 1986 đến nay.

2- tư tuởng hồ chí mih.
Năm 1958 thực dân pháp nổ súng xâm lược nước ta. Sau khi pháp xâm lược
và đô hộ, xã hội Việt Nam chuyển sang biến nhanh chóng từ xã hội phong kiến trở
thành xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Cũng từ đây xã hội Việt Nam lâm vào thời
kỳ đen tối; nhân dân bị cưỡng bức bóc lột, xã hội Việt Nam đeo trên mình ách gông
cùm mà chưa tìm được lối thoát. Nhân dân ta bị dồn tới chân tường tiếng khóc, kêu
than trong khắp thôn cùng ngõ hẻm. "Có áp bức thì có đấu tranh "hàng loạt các cuộc
đấu tranh đã diễn ra từ Bắc đến Nam nhưng máu vẫn đổ xuống mà dân tộc vẫn chìm
trong đêm tối. Lịch sử đã khảo nghiệm rất nhiều các cương lĩnh cứu nước khác


nhau, nhưng đám mây đen vẫn bao phủ trên bầu trời Việt Nam, cách mạng Việt
Nam như người đi trong đêm tối không có ngọn đuốc soi đường chỉ lối.
Trước tình hình đó, vì vận mệnh của dân tộc Nguyễn ái Quốc đẫ ra đi tìm
đường cứu nước. Mặc cho sóng gió bôn ba, nguy hiểm vây quanh người vẫn khắc
phục và vượt qua để quyết tâm đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc. Trải qua
thực tiễn cách mạng thế giới qua tìm tòi nghiên cứu đã tìm thấy "cẩm nang thần
kỳ"đó chính là lý luận chủ nghĩa Mác- Lê Nin về cách mạng giải phóng dân tộc , về

sự kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm mọi biện pháp để từng
bước truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê Nin về nước . Đễn những năm 40 của thế kỷ XX
người đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Sự lãnh đạo ,tác phong
và những lời dạy của Người được tập hợp lại thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam trở thành "cẩm
nang thần kỳ" thứ 2 cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.Cùng với chủ nghĩa Mác - Lê
Nin ,tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một trong những tư tưởng nổi bật đó là sự kết
hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế, cụ thể :
2.1- Ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã nhận thấy được sức mạnh to lớn khi
nhân dân trong nước và trên thế giới đoàn kết lại người đã thấy được sức mạnh khi
nhân dân trên khắp năm châu đoàn kết. Tháng 9 . 1919 trong bài Đông Dương và
Triều Tiên người đã chỉ rõ : "Thế giới sẽ chỉ có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả
các dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc chủ
nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp."
ở nước ta cũng vậy khi lãnh đạo cách mạng người đã thấy rằng nếu toàn dân
đoàn kết sẽ tạo thành sức mạnh có thể chiến thắng được bất kỳ một tên xâm lược
nào. Ngưòi khảng định:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong".
Từ đó người cho rằng khi nhân dân đoàn kết thì mọi việc đều có thể giải
quyết : "Đoàn kết, đoàn kết đại đoàn kết, thành công thành công ,đại thành công."


Người luôn luôn quán triệt rằng trong cách mạng của mọi thời đại thì lực
lượng của nhân dân, của dân tộc là lực lượng quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng. Cũng chính từ đó mà theo người việc xây dựng lực lượng trong nước có ý
nghĩa quyết định tới sự thành bại của cách mạng, nó có ý nghĩa quyết định để các
dân tộc tự bản thân mình mà giải phóng: "tự giải phóng cho ta."theo người: "muốn
cho người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp mình đã." Và trong xây dựng

xã hội mới thì theo người: "sự giúp đỡ của các nước là quan trọng nhưng ta phải tự
lực cánh sinh."
Như vậy sự đoàn kết toàn dân, tinh thần tự lực tự cường nó là một vấn đề
chiến luợc , có ý nghĩa sống còn, lâu dai, nó quyết định sự hưng vọng, phồn thịnh
của đất nước, cũng như nó quyết định đến thành bại của cách mạng trong mọi thời
đại. Nhưng để thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết thì theo người cần phải lấy dân
làm điểm tựa cho mọi chính sách, mọi chủ trương, mọi việc làm phải xuất phát từ
nguyện vọng của nhân dân. theo người: "Nước mà được độc lập nhưng dân không
có tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì."
Tư tưỏng lấy dân làm gốc là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình hoạt động
của người, tư tưởng đó nằm trong đức trí sáng tạo cao vời nằm trong khát vọng tột
bậc của người. Người nói: "cả đời tôi chỉ có một ham muốn, một ham muốn tột bậc
là làm sao nhân dân ta được no ấm, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành." chính vì vậy theo người; nếu một nước nào một dân tộc nào làm tốt
được cho dân, được lòng dân thì chính sách đại đoàn kết dân tộc đó sẽ dễ thực hiện
hơn khi cần thiết.
2.2 Từ tư tưởng đại đoàn kết mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra nguyên tắc kết hợp
chặt chẽ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, trong các bước ngoặt phát triển của cách
mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn đứng trên tuyến đầu của mặt trận đối ngoại.
Người là trí tuệ lớn sáng tạo ra đường lối quốc tế, chính sách đối ngoại độc lập tự
chủ, tăng cường đoàn kết quốc tế của cách mạng nước ta. Hồ chí Minh là người mở
đường và kiến trúc sư xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại về tư tưởng,


chính sách, nghệ thuật về tổ chức, chỉ đạo triển khai trong hoạt động thực tiễn cách
mạng.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, người đã sớm nhận thức được thời đại
và sức mạnh của thời đại. Vận dụng lý luận Mác -Lê Nin và thực tiễn cách mạng
trên thế giới người đã khảng định sức mạnh của thời đại là một nhân tố quyết định

tới sự phát triển hợp quy luật của lịch sử, nó làm cho chế độ tư bản chủ nghĩa nhất
định sẽ biến đổi thành xã hội chủ nghĩa. Hồ chí Minh chỉ rõ: hiện nay thế giới đang
bước sang một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội vì vậy theo người sức mạnh của thời đại chúng ta là sức mạnh của giai cấp vô
sản:'Quan sơn muôn dặm một nhà; bốn phương vô sản đều là anh em."
Từ đó theo Hồ Chí Minh để nhân loại phấn đấu tiến tới một hành tinh hoà
bình tự do thì cần phải có sự đoàn kết quốc tế rộng rãi giữa nhân dân các nước
thuộc địa và phụ thuộc với nhau, giữa nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc với
giai cấp công nhân, nhân dân lao động ở các nước tư bản đế quốc, giữa giai cấp vô
sản toàn thế giới, nhằm tập hợp mọi mọi lực lượng đấu tranh cho mục tiêu hoà bình,
độc lập dân tôc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vì vậy khi phát biểu tại "Đại hội quốc tế
Cộng sản lần thứ V"ngày 23- 6- 1924, người đã chỉ ra: " song tôi thấy rằng hình
như các đồng chí chưa hoàn toàn thấm nhuần tư tưởng cho rằng, vận mệnh của giai
cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm
lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa." [ 3,
273]
Khi đã nhận thức sâu sắc về thời đại và sức mạnh của thời đại, nhận thức rõ
chiều hướng đi lên lên tất yếu của các dân tộc, Hồ Chí Minh chủ động đưa dân tộc
ta đi theo chiều hướng phát triển chung của nhân loại. Người tiến hành đưa cách
mạng Việt Nam hoà vào dòng chảy chung của cách mạng thế giới. Người đã xác
định:'Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản."Đây là công lao đầu tiên của Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt
Nam cũng như đối với các dân tộc bị áp bức khác, chính Người đã gắn cách mạng
giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản. cách mạng Việt Nam muốn thành công
thì không được tách ra khỏi dòng chảy chung của thế giới, phải là một bộ phận của


cách mạng thế giới, Người nói: "Chúng ta làm cách mạng thì cũng phải liên lạc với
tất cả các đảng cách mạng trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa."
[ 4, 218]. Cũng vì thế mà ngay từ đầu những năm 1930 người đã xác định: "Cách

mạng thế giới có liên hệ mật thiết với cách mạng An Nam” và "trong khi tuyên
truyền cái khẩu hiệu nước nam độc lập, phải đồng thời tuyên truyền và thực hành
liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp
Pháp." [5, 3]. đó chính là con đường cách mạng vô sản , là sự kết hợp độc lập dân
tộc với chủ nghĩa xã hội , cụ thể là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại theo phương châm thế giới đoàn kết vì hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Lê Nin đã chỉ ra rằng:'Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm của
thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm, chi tiết của nước này hay
nước nọ và định ra phương hướng hoạt động."ở đây sự kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại là một tư tưởng nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chính tư tưởng về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế đã làm nên sức mạnh
để giải phóng nưóc nhà vào năm 1945 và mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất
cùng nhau đi lên Chủ nghĩa xã hội: "chính vì đã biết kết hợp phong trào cách mạng
nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế và các dân tộc bị
áp bức mà Đảng ta đã vượt qua được mọi khó khăn đưa giai cấp công nhân và nhân
dân ta đến những thắng lợi vẻ vang như ngày nay." [6, 19].
Tư tưởng hồ chí Minh không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp giải
phóng đất nước ta mà còn có ý nghĩa to lớn đại nghiệp hoà bình thế giới. Như
Amet:Giám đốc UNESCÔkhu vực Châu á - Thái Bình Dương nhận xét:' Người sẽ
được ghi nhớ không phải chỉ là người cho tổ quốc và nhân dân đi đô hộ, mà còn là
một hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hi vọng mới cho những người
đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất
này. " [7, 37]. Trong nghị quyết của UNESCÔ về tổ chức kỷ niệm 100 năm ngày
sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh, khẳng định: "Những tư tưởng của người là hiện
thân của những khát vọng, của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc
mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiêủ biết lẫn nhau". Tiến sĩ Triết học Liên
Xô V. G Burop khẳng định: "Cần nhấn mạnh rằng Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa


Mác - LêNin, không phải như đến với một hiện tượng của nước Nga thuần tuý, mà

thấy ở đó kết quả mang tính quy luật của sự phát triển tư tưởng giải phóng của thế
giới". [8, 310].
Với nước ta: "Toàn bộ những tư tưởng của Hồ Chí Minh về hoạt động ngoại
giao như biết đánh giá, dự báo tình hình, nắm bắt thời cơ, tổ chức lực lượng, nhận
rõ bạn thù, tranh thủ sự đồng minh, cô lập kẻ thù chủ yếu, kiên định về nguyên tắc,
linh hoạt về sách lược, biết thắng từng bước để tiến tới thắng lợi hoàn toàn, độc lập
tự chủ gắn liền với đoàn kết quốc tế, là di sản quý báu đối với chúng ta trong hoạt
động ngoại giao để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". [9, 55].
Trải qua sự bào mòn của thời gian nhưng chủ nghĩa Mác - LêNin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế vẫn có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Chủ nghĩa Mác - LêNin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận không thể tách rời, tạo nên nền tảng tư tưởng
kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Để cho nền tảng của
Đảng ngày một vững chắc, cách mạng Việt Nam không đi chệch hướng chúng ta
cần nghiên cứu vận dụng sáng tạo, phát triển cũng như phải đấu tranh bảo vệ chủ
nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế quốc tế mới.
II. truyền thống kết hợp kết nhân tố dân tộc và quốc tế của đảng cộng
sản việt nam trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ.
1 . quan điểm về sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế của đảng khi mới
thành lập.
Sự kết hợp hai yếu tố dân tộc và quốc tế là một truyền thống đã có từ lâu đời
của cha ông. Ngay từ khi mới thành lập Đảng ta đã biết kế thừa và phát huy truyền
thống đó . được sự chỉ đạo của Nguyễn ái Quốc và được sự chiếu rọi của chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, cho nên ngay từ khi thành lập Đảng đã có những quan điểm đúng đắn
về sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong cách mạng Việt Nam.
Trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Đảng đã biết phát huy sức mạnh
của toàn dân, phát huy sức mạnh của các giai tầng đã giác ngộ cách mạng. Đảng ta


đã biết phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực để tạo lên sức mạnh dân tộc chiến thắng

kẻ thù, điều đó được thể hiện trong các cương lĩnh của đảng.
Trong cương lĩnh của Đảng năm 1930 xác định:" Đảng là đội tiên phong của
vô sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình Đảng phải thu
phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa
cách mạng Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh
niên, tân việt để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp." [10, 69].Để thực hiện chính
sách đó Đảng ta luôn luôn phấn đấu vì hoà bình, tự do, vì tiến bộ xã hội,luôn luôn
kiên định lập trường của giai cấp công nhân:"không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền
lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác." Tất cả mọi
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều dựa trên lợi ích, nhu cầu nguyện
vọng của quần chúng nhân dân lao động.
Từ chiến lược phát huy đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ của
toàn thể dân tộc phải đoàn kết với quốc tế. Cũng như chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng
xác định cách mạng Việt Nam nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản thế giới.
Trong chính cương vắn tắt Đảng xác định : "chủ trương làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản." [12,67] và thực hành liên lạc
với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là giai cấp vô sản pháp." [12,
70].Đến luận cương chính trị đảng xác định:" vô sản Đông Dương phải liên lạc mật
thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản pháp để làm mặt trận vô sản "mẫu quốc" và
thuộc địa cho sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên." [13, 89] .
Như vậy ngay từ những ngày đầu nhờ có chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà Đảng ta sớm nhận thấy được sức mạnh to lớn của sức
mạnh của sự kết hợp nhân tố dân tộc và thời đại; Đảng ta đã thấy được sự cần thiết
phải kết hợp nhân tố dân tộc và thời đại trong cách mạng Việt Nam. Đây là là quan
điểm đúng đắn, quan trọng để Đảng đề ra đường lối chỉ đạo đúng đắn trong các
cuộc đấu tranh cách mạng, cũng chính nhờ đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc và
sức mạnh thời đại đã làm cho Đảng khẳng định được vị trí lãnh đạo duy nhất của
mình. Vì vậy Đảng với sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế ngay từ khi mới thành
lập, đã đóng một vai trò quyết định vào sự thành công của cách mạng tháng 8. 1945.



Sau khi cách mạng thành công ngay từ khi mới thành lập, dưới sự lãnh đạo của
Đảng chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố:"Đối với tất cả các
nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tha thiết mong muốn duy trì
tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng
hoà bình thế giới lâu dài." [14, 47]
2 - vài nét về sự kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại của đảng ta trong hai
cuộckháng chiến chống pháp và mỹ.
2.1 - thời kỳ chống thực dân pháp
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm luợc nước ta, nhân dân ta đã hết sức căm
phẫn bởi sự bóc lột dã man, tàn ác của chúng . Bởi vậy mọi giai tầng cụ thể là :"sĩ
,nông ,công, thương, đều nhất trí chống lại cường quyền." Sau khi thành lập Đảng
đã nhận thấy được điều đó và Đảng đã có những chủ trương cần thiết để kết hợp sức
mạnh của sĩ, nông, công, thương với sức mạnh quốc tế nhằm mục tiêu giành độc lập
:' cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới , ai làm cáh
mạng thế giới đều là đồng chí của dân An Nam cả." [15.301]. Đảng đã nhận thấy
được: "nguyên nhân đầu tiên gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông đó là
sự đơn độc." Chính vì vậy Đảng đã biết kết hợp một cách khôn khéo sức mạnh dân
tộc và quốc tế , tạo sức mạnh để đánh đuổi thực dân Pháp đem lại độc lập tư do cho
nhân dân .
Trước cách mạng tháng 8. 1945 sự giúp đỡ của quốc tế đối với nhân dân ta
chưa có, nhưng Đảng và Bác Hồ đã nắm chắc tình hình diễn biến trên thế giới vận
dụng sức lực tự cuờng để xây dựng lên sức cách mạng, chính sách chủ yếu thời kỳ
này là đẩy mạnh đoàn kết toàn dân,xây dựng sức mạnh tự lực tự cường. Theo Bác
Hồ:"một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập."
[16, 522]. Chính sự kết hợp khôn khéo đó mà chúng ta đã chiến thắng kẻ thù :
"Chúng ta chưa có chính quyền, chưa có quân đội chính quy, mặt trận dân tộc còn
nhỏ hẹp và bí mật, nghĩa là sức ta rất thiếu thốn,nhưng vì ta khéo lợi dụng điều kiện
quốc tế ở ngoài, vì ta khéo đoàn kết, khéo động viên trong nước, cho nên ta đã đổi



thế yếu thành thế mạnh, đã thắng ba kẻ địch, đã đưa cách mạng đến thắng lợi , độc
lập , đến thành công." [17,80]
Sau cách mạng tháng 8 thành công nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
Thực dân Pháp quay trở lại hòng cướp nước ta một lần nữa. Thời kỳ này cách mạng
Việt Nam đã có sự ủng hộ của quốc tế nhưng chưa nhiều. Vì vậy Đảng và Bác Hồ
vẫn tiến hành xây dựng sức mạnh cáh mạng theo phuơng châm dựa vào thực lực là
chính ,theo Bác Hồ: "nếu tự mình không có thực lực làm cơ sở thì thì không thể nói
gì đến ngoại giao ." theo Đảng "muốn ngoại giao được thắng lợi phải biểu dương
thực lực ."[18,32]
Như vậy thời kỳ ban đầu khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời thì tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính là một điều kiện tiên quyết , quyết định sự
sống còn của cách mạng :"tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài , rồi đây
sẽ có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất vũ khí , trang bị , ta sẽ
đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi phải do sự nỗ lực của chính bản thân
ta quyết định ." [19, 82]. Lúc này theo đại tướng Võ Nguyên Giáp :"Vô luận cuộc
kháng chiến Triều Tiên sẽ phát triển như thế nào , kết quả như thế nào chúng ta vẫn
phải ra sức chuẩn bị lực lượng của ta cho đầy đủ, lấy tự lực cánh sinh làm gốc, để
ứng phó với mọi phát triển của tình hình, dù tình hình ấy thuận lợi hay gay go ta
vẫn chủ động" [20;414]
Dưới sự chỉ đạo đó nhân dân ta đã đoàn kết chiến đấu theo tinh thần : mỗi
người dân là một chiến sĩ, mỗi làng mỗi khu phố là một pháo đài, ai có súng dùng
súng, ai có gươm dùng gươm, không có guơm không có súng thì dùng gậy gộc,
cuốc, xẻng toàn thể đồng bào hãy đứng dậy không phân biệt già trẻ gái trai, tôn
giáo, đảng phái, hễ là người Việt Nam hãy đứng dậy cầm vũ khí để cứu nước. Một
lần nữa ý chí quật cường với lòng tự tôn dân tộc lại vùng dậy tạo nên sức mạnh để
chiến thắng quân thù .
Cùng với tự lực tự cường thì Đảng đã sử dụng chính sách ngoại giao mềm
dẻo, theo Hồ Chí Minh: "phải giữ nguyên tắc cứng rắn với sách lược , lạt tuy mềm

nhưng phải buộc chặt." Vì vậy vừa mới ra đời chính phủ nước Việt Nam Dân chủ


Cộng hoà đã nêu rõ thiện chí đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam nhằm tranh thủ
sự đồng tình ủng hộ của nhân thế giới: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai."Ngay từ đầu cuộc kháng chiến trong
hoàn cảnh vô cung khó khăn và thiéu thốn , chính phủ Việt Nam vẫn chủ động triển
khai các hoạt động quốc tế để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới
với cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược:"phải luôn nêu cao thiện chí chính
nghĩa, nỗ lực vãn hồi hoà bình," "phải lợi dụng hết khả năng ngoại giao làm cho
cuộc đổ máu Việt - Pháp rút ngắn lại"
Vì vậy trong thư gửi tướng Leclerc ngày 1.1.1947 Bác Hồ viết:" ngài là một
đại quân nhân , là một nhà đại ái quốc một người ái quốc trọng những người ái
quốc nước khác. Một người yêu quê hương mình , trọng quê hương của kẻ khác
lừng danh với những chiến công , ngài lại đi đánh một dân tộc chỉ muốn độc lập
thống nhất quốc gia, và một nước chỉ muốn hợp tác như anh em với nưcớc ngài
sao? Phải chăng đó là công việc bạc bẽo và đau đớn." Nhân dân Việt Nam cần có
hoà bình, độc lập vì vậy : “với Pháp rất đơn giản là chính phủ Pháp buộc phải công
nhận nền độc lập của Việt Nam. Được thế mọi vấn đề khác có thể giải quyết một
cách dễ dàng." [22; 38]
Tóm lại :"độc lập của Việt Nam luôn nhờ nơi lực lượng của Việt Nam.";
"Việt Nam sẽ hợp tác với mọi nước vui lòng hợp tác thật thà và bình đẳng với Việt
Nam." Đây chính là sự kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc tế của Đảng và Bác Hồ
trong thời kỳ lúc bấy giờ. Chính sự kết hợp khôn khéo và mềm dẻo đó của Đảng mà
nước ta đã nhận được sự chi viện về vật chất và tinh thần của rất nhiều nước trên
thế giới nhờ sự ủng hộ của nhân dân thế giới cùng với tinh thần tự lực tự cường
chúng ta đã làm nên chiến thắng chấn động địa cầu 1954 - chiến thắng Điện Biên
Phủ. Vì vậy Hồ Chí Minh đã nói:"Hoà bình được lập lại, nhân dân Việt Nam sẽ đem
hết sức mình xây dựng lại tổ quốc để biến nó thành một nước thống nhất, hoà bình,
độc lập, dân chủ, phồn vinh, có quan hệ hữu nghị với tất cả các dân tộc hoà bình,

tiến bộ trên thế giới." [22; 428]
2.2 thời kỳ kháng chiến chống mỹ.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ thắng lợi, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
miền Nam bị đế quốc Mỹ xâm chiếm. Đế quốc Mĩ dựng lên ở miền Nam chế độ
ngụy quyền sài gòn, độc lập giả hiệu. Nhân dân ta phải bước sang cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, nhưng không phải vì thế mà sự kết hợp sức mạnh và quốc tế lại
không được Đảng ta vận dụng , trái lại nó còn tầm quan trọng hơn lúc nào hết :"
Dân tộc Việt Nam phải vạch rõ những phương pháp và những biện pháp riêng của
mình trong cuộc đấu tranh chống những âm mưu của bọn đế quốc Mĩ và chính
quyền miền Nam Việt Nam hòng vĩnh viễn chia cắt đất nước chúng tôi, và cả trong
cuộc đấu tranh để dần dần quá độ lên Chủ nghĩa xã hội , điều đó thật rõ ràng không
thể nào hạn chế những hoạt động hiện nay và tương lai của chúng tôi trong khuôn
khổ dân tộc thuần tuý, rằng những hoạt động đó có muôn ngàn sợi dây liên hệ với
cuộc đấu tranh chung của thế giới tiến bộ, rằng sự đoàn kết thực sự của phe xã hội
chủ nghĩa và các dân tộc yêu chộng hoà bình trên thế giới đối với chúng tôi cũng
cần thiết không kém gì trước kia." [23; 595].
Xuất phát từ tầm quan trọng của sự kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cho nên về đại đoàn kết dân tộc Đảng xác định;
phải huy động sức lực trong nước là chính trong đó miền Bắc tiến hành xây dựng xã
hội chủ nghĩa , là hậu phương vững chắc của tiền tuyến, còn miền Nam phải tiếp tục
tiến hành kháng chiến chống Mĩ . có thể nói trong thời kì này Đảng ta đã huy động
tất cả những gì dù là nhỏ nhất ở trong nước để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống
Mĩ ở miền Nam. Vì vậy nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ra sức thi đua sản
xuất, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Chưa bao giờ yếu tố dân tộc lại có thể phát huy
một cách mạnh mẽ như thế. Nhân dân ta luôn thi đua đoàn kết theo tinh thần .”Tất
cả cho tuyền tuyến”, “vì miền Nam ruột thịt”, “lá lành đùm lá rách”, “thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tay cầy, tay súng “,”tay búa, tay
súng”….sức mạnh nội lực, tự lực cánh sinh trong cuộc cách mạnh nào cũng rất quan

trọng nhưng đến thời kỳ này dường như nó được nở rộ hơn bao giờ hết. Bác Hồ khi
nói về ngoại giao đã chỉ rõ:”về chính trị , quân sự, kinh tế, nội chính ngoại giao của
ta là tự lực cánh sinh. Phải hiểu thấu đáo vấn đề này không thì sẽ đi siêu vẹo ngay
đấy.”


Cùng với chính sách đoàn kết dân tộc Đảng đã chủ động kết hợp với sức mạnh
quốc tế nhằm tạo sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Trong cuộc kháng chiến chống mĩ
đảng đã xác định “…. Cùng với đoàn kết dân tộc, trên mặt trận ngoại giao phương
châm của ta là giương cao ngọn cờ độc lập hoà bình, đề cao chính nghĩa, thế tất
thắng của ta, khoét sâu chỗ yếu của địch về chính trị, tập hợp lực luợng hình thành
mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi ủng hộ, chi viện cuộc kháng chiến chống Mĩ của
nhân dân ta.” “ta cần gắn cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta với cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới,vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội,
và sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa.”
Trong khi kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế tạo ra sức mạnh để
kháng chiến chống Mĩ, Đảng xác định các chính sách lớn thích hợp trên mặt trận
ngoại giao để tăng cường vị thế của nước ta trên trường quốc tế cũng như để tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước bạn trên thế giới về vật chất và tinh thần. Vì thế Đảng
đã tiến hành xây dựng quan hệ đoàn kết hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc, Liên Xô
và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa,tăng cường đoàn kết hợp tác trong phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, đồng thời tham gia phong trào của các lực
lượng tiến bộ thế giới đấu tranh bảo vệ hoà bình thế giới, chống các thế lực đế quốc,
thực dân hiếu chiến, và vì các quyền dân sinh dân chủ và tiến bộ xã hội. Căn cứ
vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước mà Đảng đã đề ra nhiệm vụ như sau: đối với
miền Bắc, Đảng chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại và tranh thủ sự giúp đỡ của
các nước trên thế giới nhằm phục vụ công cuộc xây dựng miền Bắc. Đối với cách
mạng miền Nam, Đảng chủ truơng tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc
chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc.
Với đường lối khéo léo, phù hợp đó Đảng ta đã tạo ra một sức mạnh to lớn

làm nên đại thắng lợi mùa xuân 1975. Sự kết hợp sức mạnh dân tộc và quốc tế là
đường lối, hướng đi đúng đắn sáng tạo của Đảng và dân tộc Việt Nam. Cho đến
ngày nay chiến tranh đã đi qua , đất nước đã hoà bình, nhân dân no ấm, tin tưởng
vào tương lai, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn không quên được vai trò to lớn của
Đảng, sự giúp đỡ to lớn về cả vật chất và tinh thần của các nước trên thế giới, đặc
biệt là sự giúp đỡ của Liên Xô (cũ), Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh


em. Đúng như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói trong: Hội nghị về tinh hình quốc tế và
nhiệm vụ đối ngoại của đảng lao động Việt Nam: ….”mục đích của ta là đoàn kết,
vì đoàn kết mà phải tranh đấu. Tranh đấu để đi đến đoàn kết chứ không nói xấu
ai…. Phải làm sao trong Đảng và nhân dân giữ được lòng yêu mến và biết ơn các
nước bạn bè anh em … đó là” thiên kinh định nghiĩa”, đồng thời không nên coi sự
bất đồng là chuyện lạ.”
Sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế đã tạo ra sức mạnh để đánh thắng hai đế
quốc Pháp và Mĩ, vì vậy trong thời kỳ đổi mới Đảng phải kết hợp hai nhân tố dân
tộc và quốc tế như thế nào.
Mỗi con người chúng ta không thể sống riêng lẻ, muốn phát triển và hoàn
thiện mình thì phải sống hoà đồng với xã hội. Đất nước hay dân tộc nào cũng vậy
không quan hệ với bên ngoài, không biết kết hợp sức mạnh dân tộcvà thời đại, chỉ
sống khép kín thì sẽ bị cô lập, tụt hậu so với sự phát triển chung của thế giới. Vì vậy
để đất nước hay quốc gia phát triển về mọi mặt phải mở cửa giao lưu với bên ngoài
cùng với huy động sức lực trong nước. Đồng chí Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ : “đóng
cửa không quan hệ với nước ngoài lâu dài đã làm cho Trung Quốc nghèo khổ, lạc
hậu, ngu muội, không biết gì”,[26, 412]
Đã có một thời kỳ chúng ta đóng cửa không quan hệ với các nước tư bản chủ
nghĩa, chỉ quan hệ vói các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Nhưng đến những
năm 1980 Đảng đã thức tỉnh và Đảng đã tiến hành đổi mới vào năm 1986. Đảng
xác định: kết hợp hai nhân tố dân tộc và quốc tế trong thời kỳ đổi mới là một tất
yếu để đưa đất nước phát triển. Như đồng chí Ttrường Chinh đã nói:”Thế giới ngày

nay đang nhanh chóng đổi mới, chủ nghĩa xã hội phải phấn đấu để chứng minh tính
ưu việt của mình so với chủ nghĩa tư bản trên thực tế. Đối với cộng đồng các nước
xã hội chủ nghĩa đổi mới là con đường vươn lên đáp ứng đòi hỏi của thời đại, đáp
ứng những nhu cầu chính đáng và ngày càng cao của nhân dân.Đối với nước ta đổi
mới cũng là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn, yêu cầu đó
vừa là đòi hỏi bên trong của nước ta, vừa phù hợp với xu thế đổi mới của thời đại. “


Từ yêu cầu khách quan đó trong tình hình mới đòi hỏi đảng và nhà nước ta
phải có đường lối chính sách đúng đắn về sự kết hợp nhân tố dân tộc và quốc tế
trong sự nghiệp đổi mới để tiếp nối và phát triển truyền thống, bài học về sự kết hợp
hai nhân tố dân tộc và quốc tế thời kì cách mạng dân tộc dân chủ

















CHƯƠNG II:

Đảng với sự kế hợp nhân tố dân tộc và quốc tế
trong cách mạng Việt Nam thời kì đổi mới

A- thực trạng đất nước trước 1986.
Sau cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi, cả nước bắt tay vào công
cuộc xây dựng đất nước, hàn gắn vết thương chiến tranh. Thời kì năm 1976-1985 là
thời kì đất nước phải đối phó với rất nhiều khó khăn, nhưng dưới sự lãnh đạo của
Đảng nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng.
1- Thành tựu
Thời kì 1976-1980 là thời kì khó khăn nhất. Trong thời gian này do sự phấn
đấu nỗ lực lên ta đã khắc phục được những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại,
do thiên tai ngây ra. Các cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải bị địch
bắn phá về cơ bản đã được phục hồi và bước đầu phát triển. Về nông nghiệp đại bộ
phận nông dân miền Nam đi vào con đường làm ăn tập thể, tham gia các hình thức
tổ chức sản xuất phù hợp như tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất, hợp tác sản
xuất.
Thời kỳ 1981-1985 Trung ương đảng và Bộ chính trị đã theo dõi tình hình và
đưa ra nhiều quyết định rất quan trọng nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách gây
trở ngại lớn đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội được đề ra. Vì vậy thời
kỳ này trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã ngăn chặn được đà giảm sút
của những năm 1979-1980. Về quan hệ đối ngoại ta cũng đạt được một số thành
tựu: Nhân dân ta được nhiều nước trên thế giới công nhận độc lập, ta tiếp tục nhận
được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Như vậy sau chiến tranh ta đã nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt nhà
nước, thiết lập được hệ thống chế độ mới trong cả nước và đã áp dụng một loạt
chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt tạo nên cuộc sống hoà
hợp dân tộc làm cho lực lượng cách mạng nước ta lớn hơn bao giờ hết. Chúng ta đã


phát huy có hiệu quả sức mạnh dân tộc và quốc tế trong công cuộc hàn gắn vết

thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dưng xã hội chủ nghĩa và
bảo vệ tổ quốc.
2-Khó khăn :
Đất nước sau 10 năm xây dựng vẫn là nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu
những thành tựu đạt được mặt kinh tế còn thấp so với yêu cầu đề ra trong kế hoạch
và chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Mặt khác thu nhập quốc dân chưa bảo đảm
được tiêu dùng xã hội, chưa tạo ra được tích luỹ từ bên trong. Nguồn lực kinh tế
trong nước chưa tạo được bước nhảy cần thiết để tạo tiền đề cho những bước nhảy
tiếp theo. Trong nước tình trạng cầu lớn cung; hàng hoá, lương thực khan hiếm, vải
mặc và các hàng tiêu dùng đều thiếu, đói khổ, nạn thất nghiệp, tệ nạn xã hội thường
xuyên đe dọa tới cuộc sống yên bình của nhân dân, làm giảm lòng tin của dân với
Đảng, giảm uy tín của Đảng với dân. Nền kinh tế xã hội khủng hoảng một cách
trầm trọng.
Trong thời gian này tài nguyên của đất nước chưa được khai thác tốt, phân
phối lưu thông rối ren, căng thẳng. Những mặt mất cân đối lớn trong nền kinh tế
chậm được thu hẹp, có mặt lại ngay ngắt hơn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
chậm được củng cố và vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc doanh suy yếu.Bộ máy
nhà nước cồng kềnh, hoạt động thiếu hiệu quả tình trạng tham ô, tham nhũng, hối
lộ, hoang phí xảy ra thường xuyên. Đảng chậm đổi mới vai trò lãnh đạo của mình
với vai trò hành pháp của Nhà nước, thời gian này Đảng là cơ quan siêu quyền lực,
có khi Đảng quyết định và làm thay cả Nhà nước. Đặc biệt thời gian này ta chưa có
được những mối quan hệ quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước.
3-Nguyên nhân
Về mặt khách quan: nước ta vốn xuất phát điểm từ nền kinh tế nông nghiệp
nghèo nàn và lạc hậu, nền kinh tế nước ta phổ biến là sản xuất nhỏ cơ sở vật chất kỹ
thuật còn quá yếu, năng lượng vật tư ngoại tệ thiếu nghiêm trọng thiên tai liên tiếp
xảy ra.Nước ta phải gánh chịu những hậu quả của chiến tranh lâu dài của chủ nghĩa
thực dân thêm vào đó là sự tăng cường phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch.



Về mặt chủ quan: do quan niệm chưa đúng về chủ nghĩa xã hội cho nên Đảng
chủ quan, nóng vội,bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tê, cải tạo xã hội chủ
nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực
phân phối lưu thông: đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế-xã
hội trong đấu tranh tư tưởng văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn
phá hoại thâm độc của kẻ thù. Nhìn chung trong thời kỳ 1976- 1985 là thời kỳ sử
dụng mô hình kinh tế cũ mà đặc trưng là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa ( tư bản, cá thể) sớm bị xoá bỏ ở mức cao
và mở rộng trong phạm vi cả nước .
Về đối ngoai: Đảng chưa chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại, đế quốc Mĩ lại
cấm vận nên có tư tưởng đóng cửa khép kín không quan hệ với các nước Tư bản
chủ nghĩa, không khuyến khích đầu tư đối với tư bản nước ngoài xoá bỏ tất cả các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa .Bác Hồ đã dạy: “thắng đế quốc Mĩ và
phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu là khó hơn nhiều.” “chúng ta
không sợ có sai lầm và khuyết đIểm chỉ sợ không chịu cố gắng sữa chữa sai lầm và
khuyết điểm”:
Từ tình hình thực tế của đất nước Đảng đã đánh giá đúng sự thật nói rõ sự thật,
đẩy mạnh phê bình và tự phê bình tiến hành đổi mới toàn diện cho đất nước vào
năm 1986. Đảng cho rằng sự kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại một cách sáng
tạo khôn khéo là một điều cần kíp đối với dân tộc ta trong thời kỳ đổi mới.

B- thời kỳ đổi mới:

Theo đồng chí Trường Chinh:”đổi mới ở Việt Nam là điều rõ ràng nó có
nguồn gốc từ những yếu tố trong nước, đồng thời có quan hệ đến các yếu tố thời
đại. Đổi mới là phát huy những thành quả to lớn mà cách mạng đã dành được, là
sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm đã mắc phải trước đây, là sớm biết phát hiện
và sử lý tốt những vấn đề mới nảy sinh, là phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại

×