Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Khảo sát ngôn ngữ truyện ngắn của nguyễn ngọc tư (trong hai tập truyện ngắn ngọn đèn không tắt và cánh đồng bất tận ) luận văn ths ngôn ngữ học 60 22 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 140 trang )

Đại học quốc gia Hà nội
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn

----  ----

LÊ THỊ CÚC

KHẢO SÁT NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN NGỌC TƯ TRONG HAI TẬP TRUYỆN NGẮN
“NGỌN ĐÈN KHÔNG TẮT” VÀ “CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN”

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
MS: 60 22 01

Người hướng dẫn: GS.TS Hoàng Trọng Phiến

HÀ NỘI - 2008

1


MỞ ĐẦU
1. Tính thời sự
So với nhiều thể loại văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn Việt Nam những
năm gần đây là thể loại phát triển nhanh và có nhiều thành tựu nhất. Sự phát
triển về mặt số lượng đồng nghĩa với sự xuất hiện thêm ngày càng nhiều
những gương mặt mới. Truyện ngắn được nhiều người tìm đọc cho chúng ta
một nhận định rằng tuy người viết mới xuất hiện nhưng những nỗ lực sáng tạo
của họ đã nhanh chóng thuyết phục được độc giả.
Trong số những nhà văn trẻ xuất hiện đầu thế kỉ 21, Nguyễn Ngọc Tư là
một tác giả tiêu biểu góp phần làm thay đổi diện mạo truyện ngắn trong thế kỉ


này. Nguyễn Ngọc Tư được biết đến không chỉ do sức viết khoẻ mà còn ở
mức độ trưởng thành trong phong cách viết. Năm 2005 tác phẩm “Cánh đồng
bất tận” của chị đã gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước, trở thành hiện
tượng văn học của năm 2006.
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đã nhanh chóng gây sự chú ý, thu hút
đối với độc giả và giới phê bình. Có ý kiến cho rằng truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư hấp dẫn độc giả ở cái đẹp dân dã, mộc mạc mang tính địa phương
được thể hiện hết sức tinh tế. Chính cái đẹp ấy đã gợi lên trong lòng người xa
xứ nỗi nhớ quê hương da diết. Cũng chính cái đẹp ấy lại khiến những người
chưa một lần đặt chân đến vùng đất của Nguyễn Ngọc Tư phải tò mò tìm đến.
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư còn hấp dẫn bởi chất Nam bộ thấm đẫm
trong ngôn ngữ tác phẩm khiến cho không gian Nam bộ hiện lên chân thực và
sống động tới mức "rưng rưng từng con chữ”. Sự lạ hoá kết cấu văn bản cũng
làm tăng hiệu quả của lối kể chuyện dung dị, hấp dẫn rất Nguyễn Ngọc Tư.
Đã có một số công trình bắt đầu nghiên cứu thế giới nghệ thuật và phong
cách của Nguyễn Ngọc Tư như khoá luận tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ của
Trần Thị Thu Hảo, năm 2006: “Ngôn ngữ đối thoại trong tập truyện ngắn
Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư và tiểu thuyết Giàn thiêu của Võ Thị
Hảo", và của Hoàng Thị Thanh, năm 2007: “Khảo sát phương ngữ Nam bộ
2


trong tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư”. Song
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt ngôn ngữ đối
với các tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Khảo sát ngôn ngữ truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư trong hai tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt và Cánh
đồng bất tận”, nhằm đem đến một số kiến giải tương đối toàn diện về đặc
trưng ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư. Chúng tôi sẽ tiến hành
khảo sát kết cấu truyện ngắn, ngôn ngữ kể chuyện và cách thức sử dụng từ

ngữ Nam bộ trong các tác phẩm của hai tập truyện ngắn “Ngọn đèn không
tắt” và Cánh đồng bất tận. Từ đó, bổ sung và luận giải những phê bình của
độc giả.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
2.1 Mục đích
Luận văn đưa ra những kết quả đáng tin cậy về đặc trưng ngôn ngữ
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư về đặc điểm kết cấu truyện ngắn, đặc điểm
ngôn ngữ kể chuyện, và đặc điểm về việc sử dụng từ ngữ trong truyện. Trên
cơ sở đó, luận văn đóng góp ngữ liệu giúp định vị phong cách nhà văn trẻ
Nguyễn Ngọc Tư.
2.2 Nhiệm vụ
Chúng tôi cần hoàn thành các công việc sau:
1) Khảo sát ngôn ngữ truyện ngắn trên bình diện kết cấu trong sự thống
nhất giữa tiêu đề, đoạn văn mở đầu và đoạn văn kết thúc.
2) Khảo sát ngôn ngữ kể chuyện bao gồm: ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ
người kể chuyện, các phương tiện phi ngôn ngữ, đặc điểm câu văn.
3) Khảo sát đặc điểm sử dụng từ ngữ Nam bộ trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư.
4) Đưa ra một số kiến giải về phong cách riêng của nhà văn trẻ Nguyễn
Ngọc Tư.
2.3 Phạm vi nghiên cứu

3


Đối tượng khảo sát của luận văn là hai mươi truyện ngắn trong hai tập
truyện ngắn “Ngọn đèn không tắt” và “Cánh đồng bất tận”. Tập truyện đầu
tay Ngọn đèn không tắt đã được trao giải nhất Cuộc vận động sáng tác văn
học tuổi 20, năm 2000 và tập Cánh đồng bất tận là tập truyện mới nhất và
cũng gây ấn tượng nhất tính tới thời điểm chúng tôi tiến hành khảo sát.

3. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
3.1 Phương pháp thống kê
Luận văn tiến hành thống kê các bộ phận cơ bản và những đặc trưng cơ
bản theo cấu tạo, chức năng và quan hệ của chúng trong truyện ngắn.
3.2 Phương pháp miêu tả
Luận văn áp dụng phương pháp miêu tả để phân tích các đặc điểm về
hình thức, nội dụng, chức năng và quan hệ của các bộ phận cơ bản làm nên
diện mạo ngôn ngữ truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời khái
quát những đặc trưng được coi là cơ bản nhất trong ngôn ngữ truyện ngắn.
3.3 Phương pháp phân tích tu từ
Chúng tôi sử dụng phương pháp tu từ nhằm làm rõ hiệu quả của việc sử
dụng linh hoạt các điểm nhìn trong ngôn ngữ kể chuyện của tác giả. Bên cạnh
đó, phương pháp này cũng giúp ta thấy rõ giá trị của việc thay thế, cải biến
các ngữ khí từ trong phương ngữ Nam bộ với ngữ khí từ tương đương trong
ngôn ngữ toàn dân.
4. Đóng góp của luận văn
Lần đầu tiên, truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư được khảo sát chi tiết về
nghệ thuật biểu hiện ngôn từ. Giúp người đọc cảm nhận một cách trọn vẹn cái
hay trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư, từ hình thức (kết cấu tác phẩm)
đến ngôn ngữ kể chuyện và từ ngữ - thành tố nhỏ nhất tạo nên tác phẩm.
Chúng tôi coi ngôn ngữ kể chuyện là một yếu tố quan trọng trong việc
biểu đạt chủ đề tưởng của tác phẩm. Từ đó, chúng tôi chỉ ra sự sáng tạo trong
ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư.

4


Chúng tôi cho rằng chính việc sử dụng phương ngữ một cách sáng tạo đã
góp phần tạo lên một phong cách rất riêng của Nguyễn Ngọc Tư. Điều này

không chỉ cho thấy tài năng của tác giả mà còn chứng minh khả năng biểu đạt
cũng như giá trị thẩm mĩ của ngôn từ, đặc biệt là phương ngữ khi được đặt
đúng vị trí của nó.
5. Vài nét về tác giả và tác phẩm
5.1 Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1977 tại vùng đất Mũi Cà Mau.
Hiện nay, Nguyễn Ngọc Tư là hội viên hội nhà văn Việt Nam và là biên tập
viên Tạp chí Bán đảo Cà Mau.
Truyện của Nguyễn Ngọc Tư như những bức tranh sống động về thiên
nhiên về cuộc sống của người dân Nam bộ với những dòng sông, những kênh
rạch chằng chịt bao quanh cánh đồng, với những người dân vùng sông nước
giàu tình cảm. Từng trang văn đều mang hơi thở rất riêng, tiếng nói riêng của
người Nam bộ. Nếu mọi người coi văn của Nguyễn Ngọc Tư như là món “đặc
sản đồng bằng Sông Cửu Long” thì đối với nhà văn, đó chỉ như một trái sầu
riêng - thứ trái khó tính chỉ hợp khẩu vị với từng người. Nguyễn Ngọc Tư
không muốn đánh bóng trang văn cũng không cố gắng cầu kì trong cách viết.
Tất cả hiện lên trên trang giấy mộc mạc dung dị như chính cuộc sống đang
diễn ra rất thực trên vùng sông nước Cửu Long.
Nguyễn Ngọc Tư mới chỉ viết nhiều ở thể loại truyện ngắn. Trong truyện
ngắn của mình, chị kể những câu chuyện gia đình, những câu chuyện xã hội
đương thời, của làng, của xã, của huyện trong vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Song chính những câu chuyện dung dị ấy lại làm lên một phong cách
Nguyễn Ngọc Tư không thể trộn lẫn.
5.2 Các tập truyện đã xuất bản
- Ngọn đèn không tắt, (tập truyện, Nxb Trẻ, 2000)
- Ông ngoại, (tập truyện thiếu nhi, Nxb Kim Đồng, 2001); Biển người
mênh mông (tập truyện (tập truyện, Nxb Kim Đồng, 2003)
- Giao thừa (tập truyện, Nxb Trẻ, 2003)
5



- Nước chảy mây trôi (tập truyện và kí, Nxb Văn nghệ Tp. HCM, 2004)
- Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (tập truyện, Nxb Văn hoá Sài Gòn,
2005).
5.3 Giải thưởng
- Giải nhất, Cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mươi lần 2 năm
2000- với tập truyện Ngọn đèn không tắt.
- Giải B, Hội nhà văn Việt Nam năm 2001, với tập truyện ngắn Ngọn
đèn không tắt.
- Tặng thưởng dành cho tác giả trẻ, Uỷ ban Toàn quốc Liên hiệp các hội
VHNT Việt Nam năm 2000, tập truyện Ngọn đèn không tắt .
- Một trong mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm 2003 do Trung ương
Đoàn trao tặng.
- Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2005.
- Giải “Hiện tượng văn học năm 2006”, với tác phẩm “Cánh đồng bất
tận”.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Kết cấu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
Chương 2: Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc

Chương 3: Đặc điểm sử dụng từ ngữ Nam bộ trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư

6


CHƯƠNG 1: KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ
1.1 TIỂU DẪN

Khảo sát ngôn ngữ truyện ngắn của NNT là hướng đi từ hình thức ngôn
từ đến nội dung của truyện. Ngôn ngữ truyện ngắn là một cấu trúc nghệ thuật.
Đơn vị của nó không phải đơn giản là chữ là câu là lời mà còn là hình thức
biểu hiện của người nói, người nghe trong một kiểu giao tiếp, gắn liền với
một mô hình tự sự, có một giọng điệu nhất định. Điều này có nghĩa là khi
nghiên cứu ngôn ngữ truyện ngắn người ta nên chú ý đến hình thức ngôn từ
và hình thức ở đây không chỉ dừng lại ở những câu chữ tài tình riêng lẻ mà
phải nhìn cho ra được những hình thức, những kiểu tổ chức văn bản.
Để làm cơ sở cho việc khảo sát, chúng tôi trình bày một số kiến giải về
kết cấu tác phẩm truyện ngắn.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và
sinh động của tác phẩm, kết cấu thể hiện nội dung rộng rãi phức tạp hơn. Tổ
chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan
bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên
trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể bên trong của tác phẩm. Kết cấu là
phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật; kết cấu phải đảm
nhiệm chức năng đa dạng bộc lộ tốt chủ đề tư tưởng của tác phẩm; triển khai
trình bày hấp dẫn cốt truyện, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả tạo nên
tính toàn vẹn cùa tác phẩm như một hiện tượng thẩm mỹ”. [45]
Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường không được kết cấu theo
trình tự thời gian tuyến tính mà kết cấu theo tâm lí của nhân vật trong truyện
tại một thời điểm sự kiện đang diễn ra.
Chẳng hạn, truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” được kết cấu theo lối vào
ngay tình huống diễn ra cảnh cô gái điếm tên Sương bị đánh ghen, hai chị em
7


Nương-Điền đã cứu Sương thoát khỏi đám người đánh hội đồng và họ chuyển
đến một cánh đồng mới. Ngay sau khi bình phục, Sương lại quyến rũ người
cha của hai đứa trẻ nhưng không thành công. Để động viên, an ủi Sương, hai

đứa trẻ đã kể cho Sương biết lí do tại sao cha không chấp nhận Sương: “Tôi
buộc phải kể câu chuyện của chúng tôi để chị không phải ray rứt gì với thân
phận làm đĩ”. Và tiếp ngay sau đó, câu chuyện được kể theo những cảm nhận
của nhân vật xưng “tôi” về tâm lí của cha mình. Những thay đổi về tâm lí của
người cha đã đẩy hai đứa trẻ đến tột cùng của sự bất hạnh rồi kết thúc.
Tổ chức kết cấu phải làm cho chủ đề tập trung, tư tưởng thống nhất và
thấm sâu vào toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ
nhất, đặc biệt là các thành phần cơ bản của truyện ngắn như: tiêu đề, đoạn văn
mở đầu và đoạn văn kết thúc. Các bộ phận của tác phẩm được gắn kết với
nhau trong mối liên hệ trực tiếp với chủ đề. Mỗi bộ phận có một giá trị và
chức năng riêng nhưng chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau để cùng có
được một giá trị nội dung trọn vẹn.
Vì lẽ đó, chúng tôi giới hạn việc nghiên cứu kết cấu truyện ngắn ở các bộ
phận cơ bản là tiêu đề, đoạn văn mở đầu và đoạn văn kết thúc trong tác
phẩm. Đó là các bộ phận cần yếu của kết cấu truyện ngắn.
Một tiêu đề hấp dẫn sẽ gây chú ý và giữ độc giả lại với tác phẩm. Một
đoạn mở đầu ấn tượng sẽ kích thích trí tò mò của độc giả muốn khám phá
những đoạn văn kế tiếp. Một đoạn văn kết thúc hay không chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong việc hoàn chỉnh nội dung, tổng kết chủ đề, mà nó còn chứa
đựng thông điệp của nhà văn.
1.2 TIÊU ĐỀ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NNT
1.2.1 Đặc điểm về hình thức của tiêu đề
Tiêu đề truyện ngắn nói riêng và tiêu đề văn bản nói chung là phần
không thể thiếu được trong cấu trúc của một văn bản. Tiêu đề “có sức mạnh
định giới văn bản và tạo ra sự hoàn chỉnh cho văn bản. Nó không chỉ là tín
hiệu hướng sự chú ý của người đọc vào cách trình bày tư tưởng đã dự báo mà
còn đặt ra khuôn khổ cho sự trình bày ấy” [trích theo 3, 152].
8



Theo Trịnh Sâm, một tiêu đề lí tưởng phải là một tiêu đề gợi mở nhiều
nhất những khả năng liên tưởng để kích thích và phát huy sức tưởng tượng
của độc giả theo hướng có lợi cho sức hấp dẫn của tác phẩm. [35,160]
1.2.1.1 Xét theo số lượng âm tiết
Tiêu đề truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường ngắn gọn. Trong hai
mươi tiêu đề được khảo sát thì có tới sáu tiêu đề gồm hai âm tiết, chiếm 30%
như: Có xanh, Ngổn ngang, Cải ơi, ...: mười một tiêu đề gồm bốn âm tiết,
chiếm 55% như: Ngọn đèn không tắt, Hiu hiu gió bấc, Cá, ...; hai tiêu đề gồm
ba âm tiết: Huệ lấy chồng, Chuyện của Điệp; chỉ có duy nhất một tiêu đề gồm
năm âm tiết: Lý con sáo sang sông.
1.2.1.2 Xét theo cấu tạo ngữ pháp
Tiêu đề truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư có cấu tạo rất đa dạng.
a) Tiêu đề có hình thức là một từ
Xét về mặt từ loại, tiêu đề có hình thức là một từ thường do các danh từ,
hoặc tính từ đảm nhiệm. Các danh từ sử dụng ở tiêu đề chủ yếu là những từ
chỉ sự vật được nói đến trong tác phẩm, người đọc có thể dễ dàng nhận ra sự
vật ấy trong phần nội dung của tác phẩm. Tuy nhiên, tính từ sử dụng ở tiêu đề,
do đặc trưng của từ loại chỉ trạng thái tính chất của người hoặc sự vật nên nó
mang tính khái quát cao, cần đến sự liên tưởng của người đọc.
Ví dụ (1):
“Ngổn ngang” là câu chuyện của cô gái làm báo tên Viên, cô mải mê với
công việc làm báo của mình. Cô quan tâm tới mọi ngõ ngách của đời người,
nhưng lại không quan tâm tới bạn thân mình, nên để mất tình yêu, tình bạn.
Để rồi đến khi nhận ra: “Tôi tự dưng thèm được yêu thương ai đó để chia sẻ
dìu dắt nhau đi trên con đường đời ngổn ngang mà vì một nỗi đam mê nào đó
tôi đã đánh mất rất nhiều.” [5. N.N]. Như vậy, mãi đến đoạn kết của truyện
người đọc mới gặp được từ “ngổn ngang” làm định ngữ cho danh từ “đường
đời”, nhưng trong toàn bộ câu chuyện, tác giả đã cho thấy sự ngổn ngang của
cuộc sống mà cô gái trẻ tên Viên đã trải qua.
b) Tiêu đề có hình thức là một cụm từ.

9


Về bản chất, tiêu đề là một cụm từ có đầy đủ cả ba loại: cụm danh từ,
cụm động từ, cụm tính từ.
Ví dụ (2): Tiêu đề có hình thức là một cụm danh từ.
Tiêu đề “Một trái tim khô”, là một cụm danh từ có hai thành tố: thành tố
trung tâm là một danh từ chỉ bộ phận cơ thể người (trái tim); thành tố phụ sau
là một tính từ chỉ tính chất (khô), có chức năng làm định ngữ cho thành tố
trung tâm. Tiêu đề là một cụm danh từ thường có ý nghĩa xác định, mang tính
tường minh, giúp người đọc dễ dàng lĩnh hội, nắm bắt cái chủ chốt mà tác giả
sẽ đề cập đến trong tác phẩm.
So với loại tiêu đề có hình thức là một từ, tiêu đề có hình thức là một
cụm từ có ý nghĩa xác định hơn, mức độ độc lập cao hơn, mức độ khái quát
cao hơn và mang tính định danh.
c) Tiêu đề có hình thức là một câu
Có thể là tên một ca khúc như: Lý con sáo sang sông, hoặc là một lời gọi
như: Cải ơi, Cũng có khi là một câu đơn như: Ngọn đèn không tắt, Nỗi buồn
rất lạ, ...
Những tiêu đề có hình thức là một câu thường là câu đơn đầy đủ hai
thành phần chủ - vị. Về ý nghĩa, những tiêu đề này là một thông báo trọn vẹn,
có tính khái quát chủ đề. Những thông báo này là tiền đề quan trọng giúp
người đọc nắm bắt chủ đề của tác phẩm dễ dàng hơn.
Bảng 1.1: Đặc điểm hình thức của tiêu đề
Đặc điểm

Kiểu tiêu đề
TĐ gồm 2 âm tiết
Xét theo số TĐ gồm 3 âm tiết
lượng âm tiết TĐ gồm 4 âm tiết

TĐ gồm 5 âm tiết
Xét theo cấu TĐ là một từ
tạo ngữ pháp TĐ là một cụm từ
TĐ là một câu

Số lượng
6
2
11
1
3
11
6

Tỉ lệ
30%
10%
55%
5%
15%
55%
30%

Nhìn chung, tiêu đề trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường có
số lượng âm tiết rất ít (nhiều nhất là năm âm tiết), điều này phù hợp với thể
10


loại truyện ngắn “có tính ngắn gọn và khái quát cao”. Về mặt cấu tạo ngữ
pháp, các tiêu đề trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường có kết cấu

rất đơn giản nhưng đa dạng về hình thức biểu hiện và ấn tượng về nội dung.
1.2.2 Đặc điểm về nội dung của tiêu đề
Tiêu đề của văn bản thể hiện ý đồ chủ đạo, tư tưởng của người tạo ra
văn bản. Tiêu đề có khả năng nêu lên nội dung cơ bản của văn bản và đảm
nhận những chức năng nhất định. Tiêu đề chứa trong bản thân nó sự triển khai
chủ đề quan trọng nhất, nó đề xuất cái chủ chốt định ra toàn bộ cơ cấu chuyện
kể. Đối với truyện ngắn, việc xác định tiêu đề cho mỗi truyện là một công
việc hết sức công phu.
Theo kết quả nghiên cứu của Trịnh Sâm (35) thì một tiêu đề hay phải có
sự tương hợp với nội dung tác phẩm. Tuy nhiên, sự tương hợp hay bất tương
hợp (có thể chấp nhận được) giữa ý nghĩa của tiêu đề với nội dung văn bản lại
tuỳ thuộc rất nhiều vào đặc điểm phong cách ngôn ngữ và thể loại văn bản.
Đối với những văn bản phi nghệ thuật, người đọc dễ dàng so sánh đối chiếu
giữa những gì được nêu ở tiêu đề với những gì được giải thích, chứng minh
trong văn bản. Còn trong phong cách nghệ thuật mức độ bất tương hợp là có
thể xảy ra trong các trường hợp tác giả muốn sử dụng tiêu đề như một ẩn dụ.
Chẳng hạn, tương ứng với tiêu đề “Thương quá rau răm" là câu chuyện
về một bác sĩ trẻ về cù lao Mút Cà Tha làm tình nguyện. Chàng trai luôn cảm
thấy buồn chán, cô đơn, mặc dù người dân cù lao, đặc biệt cô con gái ông
trưởng ấp đã hết lòng quan tâm, chăm sóc. Cuối cùng chàng trai đã ra đi
không một lời từ biệt để lại sự mất mát, thiệt thòi rất lớn cho người dân cù
lao. Nhưng có lẽ không có nỗi mất mát, hụt hẫng nào lớn bằng sự trống trải
trong lòng cô gái đang yêu. Nội dung của truyện khiến người đọc liên tưởng
đến câu ca dao “Gió đưa cây cải về trời - Rau răm ở lại...”.
1.2.3 Chức năng của tiêu đề trong tác phẩm
Tiêu đề có khả năng nêu lên nội dung cơ bản của văn bản và đảm nhận
những chức năng nhất định. I.R. Galperin cho rằng tiêu đề “có hai chức năng:
định danh (tường minh) và dự báo (tàng ẩn)” [trích theo 3, 152].
11



1.2.3.1 Chức năng định danh của tiêu đề
Chức năng định danh (tường minh) thường được thể hiện rõ nét nhất ở
những tiêu đề đặt theo lối “biểu trưng” hay “chủ ngôn”.
Tiêu đề mang tính “biểu trưng” khi nó chứa đựng cho nội dung toàn
văn bản hoặc một đoạn văn trong văn bản. Trong tương quan với toàn văn bản
có thể nói tiêu đề là phần nêu, phần đề, phần còn lại của văn bản là phần báo,
phần thuyết.
Chẳng hạn, tiêu đề “Chuyện của Điệp” thông báo rằng câu chuyện này
sẽ kể về nhân vật tên Điệp. Và sự thực trong nội dung truyện đã kể về Điệp từ
hình dáng, tính cách, gia cảnh, nghề nghiệp, thói quen, đến mối quan hệ và
cách ứng xử của cô.
Tiêu đề mang tính “chủ ngôn” là khi tác giả sáng tạo ra nó với đầy đủ
dấu ấn cá tính của mình. Đối với một số tác giả có bản lĩnh thì thông qua một
số tiêu đề, có thể ghi nhận những nét độc đáo về phong cách cá nhân của họ.
Tiêu đề truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư đa phần được đặt theo lối chủ ngôn
như: Duyên phận So Le, Biển người mênh mông, Cánh đồng bất tận, ...
Chức năng định danh của tiêu đề giúp người đọc nắm được ngay chủ đề
tư tưởng của tác phẩm khi tiếp nhận tiêu đề. Phần nội dung có nhiệm vụ triển
khai phần đã nêu trên tiêu đề.
1.2.3.2 Chức năng dự báo của tiêu đề
Chức năng dự báo (tàng ẩn) thường được thể hiện ở những tiêu đề đặt
theo lối “khách ngôn”.
Tiêu đề mang tính “khách ngôn” khi nó được trích dẫn từ một phát
ngôn hoặc một bộ phận của phát ngôn đã có sẵn trong xã hội, tồn tại khách
quan ngoài sự sáng tạo riêng tư của người phát ngôn. Nguồn trích dẫn này rất
phong phú và đa dạng. Nó có thể từ nguồn văn học dân gian, từ một văn bản
khác, hoặc từ một câu tuyên ngôn nổi tiếng nào đó. Phần trích dẫn có thể vẫn
được giữ nguyên dạng hoặc chỉ lấy ra một vài thành tố và được chủ ngôn hoá.
Chẳng hạn, tiêu đề “Lý con sáo sang sông”, được trích dẫn nguyên vẹn

từ tiêu đề của một bài hát. Câu chuyện kể về việc lấy chồng của cô gái tên
12


Thà - người yêu của Phi. Vì hoàn cảnh khó khăn mà Phi đành để người yêu đi
lấy chồng trong nỗi tiếc nuối, xót xa. Trong lúc buồn chán nhất anh đã hát ca
khúc “Lý con sáo sang sông”, như lời tiễn biệt cho một cuộc tình dở dang của mình.

Hay, tiêu đề “Thương quá rau răm” có một phần của tiêu đề (rau răm)
nằm trong câu ca dao rất quen thuộc: Gió đưa cây cải về trời - Rau răm ở lại
chịu đời đắng cay”. Trong câu ca dao này “cây cải” và “rau răm” là hình ảnh
ẩn dụ cho chàng trai và cô gái. Chàng trai sau khi chiếm được cả tâm hồn và
thể xác cô gái đã “quất ngựa truy phong” để lại cô gái với nỗi đau khổ tột
cùng. Nội dung của truyện ngắn cũng đề cập đến sự ra đi của anh chàng bác sĩ
trẻ tuổi, để lại nỗi trống trải, nỗi nhớ thương da diết trong lòng cô gái trẻ ở cù
lao Mút Cà Tha.
Phân tích ta thấy, tiêu đề được đặt theo lối khách ngôn không mang chức
năng định danh (không tường minh) mà tiềm ẩn trong nó khả năng dự báo.
1.3 ĐOẠN VĂN MỞ ĐẦU TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NNT
1.3.1 Đặc điểm hình thức của đoạn văn mở đầu
Đoạn văn mở đầu là đoạn văn nằm ở phần đầu của văn bản nên nó sẽ có
những hình thức và cấu tạo sao cho phù hợp với văn bản, với ý đồ, mục đích
của văn bản cũng như của tác giả khi tạo ra văn bản.
Xét về phương diện hình thức, có thể chia đoạn văn mở đầu thành hai
loại: đoạn văn đơn thoại và đoạn văn đối thoại
1.3.1,1 Đặc điểm hình thức của đoạn văn mở đầu đơn thoại
Xét về dạng thức tồn tại, đoạn văn mở đầu đơn thoại có hai kiểu: đoạn
văn bình thường và đoạn văn đặc biệt.
a) Đoạn văn bình thường
Đoạn văn bình thường là đoạn văn từ hai câu trở lên tạo thành, biểu thị

một nội dung tương đối hoàn chỉnh, mang những đặc điểm cơ bản của đoạn
văn nói chung, làm cơ sở để tạo lập văn bản.
Xét theo cấu tạo ngữ pháp của câu, đoạn văn bình thường có thể chỉ
gồm thuần nhất một kiểu câu nhưng cũng có thể xen kẽ nhiều kiểu câu.
Đoạn văn gồm các câu ghép và câu mở rộng thành phần.
13


Câu ghép trong đoạn văn mở đầu thường có đặc điểm là chứa hai thành
phần mở rộng, đó là định ngữ và trạng ngữ.

Ví dụ (3):
“Năm Hậu ba mươi chín tuổi, Hậu gặp một chuyện ly kỳ, chạng vạng
trên đường về nhà, qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm. Thằng cha này giết người
mà nhát hít, nhắm mắt đâm hai nhát nhưng chỉ ngoáy trúng bả vai.” [19.
M.T.T.K]
Phần định ngữ (phần gạch chân) trong những ví dụ trên có thể tách ra
thành một câu văn khác. Tuy nhiên, tác giả đã để thành phần đó ở vị trí của
một định ngữ cho thành phần trước nó. Bằng cách này, tác giả có thể khai
triển tối đa nội dung thông tin trung tâm của câu và mở rộng trường liên
tưởng cũng như tạo sự liên kết chặt chẽ cho văn bản. Đây là một cách cấu tạo
văn bản mang tính chủ quan.
Câu mở rộng thành phần định ngữ được sử dụng rất phổ biến, không
chỉ ở đoạn văn mở đầu mà có mặt trong các đoạn văn khác, đó là một đặc
trưng nổi bật trong văn phong của Nguyễn Ngọc Tư.
Câu mở rộng thành phần trạng ngữ.
Ví dụ (4):
“Chỗ sân ấy hồi hè tụi con nít còn cò cò, u hơi, vậy mà mới vài ba trận
mưa mùa đã mênh mông nước. Rồi bèo lấm tấm xanh, rau ngổ, rau muống
mọc đầy, vươn những cái ngọn non nhuốt, trắng phau phau. Từ ngoài đường

vào khu nhà thuê chỉ còn một lối nhỏ lát gạch Tàu rêu trơn tuột. Dặn hoài,
nhưng đêm qua ông già Sáu Đèo lại trợt chân. [15. B.N.M.M]
Trong ví dụ trên trạng ngữ còn được sử dụng để nêu thông tin chính
trong câu, là hoàn xảy ra cho hành động trượt chân của nhân vật ông Sáu Đèo.

Việc sử dụng câu ghép, câu mở rộng thành phần trước hết phản ánh
nhận thức của tác giả đối với hiện thực khách quan. Trong những đoạn
văn mở đầu này, giữa các câu ghép, câu mở rộng thành phần luôn có sự

14


liên kết chặt chẽ với nhau. Vì thành phần phụ, bên cạnh chức năng bổ
sung ý nghĩa cho câu, chúng còn có chức năng liên kết văn bản.
Đoạn văn mở đầu là hai câu đơn tồn tại.
Ví dụ (5):
“Chỗ đất đó người ta tính xây một nhà bảo tàng truyền thống. Trước khi
xây, cỏ chỉ với cỏ ống kéo lại mọc xanh chơi.” [2. C.X]
Nguyễn Ngọc Tư đã bắt đầu câu với một thành phần trạng ngữ chỉ nơi
chốn phiếm định “chỗ đất ấy”. Về mặt tiếp nhận văn bản, cách vào đề rất tự
nhiên, làm như người đọc đã biết trước về chỗ đất đó ở đâu hay như thế nào
rồi, làm cho khoảng cách giữa người đọc và tác giả được rút ngắn lại. Về mặt
từ ngữ, tổ hợp có chứa chỉ định từ đó trong câu văn mở đầu không thể quy
chiếu theo cách hồi chiếu thông thường (chiếu vào câu trước) mà sử dụng
cách khứ chiếu (chiếu vào những câu kế tiếp hoặc trong những đoạn văn tiếp
theo) như cách Nam Cao mở đầu tác phẩm “Chí Phèo”: “Hắn vừa đi vừa
chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi... A ha! Phải đấy hắn cứ thế
mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn, để ra cái thằng Chí
Phèo!” (Nam Cao, Chí Phèo). Đại từ hắn đã được khứ chiếu vào từ được thay
thế là Chí Phèo ở những câu văn tiếp theo, tạo ra tính tự nhiên và sức hấp dẫn

đặc biệt cho tác phẩm.
b) Đoạn văn mở đầu đặc biệt
Đoạn văn mở đầu có hình thức đặc biệt trong truyện ngắn của Nguyễn
Ngọc Tư là đoạn văn chỉ do một câu tạo thành. Đoạn văn này chỉ xuất hiện
trong 2/20 truyện ngắn chiếm 10% trong tổng số đoạn văn được khảo sát.
Ví dụ (6): “Vậy là ông Tư Đờ, giám đốc công ty xuất nhập khẩu bị bắt
rồi.” [3. N.B.R.L]
Đoạn văn mở đầu có hình thức như một câu kết luận hơn là một câu mở
đầu. Tác giả đã vào đề một cách đơn giản như kể một chuyện phiếm trước
đám đông. Chỉ một câu nhưng lại chứa đầy đủ thông tin về một con người.
Ai? Ông Tư Đờ. Làm gì? Làm giám đốc. Ở đâu? Công ty xuất nhập khẩu.
Tình trạng hiện nay? Đã bị bắt. Tuy thông tin về một con người trong một
15


hoàn cảnh nhất định đã đầy đủ nhưng điều khiến người đọc quan tâm là: Làm
sao ông ấy bị bắt? và việc ông ấy bị bắt có liên quan đến ai? Như vậy, cách
mở đầu đó ngay lập tức đã hoàn thành nhiệm vụ của nó là khơi gợi trí tò mò
của độc giả, khiến người đọc hăm hở khám phá câu chuyện được kể sau đó.
1.3.1.2 Đặc điểm hình thức của đoạn văn mở đầu đối thoại
a) Xét theo số lượng lượt lời
Lượt lời là đơn vị cơ bản của hội thoại. “Đó là một lần nói xong của một
người trong khi những người khác không nói, để rồi đến lượt một người tiếp
theo nói”. [5,78]. Sự luân phiên lượt lời trở thành nguyên lí của hội thoại. Cơ
chế của sự luân phiên lượt lời là sự trao lời và đáp lời của các nhân vật tham
gia đối thoại. Sự trao đáp của các nhân vật có thể diễn ra trong hai lượt hoặc
hơn hai lượt. Mỗi lượt có thể gồm một câu hoặc nhiều câu. Số lượng các lượt
lời ở đoạn thoại mở truyện phụ thuộc vào chủ đề của đoạn thoại. Trong đoạn
văn mở đầu đối thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường chỉ có
hai lượt lời thậm chí có đoạn văn mở đầu chỉ có một lượt lời.

Đoạn thoại có hai lượt lời
Ví dụ (7):
“Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm
Nhỏ về ngã ba Sương. Thàn có nhỏ bồ quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên
Diếm Thương, nghe hay, mà khuôn mặt cũng hay, không đẹp nhưng bình
thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đó ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm
vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người, cười héo hắt. “Ăn bám mà
kéo theo cả bầy”. Thàn cười hề hề, bảo “Ông Năm, bạn anh. Dễ thương lắm.”
[7.C.Ơ]
Trong đoạn văn đối thoại trên có hai lượt lời, một lượt lời của Diễm
Thương và một lượt lời của Thàn.
Như vậy, xét về cấu tạo, một đoạn thoại tối thiểu phải có hai lượt lời của
hai nhân vật tham gia đối thoại. Tuy nhiên, trong đoạn thoại mở đầu truyện
ngắn, cá biệt vẫn có trường hợp chỉ có một lượt lời duy nhất.
Đoạn thoại có một lượt lời
16


Ví dụ (8): “Khoa gọi điện thoại cho tôi từ phòng lab: hình xong rồi, đã
lắm. Mầy kiếm đâu ra ông già ngon vậy?” [11. C.N.K.K]
Đoạn văn mở đầu này chỉ chứa lời thoại của nhân vật Khoa, người rửa
ảnh. Đây là cuộc thoại chỉ có thông tin một chiều không có lời đáp của đối
tượng nhận tin. Lời thoại này bộc lộ sự ngạc nhiên xen lẫn sự ngưỡng mộ của
nhân vật Khoa trước những tấm ảnh chụp hình một ông già mà anh ta vừa rửa.
Để trả lời câu hỏi “Mày kiếm đâu đâu ra ông già ngon vậy?” là cả một vấn đề
nên đối tượng nhận tin không thể trả lời trong một câu qua điện thoại mà phải
đến tận nơi. Cách mở truyện như thế đã hấp dẫn người đọc, buộc họ phải theo
dõi truyện để tìm ra lời giải cho câu hỏi bên trên.
b) Xét theo số lượng cặp thoại
Trong hội thoại, các lượt lời luôn có mối quan hệ với nhau: lượt lời này

kéo theo lượt lời kia, lượt lời kia quy định giá trị của lượt lời này. Do đó có
khái niệm cặp thoại. Cặp thoại là hai lượt lời có quan hệ mật thiết với nhau.
Mối quan hệ giữa hai lượt lời được thể hiện trực tiếp qua mối quan hệ giữa
các phát ngôn. Đó là các kiểu quan hệ như: hỏi - hỏi; hỏi - trả lời; chào - chào;
đề nghị - đáp ứng; đề nghị - từ chối. Khảo sát đoạn thoại mở truyện trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chúng tôi thấy, đoạn thoại mở truyện trong
truyện ngắn của chị thường chỉ có một cặp thoại.
Ví dụ (9):
“... Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời, “bộ
hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất mất vợ, không sợ?”. Không,
chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì
mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê. chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị
định càm ràm nữa thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.” [8. T.Q.R.R]
Trong ví dụ trên, đoạn văn mở đầu có một cặp thoại có quan hệ: hỏi - trả
lời diễn ra giữa mẹ chị Hảo và chị Hảo.
c) Xét theo số lượng vai thoại
Vai thoại là chủ thể của lời thoại, là các nhân vật tham gia hội thoại.
Trong hội thoại bao giờ cũng có sự tương tác giữa các nhân vật tham gia đối
17


thoại. Đó là sự tương tác bằng lời thoại giữa các nhân vật qua sự luân phiên
lượt lời. Khi đoạn thoại gồm lời thoại của hai nhân vật, ta có song thoại; khi
đoạn thoại gồm lời thoại của ba nhân vật, ta có tam thoại; khi đoạn thoại gồm
lời thoại của nhiều nhân vật, ta có đa thoại. Khảo sát cho thấy, đoạn văn mở
đầu đối thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư chủ yếu là song thoại.
Ví dụ (10):
“Mùa chướng xô cửa đất Phương Điền. Nửa đêm cả nhà tôi tốc mùng
ngồi nghe tiếng ngói dịch lắc cắc, rờn rợn trên trên mái nhà phía đông Nhân
Phủ. Má tôi mở cửa sổ, kêu vọng qua bên đó, “Thằng Tứ Hải đem mấy đứa

nhỏ qua ngủ với má con tao nè. Để không may ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp
tụi nó lắm nghen”. Dứt tiếng thì cái đầu tóc ngái ngủ bù xù của ông chủ trẻ
“Nhân Phủ” lù lù trước sân, tay là con Tha, chị Thể vợ anh dắt con Tho đi
sau, thả hai đứa nhỏ vô mùng tôi, anh làu bàu “Cha, điệu này biết nhà mình có
qua được mùa gió nầy không đây, Út Nhỏ?” [12. N.C]
Trong đoạn văn mở đầu đối thoại trên, có sáu nhân vật đã xuất hiện,
nhưng chỉ có hai người tham gia hội thoại, là chủ thể của những lời được nói
ra nên chỉ có hai vai thoại. Đó là vai “má tôi” và vai Tứ Hải.
Bảng 1.2: Đặc điểm hình thức các đoạn văn mở đầu
Đặc điểm
Bình thường
Đơn
thoại
Đặc biệt
SL lượt lời
Đối
thoại

SL cặp thoại
SL vai thoại

Kiểu đoạn văn
ĐV có câu ghép và câu mở
rộng
ĐV có câu đơn và câu ghép
ĐV có các câu đơn
ĐV có một câu ghép
ĐV có một câu đơn mở rộng
Đoạn thoại có 2 lượt lời
Đoạn thoại có 1 lượt lời

Đoạn thoại có 1 cặp thoại
Đoạn song thoại

SL
4/13

Tỉ lệ
30%

8/13
1/13
1/2
1/2
3/5
2/5
5/5
4/5

62%
8%
50%
50%
60%
40%
100%
80%

Đoạn đơn thoại

1/5


20%

Như vậy, đặc điểm chính về hình thức của đoạn văn mở đầu truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư là đoạn văn mở đầu truyện ngắn có hai loại: đoạn văn
đơn thoại và đoạn văn đối thoại. Mỗi loại đều mang những đặc điểm hình
18


thức nhất định. Trong đoạn đơn thoại có hai hình thức: đoạn văn bình thường
và đoạn văn đặc biệt. Tuy nhiên, đặc trưng chung nhất của đoạn văn mở đầu
là ngắn gọn, cô đọng và dồn nén thông tin.
1.3.2 Đặc điểm nội dung của đoạn văn mở đầu
Việc xem xét đặc điểm nội dung của đoạn văn mở đầu truyện ngắn chỉ
được nhìn nhận một cách đầy đủ đối với những đoạn văn hoàn chỉnh về hình
thức. Vì thế, những đoạn văn có hình thức đặc biệt không phải là đối tượng
được xem xét về mặt nội dung.
1.3.2.1 Đặc điểm nội dung của đoạn văn mở đầu đơn thoại
a) Xét theo câu chủ đề
Câu chủ đề là những câu mang thông tin chính, định hướng cho sự phát
triển của đoạn văn.
Đoạn văn có câu chủ đề
Ở loại cấu trúc này, câu chủ đề đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Căn cứ
vào vị trí của câu chủ đề trong đoạn văn ta có đoạn văn diễn dịch hoặc đoạn
văn quy nạp.
Đoạn văn diễn dịch, là đoạn có câu chủ đề đứng ở vị trí mở đoạn, các
câu tiếp theo triển khai nội dung câu chủ đề.
Đoạn văn quy nạp, là đoạn văn có câu chủ đề đứng ở vị trí cuối đoạn,
thâu tóm nội dung đã trình bày ở các câu mở đoạn.
Những đoạn văn có hình thức bình thường mở đầu truyện ngắn có câu

chủ đề trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường có đủ cả đoạn văn
diễn dịch lẫn quy nạp.
Ví dụ (11): Đoạn văn quy nạp
“Người ta gởi tới nhà Tư Lai một lá thơ. Thơ đề “Kính gởi ông Hai
Tương”. Cả nhà bối rối không ít. Ông Hai Tương đã ra người thiên cổ lâu rồi,
thấy có người nhắc lại chồng, bà cụ Hai Tương nhớ quá ứa nước mắt. Khui lá
thơ ra, thì ra là thơ mời nói chuyện khởi nghĩa.” [1. N.Đ.K.T]
Đoạn văn mở đầu không có câu chủ đề

19


Căn cứ vào mối quan hệ giữa các câu trong đoạn văn, ta có đoạn văn
song hành và đoạn văn móc xích.
Đoạn văn song hành, các câu trong đoạn văn có mối quan hệ song hành
với nhau.
Đoạn văn móc xích, các câu trong đoạn văn có mối quan hệ móc xích
với nhau, ý của câu sau nối tiếp phát triển ý của câu trước.
Với những đoạn văn không có câu chủ đề, có đoạn được tác giả viết theo
lối song hành, có đoạn được viết theo lối móc xích
Ví dụ (12): Đoạn văn móc xích
“Vóc dáng Điệp vốn nhỏ nhắn, đi hát cải lương từ năm mười sáu tuổi
đến năm hai mươi hai tuổi chỉ chuyên đóng vai đào con. Điệp coi kiếng tự
nhận xét: “Tại cái tướng em nhỏ chớ cái mặt em già”. Lên sân khấu với giọng
ca lảnh lót, trong suốt lại thấy Điệp non tơ.” [4. C.C.Đ]
b) Xét theo cách thức phản ánh nội dung các câu trong đoạn văn
Xét theo tiêu chí này đoạn văn mở đầu truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
gồm các loại sau:
Đoạn văn miêu tả
Các câu trong đoạn văn miêu tả những khía cạnh khác nhau của sự vật

hiện tượng. Đoạn văn mở đầu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư thường
dùng để miêu tả nhân vật hoặc cảnh vật.
Ví dụ (13): Đoạn văn miêu tả cảnh vật.
“Cái sân trước không có ai, lá bạch đàn khô se sẽ đậu trên băng đá. Nhà
trên cũng không có ai, cây chổi lông gà nằm chéo trên cái bàn chữ U, nửa
ngoài đã sạch bong, nửa trong bụi còn đóng một lớp dày. Con Phèn chắc cũng
đi cua gái, không thấy nhảy xổ ra, tí tởn. Có tiếng nước chảy tồ tồ ở đằng sau,
chắc má tôi ở trong ấy.” [5. N.N]
Đoạn văn lập luận
Các câu trong đoạn văn thể hiện lập luận, suy nghĩ của nhân vật. Trong
đoạn văn này, các câu thường liên kết với nhau bằng các từ ngữ chỉ lập luận
như: vì, vậy, bởi vậy, do đó...
20


Ví dụ (14):
“Ông già Chín nói nghề bán vé số của ông thấy vậy mà có ý nghĩa ghê
lắm, vì đem lại hi vọng cho người ta, vì đem lại sự giàu có cho người ta (nếu
trúng số), và nghề này có ý nghĩa nhất là trên những dặm đường phiêu bạt,
ông tìm được cô đào Hồng.” [14. C.M.N.S]
Đoạn văn tự sự
Các câu trong đoạn văn liệt kê sự kiện theo trình tự thời gian. Cách sắp
xếp câu theo trình tự này trong đoạn văn mở đầu có tác dụng xâu chuỗi sự
kiện được nêu (được đánh dấu bằng các cụm từ gạch chân dưới đây)
Ví dụ (15):
“Năm Hậu ba mươi chín tuổi, Hậu gặp một chuyện ly kỳ, chạng vạng
trên đường về nhà, qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm. Thằng cha này giết người
mà nhát hít, nhắm mắt đâm hai nhát nhưng chỉ ngoáy trúng bả vai. Thấy Hậu
đổ gục, người này còn xám hối một câu, xong quăng dao xuống mương cống
chạy mất. Sau câu nói đấy Hậu mới thấy mình chết ngắc.” [19. M.T.T.K]

Như vậy, về cơ bản, nội dung của đoạn mở đầu thường là giới thiệu
khung cảnh, nhân vật, nêu đề tài, chủ đề, giới hạn nội dung văn bản cũng có
nghĩa là định hướng cụ thể cho việc triển khai chủ đề bằng cách miêu tả, tự sự
hay lập luận. Đoạn văn mở đầu còn đóng một vai trò quan trọng trong việc thể
hiện ý tưởng triển khai nội dung, bộc lộ cảm hứng, gợi trí tò mò, xác lập
giọng điệu cho toàn bộ những phần tiếp theo của tác phẩm.
1.3.2.1 Đặc điểm nội dung của đoạn văn mở đầu đối thoại
Bản chất của đoạn thoại là sự thống nhất về nội dung của các lời thoại.
thông qua lời trao và lời đáp của nhân vật. Câu trao lời mang một nội dung cụ
thể, thường tồn tại dưới dạng câu hỏi, câu đề nghị, câu mệnh lệnh, câu cảm
thán. Lời đáp hướng vào nội dung của lời trao, giải đáp câu hỏi, phản ứng lại
lời đề nghị, tỏ ý đồng tình hay không đối với câu đề nghị hoặc cảm thán ở lời
trao. Chính sự hỏi - đáp này vô hình trung đã tự nó có mối liên kết nội dung
chặt chẽ với nhau và cho thấy nội dung của một đoạn thoại. Để xem xét nội

21


dung đoạn văn mở đầu đối thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư,
chúng tôi dựa trên tiêu chí chủ thể phát ngôn.
Chủ thể của đoạn thoại có thể là các nhân vật hoặc xen kẽ giữa lời kể
của người kể chuyện với các nhân vật. Dựa vào tiêu chí này, có thể phân chia
các đoạn thoại thành: Đoạn thoại chỉ gồm lời thoại của nhân vật và đoạn thoại
xen kẽ giữa lời thoại của nhân vật với lời người kể chuyện.
Điểm nổi bật của đoạn văn mở đầu đối thoại trong truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư là chỉ có đoạn thoại xen kẽ giữa lời thoại của nhân vật với
lời người kể chuyện.
Ví dụ (16):
“Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm
Nhỏ về ngã ba Sương. Thàn có nhỏ bồ quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên

Diếm Thương, nghe hay, mà khuôn mặt cũng hay, không đẹp nhưng bình
thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đó ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm
vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người, cười héo hắt. “Ăn bám mà
kéo theo cả bầy”. Thàn cười hề hề, bảo “Ông Năm, bạn anh. Dễ thương lắm”.
[7.C.Ơ]
Lời dẫn truyện được đặt xen kẽ với các lời thoại của nhân vật có tác
dụng vừa giải thích cho nội dung lời thoại vừa dẫn dắt lời thoại của nhân vật.
Lời thoại trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư phần lớn được đặt cùng
dòng với lời dẫn của người kể chuyện và thường được ngăn cách bằng dấu
ngoặc kép (“”), chỉ có duy nhất một đoạn thoại được tách riêng, ngăn cách với
lời thoại bằng cách xuống dòng.
Ví dụ (17):
“Sáng nay má tôi lại ra đứng tần ngần ở chợ Ba Bảy Chín, nghiêng
nghiêng ngó ngó một hồi, biểu con nhỏ chèo đò chèo dài dài chợ nổi. Chợ rao
bán rau trái dậy động cả một khúc sông, má tôi thấy ghe nào cũng lần xuồng
lại, dòm mặt chủ rồi đi. Con nhỏ chèo đò chắc là chèo mối, nó biết bà già định
đi đâu, định làm cái gì nên nó biểu:
- Hỏng hỏi thăm thì vô phương kiếm ra, ngoại ơi. [17. D.N]
22


Phân tích đặc điểm về hình thức và nội dung của đoạn văn mở đầu
truyện ngắn cho thấy, Nguyễn Ngọc Tư có cách mở đầu một câu chuyện hết
sức đa dạng, phong phú, không hề bị trùng lặp, hay theo một lối mòn nào.
Chính điểm này đã tạo nên sức hấp dẫn, lôi cuốn đặc biệt đối với độc giả ngay
khi bắt đầu tiếp xúc với truyện ngắn.
Bảng 1.3: Đặc điểm nội dung các đoạn văn mở đầu
Đặc điểm đoạn văn
Đơn
thoại


Đối
thoại

Kiểu đoạn văn
Diễn dịch
Xét theo câu Có câu chủ đề
Quy nạp
chủ đề
Không có câu chủ Song hành
đề
Móc xích
Xét theo mục
ĐV miêu tả
đích giao tiếp
ĐV tự sự
của câu
ĐV lập luận
Xét theo chủ thể ĐT chỉ gồm lời thoại của NV
phát ngôn
ĐT xen kẽ lời thoại của NV
với lời NKC

SL
3/13
2/13
4/13
4/13
7/13
4/13

2/13
0/5
5/5

Tỉ lệ
23%
15%
31%
31%
54%
31%
15%
0%
100%

1.3.3 Chức năng của đoạn văn mở đầu
1.3.3.1 Chức năng định hướng về nội dung
Định hướng về nội dung là sự gợi mở, khái quát chủ đề của truyện để
phát triển các đoạn văn tiếp theo. Nó thể hiện ở những khía cạnh sau:
a) Đoạn mở đầu giới thiệu nhân vật
Truyện ngắn giống như tiểu thuyết luôn “sống bằng nhân vật”. Trong
văn Nguyễn Ngọc Tư, các nhân vật thường xuất hiện ngay ở đoạn mở đầu.
Ví dụ (18):
“Mùa chướng xô cửa đất Phương Điền. Nửa đêm cả nhà tôi tốc mùng
ngồi nghe tiếng ngói dịch lắc cắc, rờn rợn trên trên mái nhà phía đông Nhân
Phủ. Má tôi mở cửa sổ, kêu vọng qua bên đó, “Thằng Tứ Hải đem mấy đứa
nhỏ qua ngủ với má con tao nè. Để không may ngói rớt trúng đầu, tội nghiệp
tụi nó lắm nghen”. Dứt tiếng thì cái đầu tóc ngái ngủ bù xù của ông chủ trẻ
“Nhân Phủ” lù lù trước sân, tay là con Tha, chị Thể vợ anh dắt con Tho đi


23


sau, thả hai đứa nhỏ vô mùng tôi, anh làu bàu “Cha, điệu này biết nhà mình có
qua được mùa gió nầy không đây, Út Nhỏ?” [12. N.C]
Theo dõi tác phẩm ta thấy, có tất cả 7 nhân vật thì ngay ở đoạn mở đầu
đã có tới 6 nhân vật xuất hiện. Những nhân vật này sẽ còn xuất hiện cho đến
đoạn cuối của tác phẩm, nhưng các nhân vật đó chưa làm nên một một cốt
truyện hoàn hảo cho tác phẩm mà nhân vật chưa xuất hiện mới quyết định sự
tồn tại của các nhân vật đó.
b) Đoạn mở đầu nêu khung cảnh
Truyện ngắn là chuyện kể về các nhân vật và cuộc sống của họ. Cảnh là
không gian sống của nhân vật, là một tình cảnh hiện tại của nhân vật. Khung
cảnh có thể trực tiếp nêu chủ đề, cũng có khi là khung cảnh có quan hệ gián
tiếp với chủ đề.
Ví dụ (19): Khung cảnh có quan hệ gián tiếp với chủ đề.
“Cái sân trước không có ai, lá bạch đàn khô se sẽ đậu trên băng đá. Nhà
trên cũng không có ai, cây chổi lông gà nằm chéo trên cái bàn chữ U, nửa
ngoài đã sạch bong, nửa trong bụi còn đóng một lớp dày. Con Phèn chắc cũng
đi cua gái, không thấy nhảy xổ ra, tí tởn. Có tiếng nước chảy tồ tồ ở đằng sau,
chắc má tôi ở trong ấy.” [5. N.N]
Tác phẩm là câu chuyện kể về công việc, tình yêu của nhân vật xưng
“tôi” và sự cô đơn, trống vắng của “tôi” khi không có người chia sẻ nỗi vui
buồn trên đường đời ngổn ngang. Đoạn mở đầu tưởng chừng như không có
mối liên hệ với chủ đề tác phẩm nhưng thực ra không gian của đoạn mở đầu
đã phảng phất sự cô đơn, vắng vẻ, như dự báo tâm trạng cô đơn của nhân vật.
Có thể thấy, đoạn văn mở đầu nêu khung cảnh không chỉ tạo nên cảm
xúc nơi người đọc về tác phẩm mà còn gợi mở những “tình huống” cho chủ
đề của tác phẩm diễn tiến một cách thuận lợi.
c) Đoạn mở đầu nêu tình huống liên quan đến chủ đề

Ví dụ (20):
“Ông Tư Mốt chỉ cái dải xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha
kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy
24


hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh rập rờn đi trong giông gió. Người
thành phố ngồi ngấm cái “mấy hồi” của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây
cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt). Mưa dịu lại,
hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng.
Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc “mức” nghen,
coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập cuống nước,
hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè
chiếc xuồng vô sau, dậm chân dậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ
tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước
mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia làm cho người bác sĩ trẻ
nầy thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước
đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn.” [8. T.Q.R.R]
Đoạn miêu tả đoạn đường vất vả từ thành phố đến cù lao Mút Cà Tha
của Văn. Nó báo trước sự ra đi của Văn ở cuối tác phẩm.
Với chức năng định hướng nội dung, đoạn văn mở đầu trong truyện ngắn
của Nguyễn Ngọc Tư có thể nêu chủ đề, định hướng triển khai chủ đề ở các
đoạn tiếp theo, giới thiệu nhân vật, định vị không gian, thời gian, tình huống,
sự kiện làm khung cảnh chung cho truyện. Mỗi nội dung được xác định ở
đoạn mở đầu sẽ là tiền đề giúp bạn đọc định hướng nội dung của truyện và dễ
dàng theo dõi diễn biến nội dung cốt truyện.
1.3.3.2 Chức năng định hướng về giọng điệu
Giọng điệu là “thái độ tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc thái tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ,

thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [trích theo 3,121]. Nhà văn
nào khi sáng tác cũng phải thể hiện được giọng điệu riêng của mình vì nền
tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Chẳng hạn, cùng theo
xu hướng hiện thực phê phán nhưng Nguyễn Công Hoan và Nam Cao có
những giọng điệu khác nhau.

25


×