Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài kinh nghiệm nước ngoài và gợi ý đối với việt nam luận văn ths luật 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (791.95 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH
NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI: KINH NGHIỆM
NƯỚC NGOÀI VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHAN THỊ HUYỀN

PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH
NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI: KINH NGHIỆM
NƯỚC NGOÀI VÀ GỢI Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Chuyên ngành: LUẬT QUỐC TẾ
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN MINH NGỌC

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phan Thị Huyền


DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
viết tắt
CHLB
FTC

MOFCOM

Tiếng Việt

Tiếng Anh

Cộng hòa Liêng bang


Federal Republic

Đạo luật Ủy ban Thương mại
Liêng bang
Bộ Thương mại Trung Quốc

Federal Trade Commission
Ministry of Commerce, People’s
Republic of China

Cơ quan nhà nước về Công

State Administration for Industry

nghiệp và Thương mại

and Commerce

USD

Đô la Mỹ

United States Dollar

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

World Trade Organization


SAIC


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Quy trình áp dụng cơ chế giám sát an ninh quốc gia tại Trung Quốc

......................................................... Error! Bookmark not defined.
Bảng 2.2. Ngưỡng lệ phí theo đạo luật HSR điều chỉnh 2016 Error! Bookmark not
defined.
Bảng 3.4. Thống kê một số vụ mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài nổi bật
trong giai đoạn 2014-2016 ................. Error! Bookmark not defined.
Biểu đồ 3.1: Số lượng và giá trị M&A tại Việt Nam (2012-2014) – Báo cáo tập
trung kinh tế 2014, Cục quản lý cạnh tranh. .......... Error! Bookmark not
defined.
Biểu đồ 3.2. Tỷ trọng các ngành trong tổng giá trị M&A năm 2014 ................ Error!
Bookmark not defined.
Biểu đồ 3.3. Các loại hình tập trung kinh tế theo thay đổi đăng ký kinh doanh/Giấy
chứng nhận đầu tư 2012-2014 ................. Error! Bookmark not defined.


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI ............................................................................................ 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài ................................................................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ............ 7
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài .......... 12
1.2. Vai trò của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ................. 17
1.3. Các hình thức mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ............................. 22

1.3.1. Sáp nhập theo chiều ngang (horizontal mergers) ............................................ 22
1.3.2. Sáp nhập theo chiều dọc (Vertical mergers) ................................................... 23
1.3.3. Sáp nhập tổ hợp (conglomerate mergers) ....................................................... 23
1.4. Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài .......................................................................................................................... 24
Chương 2: HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH
TRÊN THẾ GIỚI VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM .... Error! Bookmark not defined.
2.1. Trung Quốc ........................................................ Error! Bookmark not defined.
2.2. Hoa Kỳ ............................................................... Error! Bookmark not defined.
2.3. Cộng hòa Liên bang Đức ................................... Error! Bookmark not defined.
2.4. Việt Nam ............................................................ Error! Bookmark not defined.
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA
BÁN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀIError! Bookmark not defined.
3.1. Thực trạng hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam ........................................................................... Error! Bookmark not defined.


3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật về hoạt động
mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. ........... Error! Bookmark not defined.
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam. .......................................................................... Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN ............................................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Cụm từ Merge and Acquisition (viết tắt là M&A) có nghĩa là sáp nhập và
mua lại (hoặc mua bán) doanh nghiệp, là việc mua bán và sáp nhập các doanh
nghiệp trên thị trường. Trong một số trường hợp khác, người ta dịch cụm từ này là
sáp nhập và mua lại. M&A là hoạt động giành quyền kiểm soát, chi phối một phần
hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một
phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. M&A là một phần tất yếu của bất cứ nền kinh tế
lành mạnh nào và là công cụ để tái cơ cấu doanh nghiệp một cách hiệu quả.
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp là một cụm từ mới xuất hiện ở Việt Nam,
đặc biệt là khi thị trường chứng khoán ở Việt Nam có những bước phát triển nhanh
chóng. M&A đã thu hút các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong những năm gần đây, đầu tư theo hình thức mua bán doanh nghiệp đã chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới. Trong xu hướng
kinh tế và thị trường nói trên, nhiều người tin rằng, số lượng và giá trị của các giao
dịch M&A tại Việt Nam có thể còn tiếp tục tăng mạnh trong các năm tới. Điều đáng
lưu ý hơn là, các con số này ngày càng tăng, bất chấp bối cảnh hệ thống quy định
pháp luật liên quan đến M&A của Việt Nam, dù đang phát triển, nhưng vẫn còn ở
giai đoạn sơ khai và đòi hỏi những cải cách tức thời để tận dụng tối đa tiềm năng
của thị trường. Bên cạnh đó M&A còn thu hút các nhà khoa học trong các lĩnh vực
như kinh tế và pháp lý do mức độ phổ biến cũng như tác động của M&A đến nền
kinh tế trong nước cũng như quốc tế. Hiện nay, M&A chủ yếu được nghiên cứu và
xem xét dưới góc độ kinh tế như vấn đề định hướng quản trị doanh nghiệp, bên
cạnh đó còn được nghiên cứu dưới góc độ pháp lý như một đối tượng để đưa ra quy
định, khuôn khổ pháp lý để thực hiện các giao dịch mua bán doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, các công trình khoa học pháp lý nghiên cứu về M&A nói chung
và mua bán doanh nghiệp nước ngoài nói riêng tương đối ít. Các công trình nghiên
cứu trong lĩnh vực này hầu hết là các công trình nghiên cứu dưới góc độ kinh tế.

1



Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đã có những quy định về tổ chức lại doanh nghiệp
với các hình thức như chia doanh nghiệp, tách doanh nghiệp, sáp nhập doanh
nghiệp…tuy nhiên một quy định rõ ràng cụ thể về mua bán doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài thì vẫn còn thiếu. Hầu hết các bài nghiên cứu đã có hiện nay đều tập
trung nghiên cứu về các vấn đề mua bán doanh nghiệp nói chung hoặc về hợp đồng
mua bán doanh nghiệp, chưa cụ thể hóa được những bài học cũng như định hình
khung pháp luật cho mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, định
hướng khung pháp luật về mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài dựa trên
kinh nghiệm của các quốc gia khác là đề tài gợi mở cho ý tưởng nghiên cứu luận
văn thạc sỹ của em.
Cũng từ những suy nghĩ trên em đã chọn đề tài “Pháp luật về hoạt động mua
bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài: kinh nghiệm nước ngoài và gợi ý đối với
Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ, để tìm hiểu thực trạng hoạt động mua bán
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam, bên cạnh đó tìm hiểu pháp luật
một số quốc gia quy định về vấn đề hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài. Qua đó, rút ra kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hoạt
động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.
Đây là đề tài tương đối rộng và hấp dẫn. Do nhận thức cùng với thời gian
nghiên cứu còn hạn chế nên còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự
góp ý và giúp đỡ của các thầy cô.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, có rất nhiều các bài báo, sách, các bài viết
của các học giả trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài. Có thể kể đến một số
bài viết như:
- Andrew J.Sherman, Milledge A.Hart (2009), Mua lại và sáp nhập từ A đến
Z, Nxb Tri Thức, Hà Nội. . Cuốn sách Mua lại và sáp nhập từ A đến Z của tác giả
Andrew J.Sherman và Milledge A.Hart đã trình bày chi tiết cách thức một giao dịch
mua bán doanh nghiệp được thực hiện, trình bày những thương vụ mua bán doanh
nghiệp nổi bật và một số vụ việc điển hình cho thấy những lỗ hổng pháp luật mà từ
đó các quốc gia trên thế giới hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp.


2


-

Ths.Trần Quỳnh Anh (2012), Khái quát pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức

về hoạt động sáp nhập và mua lại doanh nghiệp – bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam, Tạp chí Luật học, (số 9), Đại học Luật Hà Nội. Bài viết của Ths.Trần Quỳnh
Anh đã khái quát một số quy định của pháp luật CHLB Đức, là nguồn tài liệu có giá
trị tham khảo cao và dựa trên những nghiên cứu của Ths.Trần Quỳnh Anh tác giả
luận văn có thể tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu hơn về pháp luật CHLB Đức về mua
bán doanh nghiệp để làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
-

Trần Thị Bảo Ánh (2008), Some notes on M&A law, Tạp chí VietNam Law

& Laegal Forum.
- Trần Thị Bảo Ánh (2013), Quan hệ mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam –
nhận diện dưới góc độ pháp lý, Tạp chí Luật học.
- Trần Thị Bảo Ánh (2014), Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt Nam,
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
Những bài viết, nghiên cứu của Trần Thị Bảo Ánh đã bao quát, phân tích rất
chuyên sâu về hoạt động mua bán doanh nghiệp và pháp luật mua bán doanh nghiệp
tại Việt Nam tuy nhiên lại chưa nghiên cứu pháp luật về mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài.
- Đinh Văn Ân (2003), Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), Kỷ yếu hội nghị 25 năm đầu tư trực tiếp

nước ngoài tại Việt Nam, Hà Nội.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), M&A: Toàn cảnh thị trường Mua bán – Sáp
nhập doanh nghiệp Việt Nam 2012, Đặc san của báo Đầu tư, Hà Nội.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2013), M&A: Mua bán – Sáp nhập doanh nghiệp
Việt Nam 2013, Đặc san của báo Đầu tư, Hà Nội.
- Cục Đầu tư nước ngoài (2016), Tổng giá trị M&A tại Việt Nam đạt trên 3 tỷ
USD trong nửa đầu năm 2016, Trang thông tin điện tử đầu tư nước ngoài, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
- Cục Quản lý Cạnh tranh (2011), Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm
2011, Bộ Công thương, Hà Nội.

3


-

Cục Quản lý Cạnh tranh (2015), Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm

2014, Bộ Công thương, Hà Nội.
-

Cục Quản lý Cạnh tranh (2015), Báo cáo thường niên 2015, Bộ Công

thương, Hà Nội.
- Cục Quản lý Cạnh tranh (2007), Các vấn đề pháp lý và thực tiễn về tập trung
kinh té, Hội thảo chuyên đề, Hà Nội.
Các báo cáo của Cục Quản lý Cạnh tranh và những bài báo của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư đã tổng kết số liệu những vụ mua bán doanh nghiệp, tỷ trọng các ngành
nghề được tập trung mua bán. Đó là cơ sở để tác giả luận văn phân tích thực trạng
và rút ra sự cấp thiết phải hoàn thiện pháp luật về mua bán doanh nghiệp có yếu tố

nước ngoài.
- TS. Nguyễn Thị Dung (2009), Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và
đầu tư – Những vấn đề pháp lý cơ bản, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Duy (2011), Phân tích xu hướng sáp nhập, hợp nhất và mua lại doanh
nghiệp tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015, Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công
thương.
- Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (2009), Hoạt động sáp nhập và
mua lại: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị chính sách cho Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội. Đề tài khoa học cuả Viện nghiên cứu quản lý kinh
tế trung ương đã khái quát khái niệm hoạt động sáp nhập và mua lại, nghiên cứu
kinh nghiệm pháp luật một số quốc gia về mua bán doanh nghiệp nói chung. Tuy
nhiên
- Hui Huang, (2006), China’s new regulation of foreign m&a: green light or
red flag?, University of New South Wales Law Journal, Vol 30 (3). Bài viết của học
giả Trung Quốc giúp tác giả có thêm một cách nhìn nhận vấn đề từ thực tiễn hoạt
động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Trung Quốc. Từ đó có những
phân tích và áp dụng pháp luật đối với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.
Trên cơ sở các bài nghiên cứu có liên quan, đề tài có sự kế thừa cũng như tìm
hiểu vấn đề ở khía cạnh mới, tập trung vào quy định pháp luật về hoạt động mua
bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.

4


3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Từ thực tiễn của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài đang
diễn ra sôi động tại Việt Nam, tác giả luận văn làm rõ hơn quy định của pháp luật
Việt Nam về mua bán doanh nghiệp nói chung và quy định cụ thể về mua bán
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, so sánh đối chiếu với pháp luật

một số quốc gia trên thế giới trong việc quy định về hoạt động mua bán doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài. Trên cơ sở pháp luật Việt Nam hiện hành và pháp luật
nước ngoài rút kinh nghiệm cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán
doanh nghiệp tại Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ hơn một số vấn đề thực tiễn và lý luận về hoạt động mua bán doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài.
- Làm sáng tỏ hơn pháp luật một số quốc gia về hoạt động mua bán doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài.
- Đề xuất kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua bán doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam và pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
- Phạm vi nghiên cứu: pháp luật Việt Nam (thực trạng quy định pháp luật và thực
tiễn áp dụng) và pháp luật một số quốc gia về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài
- Các câu hỏi nghiên cứu:
+ Thực trạng mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong
thời gian qua?
+ Pháp luật các quốc gia khác quy định về hoạt động mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài như thế nào?
+ Từ kinh nghiệm của các quốc gia khác, có những gợi ý nào để nâng cao hiệu

5


quả thực thi các quy định về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
của Việt Nam?
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam liên quan đến các vấn đề nghiên cứu.
Đồng thời Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: thống
kê, tổng hợp, so sánh, phân tích…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Đánh giá một cách tổng quát tình hình mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua.
- Làm rõ quy định về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
của một số quốc gia.
- Nêu lên những đánh giá các quy định về hoạt động mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài của Việt Nam hiện tại và gợi ý nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật của Việt Nam dựa trên kinh nghiệm xây dựng pháp luật về hoạt động mua bán
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài của các quốc gia.
7. Bố cục của Luận văn
Luận văn ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, bao
gồm 3 Chương:
Chương 1:

Lý luận về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài.

Chương 2:

Hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài theo
pháp luật một số quốc gia điển hình trên thế giới và pháp luật
Việt Nam.

Chương 3:


Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA BÁN DOANH NGHIỆP CÓ
YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu
tố nước ngoài
1.1.1. Khái niệm về hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài
Mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là một hiện tượng tất yếu và
phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập
mạnh mẽ giữa các nền kinh tế trên thế giới. Hiện tượng này đã phát triển tại rất
nhiều quốc gia như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga, Đức, Hàn Quốc…và cả ở Việt Nam.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan tâm chủ yếu tới hệ quả của việc mua
bán doanh nghiệp, hay nói cách khác chính là khả năng kiểm soát và chi phối doanh
nghiệp được mua bán. Tuy nhiên, tại mỗi quốc gia vẫn có sự khác biệt trong khái
niệm về hoạt động mua bán doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
Tại Hoa Kỳ, hoạt động mua bán doanh nghiệp được thực hiện theo một số
hình thức như mua tài sản của doanh nghiệp hoặc mua lại phần vốn góp của chủ sở
hữu doanh nghiệp (hay còn gọi là mua lại cổ phần của cổ đông doanh nghiệp); thay
đổi cấu trúc vốn của doanh nghiệp và tái cơ cấu doanh nghiệp. Mua bán doanh
nghiệp theo hình thức thứ nhất là mua bán tài sản của doanh nghiệp, theo đó bên
mua có thể mua lại tài sản như máy móc, một bộ phận hay thậm chí toàn bộ công ty
[1, tr.28]. Việc mua lại tài sản của doanh nghiệp và các quyền tài sản của doanh
nghiệp dưới góc độ kinh tế chính là nhằm mục tiêu kiểm soát hoạt động của doanh
nghiệp đó. Mua bán doanh nghiệp theo hình thức mua cổ phần của cổ đông doanh

nghiệp nghĩa là bên mua sẽ mua một tỷ lệ cổ phần đủ để kiểm soát được hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu. Bởi vì, mục tiêu của bên mua khi mua cổ
phần của cổ đông trong trường hợp này là nhằm kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu.
Mua bán doanh nghiệp theo hình thức thay đổi cấu trúc vốn của doanh nghiệp mục

7


tiêu là doanh nghiệp mục tiêu phải thay đổi cấu trúc vốn để vốn nợ giảm xuống và
hấp dẫn các nhà đầu tư mua lại doanh nghiệp mục tiêu. Việc thay đổi cấu trúc vốn
có thể được thực hiện qua các hình thức như phát hành cổ phiếu, hoán đổi cổ phiếu.
Cuối cùng là hình thức tái cơ cấu doanh nghiệp, nghĩa là việc doanh nghiệp sẽ tập
trung vốn đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh là thế mạnh của doanh nghiệp và
bán bớt những lĩnh vực kinh doanh không phải là thế mạnh, không thu nhiều lợi
nhuận.
Như vậy, có thể thấy ở Hoa Kỳ dù là với hình thức nào thì hoạt động mua
bán doanh nghiệp cũng nhằm đến một đối trượng trong các vụ mua bán đó là
“doanh nghiệp”. Mục đích của hoạt động mua bán doanh nghiệp đều là nhằm kiểm
soát toàn bộ hoặc chi phối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại.
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, pháp luật của Cộng hòa Liên bang Đức không
định nghĩa về mua bán doanh nghiệp mà chỉ quy định về các hình thức mua bán,
sáp nhập doanh nghiệp. Theo đó, mua bán doanh nghiệp ở Đức sẽ bao gồm hình
thức mua bán tài sản của công ty, mua cổ phần hoặc phần vốn góp chi phối của
công ty, mua nợ của công ty. Các hình thức tổ chức lại công ty như hợp nhất, sáp
nhập, chuyển đổi, chia tách công ty không được coi là mua bán công ty mà chỉ là
hoạt động tổ chức lại công ty và hoạt động này thường được tiến hành ở giai đoạn
sau của giai đoạn mua bán công ty. Đối tượng mua bán được nhắm đến trong các
thương vụ mua bán doanh nghiệp theo hình thức mua bán tài sản của doanh nghiệp
là toàn bộ hoặc bộ phận tài sản của doanh nghiệp, được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng mua bán tài sản theo sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 1896 của Cộng

hòa Liên bang Đức.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, “mua bán doanh nghiệp” được đề cập
đến chủ yếu trong Luật Doanh nghiệp (2014), Luật Đầu tư (2014), Luật Cạnh tranh
(2004), Nghị định 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 Quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật Cạnh tranh (Nghị định 116/2005/NĐ-CP), Nghị định
118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số

8


điều của Luật đầu tư, Luật chứng khoán (2006), Luật Chứng khoán sửa đổi (2010),
Luật Các tổ chức tín dụng (2010).
Luật Doanh nghiệp (2014) đã sử dụng thuật ngữ “tổ chức lại doanh nghiệp”
và sau đó liệt kê các loại hình tổ chức lại doanh nghiệp bao gồm chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập và chuyển đổi loại hình kinh doanh. Trong Luật Doanh nghiệp
(2014) không trực tiếp đề cập đến cụm từ mua bán doanh nghiệp mà trong đó hình
thức sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp chính là một trong những hình
thức mua bán doanh nghiệp. Theo tác giả, mua bán doanh nghiệp không chỉ bao
gồm hình thức hợp nhất, sáp nhập mà còn phải kể đến hình thức mua lại. Do vậy
Luật Doanh nghiệp (2014) liệt kê như vậy vẫn chưa đầy đủ hết các hình thức mua
bán doanh nghiệp.
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp (2014), một cách tiếp cận khác được đề cập
đến trong Luật Cạnh tranh (2004) về mua bán doanh nghiệp tại Khoản 1, 3 Điều 17
như sau:
1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình
sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập.
2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình

thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các
doanh nghiệp bị hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
Như vậy trong Luật Canh tranh (2004) đã có sự khác biệt với Luật Doanh
nghiệp ở việc ghi nhận hoạt động mua bán doanh nghiệp dưới khái niệm “mua lại
doanh nghiệp”. Theo đó việc mua lại doanh nghiệp có chủ thể mua và bán doanh
nghiệp là doanh nghiệp; hình thức mua lại là mua toàn bộ tài sản doanh nghiệp hoặc

9


một phần tài sản doanh nghiệp; việc mua bán doanh nghiệp phải đạt đến hệ quả là
doanh nghiệp mua lại đủ khả năng kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề
của doanh nghiệp bị mua lại.
Trong Luật Đầu tư (2014) có nhắc đến thuật ngữ “mua lại” trong hoạt động
đầu tư ra nước ngoài tại Điểm c Khoản 1 Điều 52 như sau: “Mua lại một phần hoặc
toàn bộ vốn điều lệ của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý và thực
hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước ngoài”.
Xét về bản chất mua bán doanh nghiệp thì các hình thức như mua nợ, mua
bán tài sản, nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp…dẫn đến hệ quả là bên
mua lại nắm quyền kiểm soát, chi phối và điều hành kinh doanh doanh nghiệp bị
mua lại thì được coi là mua bán doanh nghiệp.
Theo Investment Dictionary (Hoa Kỳ) thì “Sáp nhập và mua lại là khái niệm
chung chỉ sự kết hợp giữa các doanh nghiệp với nhau. Sáp nhập (merger) là việc hai
doanh nghiệp nhập thành một doanh nghiệp mới, còn thâu tóm (acquisition) để chỉ
việc chuyển giao sở hữu một doanh nghiệp sang một doanh nghiệp khác mà không
xuất hiện thêm doanh nghiệp mới”.
Theo Small Business Dictionary (Hoa Kỳ):

Một vụ sáp nhập (merger) xảy ra khi một doanh nghiệp này nhận lãnh
đạo toàn bộ tài sản và nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp kia. Doanh
nghiệp mua lại vẫn giữ được địa vị của mình trong khi doanh nghiệp
bị mua chấm dứt sự tồn tại. Đáng chú ý, sáp nhập chỉ là một dạng thâu
tóm (acquisition) đặc thù, vốn có thể được thực hiện bằng nhiều cách
khác nhau, như mua lại không nhất thiết là toàn bộ mà có thể là một
phần chi phối trong tài sản hoặc cổ phần của doanh nghiệp mục tiêu.
Theo US History Encyclopedia thì “Sáp nhập (merger) là sự kết hợp giữa hai
công ty để hình thành một công ty mới, còn thâu tóm (acquisition) là việc một công
ty này tìm cách nắm quyền kiểm soát một công ty khác”.
Theo US Law Encyclopedia:

10


Sáp nhập và mua lại là sự kết hợp giữa hai doanh nghiệp mà ở đó một
doanh nghiệp hoàn toàn bị sáp nhập vào doanh nghiệp. Doanh nghiệp
sáp nhập thâu tóm toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập. Tuy nhiên, sáp nhập và
mua lại không đồng nghĩa với hợp nhất (consolidation), khái niệm để
chỉ việc hai doanh nghiệp cùng từ bỏ sự độc lập để hợp lại thành một
pháp nhân mới.
Theo Từ điển bách khoa trực tuyến Wikipedia:
Thâu tóm (acquisition) hay còn gọi là thôn tính (take-over) hoặc mua
lại (buy-out) là khái niệm chỉ việc một doanh nghiệp này mua lại một
doanh nghiệp khác. Thâu tóm có thể diễn ra trong không khí than
thiện hoặc thù địch. Trong khi đó, sáp nhập (merger) là sự kết hợp của
hai doanh nghiệp để hình thành nên một doanh nghiệp mới lớn hơn
bằng cách hoán đổi cổ phiếu hoặc thanh toán bằng tiền mặt. Sáp nhập
có thể được thực hiện bằng các biện pháp thôn tính nhưng điểm khác

biệt là doanh nghiệp sau sáp nhập thường được đổi tên bằng cách kết
hợp cả hai tên của doanh nghiệp sáp nhập và doanh nghiệp mục tiêu
(như trường hợp City-Group, Exxon-Mobil và Daimler-Chrysler).
Trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về hoạt động
mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Do vậy, khái niệm về mua bán doanh
nghiệp có yếu tố nước ngoài được trình bày trong luận văn phải đáp ứng các tiêu chí
sau:
Một là, cần làm rõ việc chuyển quyền sở hữu của doanh nghiệp bán cho bên
mua theo những cách thức nào. Mua bán doanh nghiệp và mua bán tài sản của
doanh nghiệp cần được phân biệt rõ, cũng như phân biệt giữa mua bán doanh
nghiệp với các hình thức đầu tư góp vốn vào vốn điều lệ của doanh nghiệp với tính
chất là đầu tư tài chính.

11


Hai là, cần xác định rõ hệ quả của hoạt động mua bán doanh nghiệp là bên
mua có khả năng kiểm soát, chi phối và điều hành hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Ba là, hoạt động mua bán doanh nghiệp phải có yếu tố nước ngoài, thể hiện
ở chủ thể mua bán là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc đối tượng bị mua lại là
doanh nghiệp nước ngoài.
Từ ba tiêu chí trên, có thể khẳng định quan niệm về mua bán doanh nghiệp
có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam như sau:
Mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là việc chủ sở hữu doanh
nghiệp chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, cổ phần chi phối cho
bên nhận chuyển nhượng. Bên nhận chuyển nhượng có quyền sở hữu một phần
hoặc toàn bộ doanh nghiệp và kiểm soát được hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được mua lại. Trong đó, một hoặc cả hai bên chủ thể là cá nhân, pháp nhân
nước ngoài; hoặc doanh nghiệp bị mua bán là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài
Hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài có những đặc điểm
đặc thù riêng biệt. Các đặc điểm của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài được thể hiện nổi bật ở các ý sau:
Một là, đối tượng của quan hệ mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
là doanh nghiệp. Cụ thể hơn, doanh nghiệp đó có thể là doanh nghiệp trong nước
hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong mối quan hệ mua bán doanh
nghiệp, “doanh nghiệp” chính là loại hàng hóa đặc biệt.
Trong thương vụ mua bán doanh nghiệp, bên bán doanh nghiệp chuyển
quyền sở hữu “hàng hóa” chính là một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp cho bên
mua. Bên mua có thể là chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp mục
tiêu tùy thuộc vào việc bên mua mua một phần hay mua toàn bộ doanh nghiệp mục
tiêu. Sau khi bán doanh nghiệp, bên bán sẽ không còn quyền sở hữu đối với một

12


phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đã bán và đổi lại bên bán sẽ được bên mua thanh
toán một số tiền hoặc tài sản khác. Hình thức thanh toán trong thương vụ mua bán
doanh nghiệp có thể là tiền mặt, chứng khoán của công ty mua lại hoặc những tài
sản khác có giá trị đối với công ty bán [1, tr.30].
Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt khác với những loại hàng hóa
thông thường. Điểm đặc biệt được thể hiện qua các yếu tố cấu thành doanh nghiệp,
gồm: tên riêng, tài sản của doanh nghiệp; có trụ sở giao dịch ổn định; có tư cách
pháp lý độc lập; có các quyền và nghĩa vụ trong kinh doanh được ghi nhận trong
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư; có hệ thống bộ
máy quản trị doanh nghiệp; có hệ thống nhân sự, lao động. Như vậy khi mua doanh
nghiệp, bên mua sẽ nắm trong tay toàn bộ hệ thống các yếu tố cấu thành nên doanh

nghiệp và chỉ khi bên mua mua được chỉnh thể hoàn chỉnh của doanh nghiệp cùng
các quyền gắn liền với doanh nghiệp thì mới được coi là đã mua doanh nghiệp. Mua
bán doanh nghiệp khác với mua bán tài sản doanh nghiệp, mua nợ doanh nghiệp và
cho thuê doanh nghiệp chính là ở tiêu chí thay đổi chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Hai là, chủ thể bán doanh nghiệp trong hoạt động mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài là chủ sở hữu doanh nghiệp trong nước, chủ sở hữu doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Chủ thể mua doanh nghiệp trong hoạt động mua bán
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc tổ chức, cá
nhân nước ngoài có nhu cầu mua doanh nghiệp và có quyền mua doanh nghiệp.
Về chủ thể bán doanh nghiệp: Chủ sở hữu doanh nghiệp là chủ thể có quyền
bán doanh nghiệp. Theo nguyên lý về quyền của chủ sở hữu thì chủ sở hữu doanh
nghiệp có quyền định đoạt về tài sản của doanh nghiệp bằng cách bán, tặng cho…
Mua bán doanh nghiệp khác với mua bán tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
chính là đối tượng của quan hệ mua bán, doanh nghiệp không thể tự bán mình và
chỉ có chủ sở hữu của doanh nghiệp mới có quyền bán doanh nghiệp. Khác với việc
bán tài sản, chủ thể có thể bán tài sản của doanh nghiệp chính là doanh nghiệp còn
chủ thể có thể bán doanh nghiệp phải là chủ sở hữu của doanh nghiệp.

13


Về chủ thể mua doanh nghiệp: Chủ thể mua doanh nghiệp là tổ chức, cá
nhân có nhu cầu mua doanh nghiệp. Chủ thể đó có thể là tổ chức, cá nhân trong
nước (mua doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) hoặc tổ chức, cá nhân nước
ngoài. Chủ thể mua doanh nghiệp có thể mua doanh nghiệp bằng việc mua lại hoặc
nhận chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của chủ sở hữu doanh nghiệp và sau đó
trở thành chủ sở hữu mới của doanh nghiệp. Chủ thể mua doanh nghiệp cũng có thể
chính là chủ sở hữu của doanh nghiệp, khi mua lại toàn bộ cổ phần, phần vốn góp
của các đồng chủ sở hữu khác. Trong trường hợp để bảo đảm an ninh tài chính, bên
mua cũng có thể là Chính phủ, các cơ quan tài chính, cơ quan bảo hiểm. Ví dụ: Năm

2008, để giảm bớt hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ, Chính phủ Mỹ đã
phải mua lại hai doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cho vay cầm cố [10, tr.8].
Ba là, mua bán doanh nghiệp dẫn đến hệ quả là bên mua doanh nghiệp kiểm
soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại.
Đặc điểm này của mua bán doanh nghiệp tạo nên sự phân biệt rõ rệt giữa
mua bán doanh nghiệp với các hình thức đầu tư tài chính khác. Đây là một đặc
điểm quan trọng của mua bán doanh nghiệp. Một thương vụ mua bán doanh nghiệp
phải đáp ứng tiêu chí là bên mua doanh nghiệp sẽ nắm quyền chi phối, kiểm soát
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc tham gia vào bộ máy quản
trị kinh doanh. Việc tham gia kiểm soát, điều hành được thể hiện thông qua quyền
quyết định đối với mọi hoạt động của doanh nghiệp hoặc có đủ vốn góp, cổ phần
chi phối để có quyền biểu quyết các vấn đề của doanh nghiệp trong cuộc họp của cơ
quan quản trị (quyết định phương hướng hoạt động, mục tiêu, sản phẩm kinh doanh,
tổ chức nhân sự, tổ chức lại doanh nghiệp…).
Đặc điểm về hệ quả của mua bán doanh nghiệp đã phân biệt rất rõ giữa mua
bán doanh nghiệp và sáp nhập doanh nghiệp. Đối với mua bán doanh nghiệp, doanh
nghiệp sau khi bị mua bán sẽ bị chuyển quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ sang
chủ sở hữu mới, chủ sở hữu có thể quyết định việc doanh nghiệp đó sẽ trở thành
một doanh nghiệp con của doanh nghiệp mình hoặc vẫn giữ doanh nghiệp bị mua
lại tồn tại và hoạt động độc lập. Trong hoạt động sáp nhập doanh nghiệp, doanh

14


nghiệp bị sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại và trở thành một phần của doanh nghiệp
thực hiện sáp nhập.
Mua bán doanh nghiệp cũng khác hình thức hợp nhất doanh nghiệp. Trong
hình thức hợp nhất thì vị thế của các doanh nghiệp tham gia hợp nhất và mức độ
hợp tác thân thiện giữa họ đòi hỏi ở mức độ cao. Đây cũng chính là lý do các vụ
hợp nhất xảy ra ít phổ biến hơn so với mua bán doanh nghiệp và sáp nhập doanh

nghiệp. Bởi khi có nhu cầu liên kết, các doanh nghiệp sẽ có nhiều lựa chọn như lập
liên doanh mới tồn tại độc lập, sử dụng hợp đồng hợp tác kinh doanh, ký kết thỏa
thuận liên minh…mà không ảnh hưởng tới tổ chức của các doanh nghiệp.Các doanh
nghiệp bị hợp nhất sẽ chấm dứt sự tồn tại và cùng với đó là sự ra đời của một doanh
nghiệp mới.
Việc thay đổi chủ sở hữu và quyền kiểm soát, điều hành kinh doanh của
doanh nghiệp sau thương vụ mua bán doanh nghiệp đã phân biệt với các hình thức
chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp của cổ đông, thành viên công ty mà bên
nhận chuyển nhượng không tham gia hoạt động quản lý, điều hành, chỉ đơn thuần
nhận cổ tức hoặc nhận thặng dư khi bán lại cổ phần cho nhà đầu tư khác thì đó chỉ
là quan hệ đầu tư tài chính thông thường.
Bốn là, mua bán doanh nghiệp phải được thực hiện thông qua hình thức pháp
lý bằng hợp đồng. Hợp đồng đó có thể là hợp đồng mua bán doanh nghiệp, hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần, hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp chi phối
(đều được gọi chung là hợp đồng mua bán doanh nghiệp).
Căn cứ vào tiêu chí mua bán doanh nghiệp là chuyển quyền sở hữu và kiểm
soát được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mục tiêu, có thể chia hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp thành hai loại với tính chất khác biệt nhau:
(i)

Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chi phối ghi nhận

những nội dung của quan hệ mua bán doanh nghiệp. Nội dung các hợp đồng này
thường cụ thể, chi tiết và các bên chủ thể hợp đồng thỏa thuận về việc chuyển giao
quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu cho bên nhận chuyển nhượng cổ phần,
phần vốn góp.

15



(ii)

Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp là hình thức pháp lý

của quan hệ đầu tư tài chính. Nội dung các hợp đồng loại này không ghi nhận việc
chuyển quyền kiểm soát doanh nghiệp mục tiêu cho bên nhận chuyển nhượng cổ
phần, phần vốn góp và thông thường nội dung hợp đồng đơn giản hơn so với nội
dung của hợp đồng chuyển nhượng cổ phần, phần vốn chi phối [5].
Năm là, hoạt động mua bán doanh nghiệp được cơ quan nhà nước kiểm soát
thông qua những thủ tục pháp lý nhất định.
Một thương vụ mua bán doanh nghiệp phải thực hiện những thủ tục pháp lý
theo quy định của pháp luật các quốc gia liên quan đến thương vụ mua bán doanh
nghiệp đó. Thủ tục mua bán doanh nghiệp là khung pháp lý quan trọng để nhà nước
có thể kiểm soát được hoạt động mua bán doanh nghiệp cũng như quản lý kinh tế.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay đều quy định một thương vụ mua bán
doanh nghiệp khi đạt tới một mức doanh thu hoặc thị phần kết hợp đến một giới hạn
nhất định thì phải chịu sự kiểm soát của nhà nước đối với thương vụ đó. Thậm chí,
có những thương vụ phải xin phép và phải được sự chấp nhận của cơ quan nhà nước
mới có thể hoàn thành vụ mua bán. Thông thường cơ quan quản lý cạnh tranh của
quốc gia sẽ quản lý, kiểm soát và cấp phép cho những thương vụ mua bán doanh
nghiệp trong trường hợp này. Tại Việt Nam, Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan
quản lý hoạt động mua bán doanh nghiệp trên khía cạnh cạnh tranh. Theo Khoản 1
Điều 20 Luật Cạnh tranh (2004) quy định “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có
thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của
các doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến
hành tập trung kinh tế. Trường hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp doanh
nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa
theo quy định của pháp luật thì không phải thông báo.”
Luật pháp liên bang tại Hoa Kỳ lại không dựa vào thị phần kết hợp trên thị

trường của thương vụ mua bán doanh nghiệp để quy định việc phải báo cáo về
thương vụ mua bán doanh nghiệp mà dựa trên trị giá của vụ mua bán doanh nghiệp.

16


Ủy ban thương mại liên bang (Federal Trade Commission – FTC) của Hoa Kỳ đã
ban hành Luật chống độc quyền Hart-Scott-Rodino (HSR) năm 1976 bắt buộc các
bên liên quan phải thông báo và nộp hồ sơ thẩm tra lên FTC và Bộ Tư pháp trước
khi hoàn thành vụ mua bán doanh nghiệp. Giá trị của thương vụ mua bán doanh
nghiệp dùng để làm mức xác định vụ mua bán đó có phải báo cáo hay không được
thay đổi theo từng năm. Ngưỡng quy định mới nhất theo điều chỉnh của HSR là các
vụ mua bán doanh nghiệp có giá trị trên 78,2 triệu đô la Mỹ phải làm thủ tục thông
báo tới FTC hoặc Bộ Tư pháp (kể từ ngày 25/02/2016) [45].
Quy định về thủ tục thông báo này là vô cùng cần thiết bởi được xuất phát từ
yêu cầu bảo vệ cạnh tranh trên thị trường, ngăn ngừa hiện tượng mua bán doanh
nghiệp tự do để hình thành nên doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp
độc quyền, làm triệt tiêu cạnh tranh.
Bên cạnh các thương vụ mua bán doanh nghiệp được pháp luật quy định phải
làm thủ tục báo cáo thì cũng có những thương vụ mua bán doanh nghiệp nhỏ chưa
đạt tới ngưỡng phải báo cáo hoặc những trường hợp được miễn trừ thì có thể tự do
mua bán doanh nghiệp. Các thương vụ mua bán doanh nghiệp này chỉ cần làm thủ
tục tại cơ quan quản lý doanh nghiệp (ở Việt Nam là cơ quan thực hiện thay đổi
giấy phép đăng ký kinh doanh).
1.2. Vai trò của pháp luật đối với hoạt động mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài
Trước hết cần làm rõ sự quan trọng của hoạt động mua bán doanh nghiệp có
yếu tố nước ngoài, được thể hiện ở vai trò của hoạt động mua bán doanh nghiệp như
sau:
Thứ nhất, hoạt động mua bán doanh nghiệp có vai trò rất lớn, tác động trực

tiếp đến bên mua và bên bán doanh nghiệp. Hai bên mua và bán đều được gia tăng
lợi ích kinh tế từ việc thực hiện thương vụ mua bán doanh nghiệp. Trong hoạt động
mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài thì các bên còn có những lợi ích đặc
biệt liên quan đến việc xâm nhập thị trường nội địa của nhà đầu tư nước ngoài. Xét
trên khía cạnh kinh tế, động cơ của việc mua lại doanh nghiệp là để nâng cao hiệu

17


quả hoạt động của doanh nghiệp, tăng giá trị của doanh nghiệp lên so với trước khi
bị mua lại. Bên bán doanh nghiệp sẽ thu được một khoản tiền từ việc bán doanh
nghiệp. Cụ thể, vai trò của hoạt động mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
đối với bên mua và bên bán như sau:
(i) Mua bán doanh nghiệp giúp bên mua nhanh chóng gia nhập thị trường, rút
ngắn thời gian và tiết kiệm chi phí tiếp cận thị trường, tận dụng được cơ sở vật chất
, nhân lực và nguồn tri thức sẵn có của doanh nghiệp bị mua lại.
Khi mua lại doanh nghiệp, bên mua sẽ tránh được một số rào cản về thủ tục
hành chính khi gia nhập thị trường, như thủ tục xin cấp giấy phép đăng kí kinh
doanh tại Việt Nam. Lúc này, bên mua doanh nghiệp chỉ cần làm thủ tục đổi tên chủ
doanh nghiệp đơn giản hơn rất nhiều. Thay vì việc thành lập một doanh nghiệp mới,
phải tìm kiếm đối tác, tìm kiếm và xây dựng nhân sự, tìm kiếm thị trường, quảng bá
tới khách hàng cũng như phải triển khai mạng lưới phân phối...thì bên mua doanh
nghiệp sau khi mua lại doanh nghiệp đã sở hữu toàn bộ cơ sở vật chất, hệ thống
nhân sự, thị trường, đối tác, cơ sở khách hàng và mạng lưới phân phối sẵn có. Việc
tận dụng được những lợi thế sẵn có của doanh nghiệp bị mua lại đã giúp bên mua
doanh nghiệp có thể nhanh chóng tiến hành hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận
ngay lập tức. Đặc biệt, khi mua lại doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề công nghệ
có sẵn tài sản trí tuệ là những “nhân tài công nghệ” sẽ giúp cho bên mua lại doanh
nghiệp không mất thời gian tìm kiếm, chiêu mộ mà sẵn có ngay đội ngũ nghiên cứu,
sáng tạo sản phẩm mới theo định hướng phát triển của công ty. Ví dụ như:

Hãng Lenovo đã mua lại mảng kinh doanh PC của IBM năm 2005,
lúc này Lenovo đứng vị trí số 9 trong ngành công nghiệp PC toàn cầu
với thị phần 2,3% và doanh thu hàng năm chỉ 3 tỉ USD. Lực lượng
nhân sự trước kia cũng giao lại cho công ty Lenovo Trung Quốc sau
khi 2 bên hoàn thành các thủ tục pháp lý. Đúng 10 năm sau, Lenovo
đã vươn lên vị trí số 1 thế giới về PC với thị phần 20% và doanh thu
tăng gấp 13 lần đạt 39 tỉ USD. Đáng chú ý, việc mua lại mảng PC của
IBM và sự tăng trưởng vượt bậc của mảng kinh doanh này đã mang

18


×