Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trung quốc và những gợi ý chính sách cho việt nam luận văn ths

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 134 trang )

I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KINH T
--------------

TRN TH THANH HUYN

quản lý nhà nước
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trung quốc
và những gợi ý chính sách cho việt nam

LUN VN THC S KINH T CHNH TR

H Ni 2009


I HC QUC GIA H NI
TRNG I HC KINH T
--------------

TRN TH THANH HUYN

quản lý nhà nước
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài ở trung quốc
và những gợi ý chính sách cho việt nam

Chuyờn ngnh : Kinh t chớnh tr
Mó s
: 60 31 01

LUN VN THC S KINH T CHNH TR


NGI HNG DN KHOA HC PGS-TS MAI TH THANH XUN

H Ni 2009

1


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐKKT

Đặc khu kinh tế

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

KCN

Khu công nghiệp

KCX


Khu chế xuất

M&A

Mua lại và sáp nhập

NDT

Đồng nhân dân tệ

R&D

Nghiên cứu và triển khai

TNCs

Công ty xuyên quốc gia

USD

Đồng đô la Mỹ

VAT

Thuế giá trị gia tăng

WT0

Tổ chức Thương mại Thế giới


2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời gian gần đây, người ta nói nhiều về hiện tượng thần kỳ của nền
kinh tế Trung Quốc với sự tăng trưởng “không thể cưỡng lại được”. Năm
2007, Trung Quốc đứng thứ 4 thế giới về GDP, thứ 3 về kim ngạch ngoại
thương và đứng thứ nhất về dự trữ ngoại tệ. Thậm chí theo dự báo của Ngân
hàng Đầu tư Hoa Kỳ tại Nhật Bản, đến năm 2015, Trung Quốc sẽ vượt Nhật,
trở thành cường quốc kinh tế đứng thứ hai thế giới (chỉ sau Mỹ) và đến năm
2040 sẽ đứng đầu thế giới.
Đóng góp cho sự thành công ấy có vai trò không nhỏ của khu vực kinh
tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc. Năm 2004,
Trung Quốc là nước đứng thứ hai thế giới (sau Mỹ) về thu hút FDI với tổng
vốn đầu tư tích luỹ chiếm tới hơn 40% GDP. Năm 2008 là năm thứ 17 liên
tiếp Trung Quốc dẫn đầu các quốc gia đang phát triển trong khả năng thu hút
FDI. Bình quân giai đoạn 2002-2008, Trung Quốc thu hút 65 tỷ USD vốn
FDI/năm. Tạo nên sức hấp dẫn của Trung Quốc đối với dòng vốn FDI trước
tiên phải kể đến vai trò của Nhà nước Trung Quốc. Cách làm của người Trung
Quốc có nhiều nét rất độc đáo, có thể là bài học cho nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Sau hơn 20 năm tồn tại và phát triển, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Việt Nam đã có chỗ đứng khá vững chắc, ngày càng khẳng
định vai trò quan trọng của nó đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ngày càng bộ lộ những hạn chế mà nguyên nhân một
phần xuất phát từ sự bất cập trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu
vực này. Vì vậy, việc đổi mới hoạt động quản lý Nhà nước đối với FDI ở Việt
Nam là cần thiết và quan trọng, đặc biệt khi chúng ta đã gia nhập WTO.


3


Là quốc gia láng giềng có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc về
kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội nói chung, về thu hút FDI nói riêng, Việt
Nam có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm quản lý FDI của họ nhằm thu hút,
sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và tình hình kinh tế toàn cầu suy giảm
hiện nay?
Đề tài luận văn “Quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Trung Quốc và những gợi ý chính sách cho Việt Nam” được thực
hiện với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc trả lời câu hỏi đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự trỗi dậy của nền kinh tế Trung Quốc đã thu hút sự chú ý của nhiều
nhà nghiên cứu tại nhiều quốc gia khác nhau. Đã có nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến vấn đề thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc
từ khi nước này thực hiện cải cách mở cửa nền kinh tế (1978), trong đó có
những công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn là:
- “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc từ 1979 đến nay” của
TS Nguyễn Kim Bảo, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000. Công trình này
này đã nghiên cứu một cách khá toàn diện về thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài của Trung Quốc từ năm 1979. Bên cạnh việc phân tích các đặc điểm chủ
yếu, tác giả còn phân tích tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung
Quốc tới các mặt kinh tế-xã hội và từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam.
- “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Trung Quốc thời kỳ 1978-2003: Thực trạng và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam”, luận án tiến sĩ của Đặng Thu Hương, năm 2007,
lưu tại thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội. Công trình này đã

phân tích, làm rõ một số lý luận cơ bản liên quan đến thu hút FDI, những nhân

4


tố tác động đến thu hút FDI trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò
của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển,
trong đó tập trung phân tích các chính sách, thực trạng thu hút FDI của Trung
Quốc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam.
- “Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc sau
khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”: Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Thìn, năm 2006, lưu tại thư viện
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Công trình này đã phân
tích, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chính sách thu hút
FDI; sự điều chỉnh chính sách thu hút FDI của Trung Quốc trước và sau khi
gia nhập WTO từ đó rút ra một số gợi ý cho Việt Nam.
- “Các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Trung Quốc - sẵn
sàng để thay đổi” Junya Sano đăng trên tạp chí Asia Monthly của Viện nghiên
cứu Quản lý Kinh tế Trung ương số tháng 3/2007 bàn về sự thay đổi trong
chính sách thu hút FDI của Trung Quốc sau 5 năm nước này gia nhập WTO.
Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu khác liên quan đến chủ đề này như
công trình “The latest on FDI in China” Steve Dickison tham gia tại hội thảo
của Trung Quốc: “Otimizing FDI strategy in the current economic climate”
ngày 12/1/2009 nói về sự chuyển hướng trong thu hút FDI của Trung Quốc do
tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hàng loạt các công trình
nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): “Trends and
Recent Developments in Foreign Direct Investment” (2004), “The OECD
welcomes policy advances at China’s 2007 national people’s congress
session” (2007)…
Các công trình trên chủ yếu đều tập trung vào nghiên cứu việc làm thế

nào để tăng cường thu hút vốn FDI ở Trung Quốc, mà còn ít công trình nghiên
cứu một cách tổng thể hoạt động quản lý Nhà nước kể cả trước và sau khi cấp

5


phép, hoặc nếu có công trình nào đó đề cập thì cũng chỉ dừng lại ở việc phân
tích hoạt động quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI được cấp phép, còn
hoạt động của khu vực này sau khi cấp phép như Nhà nước cần làm gì để hỗ
trợ doanh nghiệp triển khai, thực hiện dự án, công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát hoạt động đầu tư... thì vẫn còn bỏ ngỏ. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động
Quản lý Nhà nước (cả trước và sau khi cấp phép) đối với FDI ở Trung Quốc
để đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam là rất cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích: Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng hoạt động
quản lý Nhà nước đối với FDI ở Trung Quốc, rút ra bài học kinh nghiệm, từ
đó đưa ra một số gợi ý chính sách cho Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến đầu tư trực tiếp nước
ngoài và vai trò quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Phân tích hoạt động quản lý của Nhà nước Trung Quốc đối với FDI.
- Trên cơ sở phân tích mặt được và chưa được trong hoạt động quản lý
Nhà nước đối với FDI của Trung Quốc, luận văn đề xuất một số gợi ý về mặt
chính sách cho Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý Nhà
nước đối với FDI ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý Nhà nước đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý Nhà nước đối
với đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc (đại lục) và Việt Nam.

6


+ Về thời gian: Nghiên cứu quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại Trung Quốc từ khi cải cách mở cửa năm 1979 đến nay; đối với
Việt Nam, từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị là
chủ yếu, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... dựa trên các tài liệu thứ cấp.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá hoạt động quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay.
- Trên cơ sở phân tích những bài học thành công và không thành công
về quản lý Nhà nước đối với FDI của Trung Quốc, đưa ra một số gợi ý chính
sách cho Việt Nam về vấn đề này.
- Cung cấp tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, hệ thống các
bảng, biểu, hình vẽ, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai
trò quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước ở Trung Quốc đối với đầu tư
trực tiếp nước ngoài
Chương 3: Một số gợi ý chính sách cho Việt Nam trong quản lý Nhà
nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài


7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
VÀ VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. Khái quát những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã xuất hiện trên thế giới từ rất
lâu song kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2 tăng lên nhanh chóng và trở
thành hiện tượng nổi bật trong các hoạt động kinh tế quốc tế. Nguồn vốn đầu
tư quốc tế dần trở thành điều kiện thiết yếu để tăng trưởng kinh tế ở hầu hết
các quốc gia, đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng hiện nay. Vậy như thế nào là đầu tư trực tiếp nước ngoài thì cho tới nay
vẫn còn những cách hiểu khác nhau:
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn
đầu tư được thực hiện nhằm thu lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động
ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi
nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp
[41, tr.136]

8


Về thực chất, khái niệm này khẳng định tính lâu dài trong hoạt động đầu
tư và động cơ của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận, kiểm soát hoạt động

của các doanh nghiệp và mở rộng thị trường.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp
nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế
tại một nước (gọi là nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một
nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại của một mối quan hệ giữa
nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư cũng như nhà đầu tư giành được ảnh hưởng
quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực
tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau
giữa hai thực thể và các doanh nghiệp liên kết một cách chặt chẽ [49]. Theo
quan niệm này, động cơ chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài là phần vốn
được sử dụng ở nước ngoài gắn liền với việc tạo ra ảnh hưởng trực tiếp hoặc
phục vụ việc kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
tiếp nhận phần vốn đó.
Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1999 của Tổ chức Liên hợp quốc về
Thương mại và Phát triển (UNCTAD) thì "FDI là hoạt động đầu tư bao gồm
mối quan hệ dài hạn, phản ảnh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực
thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước
ngoài) trong một doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh
tế của nhà đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh
hoặc chi nhánh nước ngoài)" [54]. Quan niệm này coi FDI có hai đặc trưng là
quyền kiểm soát và lợi ích khống chế. Về quyền kiểm soát thì hầu như đã đạt
được sự nhất trí của các nhà nghiên cứu về FDI. Quyền kiểm soát là đặc trưng
tiêu biểu của FDI so với các phương thức đầu tư quốc tế khác. Quyền kiểm
soát làm cho các nhà đầu tư trực tiếp có được một lợi thế về thông tin so với

9


các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài và những người gửi tiền tiết kiệm ở trong

nước. Chính vì vậy, nhiều công ty xuyên quốc gia (TNCs) lớn của thế giới chủ
yếu thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước khác hơn là tham gia đầu
tư gián tiếp; nhiều công ty thực hiện các dự án FDI với điều kiện dành được
quyền kiểm soát ít nhất là 51% cổ phần của doanh nghiệp; có công ty chỉ thực
hiện hình thức 100% sở hữu vốn và quyền kiểm soát. Về lợi ích khống chế thì
đang có những ý kiến khác nhau, nhưng hiện nay nhiều người đã thừa nhận
rằng một công ty nước ngoài có tỷ lệ sở hữu cổ phần tối thiểu 10% thì có ảnh
hưởng nhất định đến quyền kiểm soát doanh nghiệp, tác động đến chiến lược
kinh doanh và quản trị doanh nghiệp.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng đầu tư trực tiếp là người sở
hữu tư bản tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước
khác. Nếu khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho thực thể kinh tế này của nước ngoài
có “ảnh hưởng quyết định” đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm “quyền
cầm cái” trong thực thể kinh tế mà nó có ảnh hưởng ấy, thì đó là đầu tư trực tiếp
[1, tr.7]. Quyền kiểm soát được đề cập tới ở đây là tỷ lệ cổ phần. Khi tỷ lệ cổ
phần đạt tới tỷ lệ nhất định nào đó thì có quyền kiểm soát xí nghiệp. Các xí
nghiệp khác nhau, tỷ lệ cổ phần để giành được quyền kiểm soát ấy có khác
nhau. Dịch chuyển tư bản quốc tế tùy theo từng nước cũng có sự khác nhau.
Điều đáng chú ý là quyền kiểm soát là vấn đề cốt lõi trong đầu tư trực tiếp mà
đầu tư trực tiếp cũng có thể không có sự dịch chuyển tư bản thực tế. Chẳng hạn
như các công ty mẹ cung cấp cho các công ty con kỹ năng quản lý, bí quyết
kinh doanh, kỹ thuật, nhãn hiệu và chỉ dẫn tiêu thụ. Những hoạt động này diễn
ra không kéo theo dịch chuyển tư bản. Cũng có thể công ty mẹ vay được tiền ở
nước chủ nhà, cùng với bản quyền nhãn hiệu và các tài sản vô hình khác như
quản lý kinh doanh...nên họ vẫn kiểm soát được các công ty con.

10


Theo Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam

khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005, tại khoản 3 điều 12 thì
“FDI là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”.
Luật này cho thấy không phải bất kỳ sự vận động nào về vốn từ nước
ngoài vào Việt Nam cũng đều là đầu tư nước ngoài. Những tài sản và vốn
muốn đưa vào Việt Nam phải là hợp pháp, tuân theo quy định của pháp luật
Việt Nam.
Các khái niệm nêu trên về FDI tuy còn có sự khác nhau song đều thống
nhất ở những điểm căn bản như: FDI là hình thức đầu tư quốc tế, cho phép các
nhà đầu tư tham gia điều hành hoạt động đầu tư ở nước tiếp nhận đầu tư tuỳ
theo mức góp vốn của nhà đầu tư . Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, quyền
sở hữu gắn liền với quyền sử dụng tài sản đầu tư, nghĩa là nhà đầu tư có thể có
lợi hơn khi đầu tư thu được lợi nhuận cao và chịu rủi ro hơn khi đầu tư thua lỗ.
Từ những khái niệm trên, có thể hiểu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là biểu hiện bằng tiền hoặc tài sản do tổ
chức hoặc cá nhân người nước ngoài mang vào nước khác (nước tiếp nhận)
để thực hiện kinh doanh theo luật pháp của nước tiếp nhận nhằm thu được lợi
ích. Các nhà đầu tư có quyền điều hành doanh nghiệp tuỳ theo tỷ lệ góp vốn
của mình.
Theo đó, các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư bằng tài sản ở nước
tiếp nhận đầu tư nhưng phải là những loại tài sản do nước tiếp nhận đầu tư quy
định trong luật pháp chứ không phải bất kỳ loại tài sản nào. Nguồn vốn đầu tư
không chỉ bao gồm nguồn vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức
vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của
doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn
lợi nhuận thu được.

11



1.1.1.2. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện theo hai kênh chủ yếu: hình
thức đầu tư mới (Greenfield) và hình thức mua lại và sáp nhập (Merger and
Aquitition). Đầu tư mới là hình thức mà các chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở
nước ngoài thông qua việc thành lập các doanh nghiệp mới, còn hình thức
mua lại và sáp nhập là hình thức mà các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua
việc mua lại hoặc sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Đầu tư
mới là kênh đầu tư truyền thống, chủ yếu để các nhà đầu tư ở các nước phát
triển đầu tư vào các nước đang phát triển. Còn mua lại và sáp nhập là kênh
đầu tư mới phổ biến những năm gần đây, được thực hiện ở các nước phát
triển, các nước mới công nghiệp hóa.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm những hình thức chủ yếu sau đây:
+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
+ Doanh nghiệp liên doanh
+ Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu
của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà
đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh nhưng vẫn là pháp nhân của nước chủ
nhà và chịu sự kiểm soát của luật pháp nước chủ nhà.
Nhìn chung, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài ngày càng được các
chủ đầu tư ưa thích vì họ được toàn quyền quản lý và hưởng lợi nhuận do kết
quả đầu tư tạo ra (chủ đầu tư chỉ phải làm tròn nghĩa vụ tài chính với nước chủ
nhà). Trong khi đó, nước chủ nhà không phải lúc nào cũng có thể tham gia
góp vốn thành lập doanh nghiệp liên doanh. Do vậy, đối với những dự án đầu
tư vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu, mức độ mạo hiểm cao và không đòi hỏi

12



phải tham gia quản lý sát sao quá trình vận hành các kết quả đầu tư thì hình
thức đầu tư 100% vốn được bên nước chủ nhà ưa chuộng hơn.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là:
Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (Building Operate
Transfer - BOT). Với hình thức BOT, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến
hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn
đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Sau khi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ
được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một khoản tiền nào.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao- kinh doanh (Building Transfer
Operate - BTO). Đối với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư
chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho
nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để
thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (Building-Transfer-BT). Đây là các
dạng đầu tư được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật. Đối với hình thức BT, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao
công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi đủ vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp
lý.
Doanh nghiệp liên doanh: Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do
hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở
góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ
góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty
TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa
chuộng vì hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước
chủ nhà, họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến,

13



kinh nghiệm quản lý hiện đại. Loại hình đầu tư này thường được nước chủ nhà
áp dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng để đạt được
kết quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước chủ nhà phải
có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ và
năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại
của nước ngoài.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh: Là hình thức liên kết kinh doanh giữa
hai bên hoặc nhiều bên trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh mà không thành
lập một pháp nhân.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, thường được áp dụng phổ
biến trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, công nghiệp gia công và
dịch vụ. Các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời hạn
hợp đồng thường ngắn. Do vậy loại hình này thích hợp với các nhà đầu tư
nước ngoài có ít tiềm lực về vốn.
1.1.2. Tác động của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư
1.1.2.1. Tác động tích cực
Thứ nhất, FDI góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện đang trở thành kênh quan trọng nhất
của việc chuyển giao công nghệ, nhờ đó nâng cao trình độ công nghệ và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Thông qua các doanh nghiệp có vốn FDI, những
công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ được du nhập vào nước nhận đầu tư, tạo sự
phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn như viễn thông, khai thác dầu
khí, hóa chất, điện tử, sản xuất ô tô... Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có trình độ công nghệ cao hơn cũng sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp trong

14



nước đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường trong nước và quốc tế.
Những năm qua, hầu hết công nghệ mới và hiện đại được du nhập vào
các nước đang phát triển chủ yếu là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài bởi
vì khả năng tự nhập khẩu công nghệ tiên tiến hay nghiên cứu những phát minh
sáng chế đối với các nước này còn rất hạn chế, chủ yếu do thiếu vốn. Do vậy,
với các nước này, việc thực hiện chính sách đa dạng hoá các kênh chuyển giao
công nghệ từ bên ngoài, đặc biệt là thông qua FDI có ý nghĩa quan trọng trong
quá trình CNH, HĐH đất nước.
Ngoài ra, thông qua FDI, các nước nhận đầu tư sẽ học hỏi được nhiều
kinh nghiệm kinh doanh của các tập đoàn kinh tế lớn, kinh nghiệm quản lý
kinh doanh hiện đại góp phần tích cực trong việc thúc đẩy đổi mới kỹ thuật,
nhờ đó góp phần làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy phân công lao động
quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, FDI góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực tế cho thấy FDI đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế ở hầu hết các nước. Ở Trung Quốc, nền kinh tế tăng trưởng cao
và liên tục trong gần 3 thập kỷ kể từ khi cải cách mở cửa một phần là do có sự
đóng góp tích cực của nguồn vốn FDI. Năm 2004, kinh tế Trung Quốc tăng
trưởng 9,5% và thu hút được 60,6 tỷ USD vốn FDI, trong đó đóng góp của
FDI vào tài sản cố định là 8,2% và GDP là 14,9%.
Theo UNCTAD, năm 2004, dòng vốn FDI trên toàn thế giới đóng góp
21,7% vào GDP và 7,5% vào tài sản cố định của thế giới. Singapo là nước có
tỷ trọng vốn FDI trong tài sản cố định và GDP cao nhất thế giới. Năm 2004
Singapo thu hút được 16,05 tỷ USD, đóng góp 62,7% vào tài sản cố định và
5,2% vào GDP. Malaixia cũng là nước có tỷ trọng vốn FDI trong tài sản cố
định và GDP thuộc loại cao. Năm 2004, FDI vào Malaixia đóng góp 39,3%

15



GDP và 19,1% tài sản cố định, cao hơn mức bình quân của các nước đang
phát triển là 26,4% và 10,5%. [7, tr 61-62].
Đối với Việt Nam, lượng vốn FDI thu hút trong năm 2004 là 4,5 tỷ USD,
đóng góp vào 14,2% tổng vốn đầu tư phát triển và 15,5% vào mức tăng GDP
7,79%. Năm 2007 con số tương ứng là 20,3 tỷ USD vốn FDI đóng góp 24,8%
vốn đầu tư phát triển, 17,7% vào GDP với tốc độ tăng trưởng 8,48% [28].
Thứ ba, FDI góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ngày nay, sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia không
còn đơn thuần phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà phần lớn
phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Một trong những cách tốt nhất
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tham gia vào hội nhập kinh tế quốc
tế bởi ở đó người lao động có điều kiện nâng cao trình độ, tay nghề và kỹ năng
sản xuất. Hơn nữa môi trường cạnh tranh để tìm kiếm việc làm trong điều kiện
hội nhập kinh tế thế giới buộc người lao động phải tìm tòi, học hỏi và thường
xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, ý thức kỷ luật...để đáp ứng
nhu cầu tuyển dụng của các công ty, xí nghiệp trong và ngoài nước. Năm
2004, các doanh nghiệp FDI đã giải quyết việc làm cho trên 24 triệu lao động
ở Trung Quốc, chiếm 10% lực lượng lao động thành thị [7, tr. 64]. Ở Việt
Nam, năm 2008, số người làm việc trong khu vực này lên tới 1,83 triệu người
chiếm 4,06% lực lượng lao động, thu nhập bình quân của lao động trong khu
vực này gấp 5-7 lần so với mức trung bình của nền kinh tế [3, tr.14].
Như vậy, vai trò của FDI đối với vấn đề giải quyết việc làm là không
thể phủ nhận, ngoài ra còn là giải pháp tốt đối với nâng cao trình độ, năng lực
quản lý và kỹ thuật của người lao động. Thông qua làm việc cho các doanh
nghiệp có vốn FDI, người lao động có cơ hội được học hỏi kinh nghiệm, kỹ
năng quản lý tiên tiến, ý thức kỷ luật lao động cao...Đây là những yếu tố tích
cực đóng góp vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.


16


Thứ tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đối với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát
triển, việc thu hút FDI để bổ sung cho nguồn vốn trong nước đã tạo ra các
ngành nghề mới, thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Thời kỳ đầu, các nước chủ yếu tập trung vốn FDI vào các ngành
công nghiệp thu hút nhiều lao động như công nghiệp chế biến, công nghiệp
may mặc. Chẳng hạn ở Thái Lan, năm 1988, khoảng gần 90% vốn FDI đầu tư
vào các ngành công nghiệp; trong khi vào các ngành nông nghiệp, khai thác
mỏ chỉ chiếm khoảng 10% [7, tr. 70]. Tuy nhiên, khoảng hai thập kỷ gần đây,
khu vực dịch vụ có xu hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhanh và
nhiều hơn các khu vực khác, kể cả ở các nước phát triển và đang phát triển.
Hiện nay, nhìn chung ở các nước đang phát triển, những lĩnh vực dịch vụ thu
hút nhiều đầu tư nước ngoài gồm có du lịch, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm,
thương mại và viễn thông. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng phù hợp với quá trình thực hiện CNH, HĐH của các nước, nghĩa
là tỷ trọng lao động, GDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên, khu
vực nông nghiệp giảm xuống. Ở Thái Lan, từ năm 1970 đến năm 2001, tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của nước này giảm từ 30,2% xuống còn 8,6%;
tỷ trọng công nghiệp tăng từ 25,7% lên đến 42,1%; tỷ trọng dịch vụ cũng tăng
từ 44,1% lên đến 49,3% [7, tr. 71]. Ở Việt Nam, cơ cấu kinh tế cũng đã có sự
thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm nhanh
từ 38,1% năm 1990 xuống còn 24,5% trong năm 2008 và năm 2008 là 20,9%;
tỷ trọng ngành công nghiệp gia tăng nhanh chóng từ 22,7% năm 1990 lên
36,7% năm 2000 và 41,6% năm 2008. Lĩnh vực dịch vụ không biến động nhiều,
con số tương ứng qua các năm là 38,6%; 38,1% và 38,7% [14].
Thứ năm, chuyển giao kinh nghiệm quản lý hiện đại


17


Đối với các nước đang phát triển, ngoài những lợi ích mà FDI mang lại
như bổ sung nguồn vốn trong nước và thúc đẩy chuyển giao công nghệ thì
kinh nghiệm quản lý tốt cũng tác động rất lớn đến quá trình công nghiệp hoá
và tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm quản lý hiện đại được
tích luỹ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ vì các nước nhận đầu tư
không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà họ phải học hỏi để nắm vững
kỹ năng vận hành, sửa chữa, thực hiện tốt các khâu để đạt hiệu quả cao. Các
nhà đầu tư nước ngoài không chỉ chuyển giao máy móc, thiết bị, nguyên vật
liệu mà còn chuyển giao cả những tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng
tiếp cận thị trường...Điều này bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng
cao trình độ và kinh nghiệm của mình trong công tác quản lý.
Kinh nghiệm quản lý hiện đại cũng sẽ được tích luỹ nhiều hơn nếu như
nước chủ nhà cùng tham gia làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài (dưới các
hình thức liên doanh) thông qua việc đánh giá và xây dựng dự án, tổ chức điều
hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, nghiên cứu thị trường và tổ
chức mạng lưới dịch vụ...
1.1.2.2. Tác động tiêu cực
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là một động lực mạnh mẽ cho phát
triển và tăng trưởng ở nước nhận đầu tư, nhưng nó cũng có thể gây rối loạn
cho quá trình phát triển nếu không được quản lý cẩn trọng. Những tác động
tiêu cực đến sự phát triển của nước nhận đầu tư có thể kể đến là:
Thứ nhất, gây mất cân đối trong cơ cấu đầu tư
Những chính sách ưu đãi nhằm thu hút FDI có sức mạnh như những cục
nam châm hút các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, điều đó sẽ dẫn đến mất
cân đối trong phân bổ nguồn vốn đầu tư giữa các ngành nghề, vùng lãnh thổ.
Do lợi ích của bên nhận đầu tư và nhà đầu tư là khác nhau nên mục tiêu
của họ cũng khác nhau. Nước nhận đầu tư muốn dòng vốn được đầu tư vào hệ


18


thống kết cấu hạ tầng hay vào lĩnh vực sản xuất, nhưng các nhà đầu tư lại
không muốn vậy vì mục đích của họ là thu về lợi nhuận cao nhất. Do đó, họ
chỉ quan tâm đến những lĩnh vực, ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận cao, độ rủi
ro thấp như đầu tư vào các khu du lịch, khách sạn, kinh doanh dịch vụ... còn
không quan tâm đến những dự án, lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, độ rủi ro
cao như sản xuất nông nghiệp, hay lâm nghiệp.
Các nhà đầu tư khi lựa chọn địa điểm triển khai dự án thường chỉ tập
trung vào những nơi đông dân cư, sức mua lớn, nguồn lao động dồi dào, có kết
cấu hạ tầng thuận lợi như các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển,
cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng. Trong khi đó, những tỉnh miền núi, vùng
sâu, vùng xa với điều kiện giao thông thấp kém, lại xa trung tâm, dân cư nghèo,
trình độ lao động yếu....thì không thể hấp dẫn được các nhà đầu tư mặc dù chính
phủ nước nhận đầu tư đưa ra nhiều chính sách ưu đãi. Chênh lệch trong khả
năng thu hút FDI giữa các vùng tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội không
đồng đều, làm gia tang khoảng cách về mức sống, văn hóa – xã hội...
Bên cạnh đó, việc sử dụng nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài cũng có
thể gây ra mất cân đối trong cơ cấu đầu tư giữa nguồn vốn trong nước và nước
ngoài. Nếu tỉ trọng vốn FDI chiếm quá lớn trong tổng vốn đầu tư phát triển thì
tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế bị ảnh hưởng, nền kinh tế phát triển lệ
thuộc vào bên ngoài, thiếu bền vững.
Thứ hai, phải nhận nhiều công nghệ lạc hậu
Đối với nước chủ nhà – thường là các nước đang phát triển, một trong
những mục tiêu quan trọng nhất của thu hút FDI là tiếp thu công nghệ hiện
đại, nhằm sản xuất ra hàng hóa, dịch vụ có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh
trên thị trường khu vực và quốc tế. Lợi dụng tình trạng “khát” công nghệ của
nước nhận đầu tư, nhiều nhà đầu tư thường tìm mọi cách “xuất khẩu” công

nghệ cũ, lạc hậu, không thể sử dụng ở nước họ vào các nước này thông qua

19


nhiều hình thức khác nhau. Hình thức phổ biến là góp vốn bằng công nghệ tại
các liên doanh. Nhà đầu tư nước ngoài góp vốn bằng thiết bị, vật tư lạc hậu, đã
qua sử dụng song được tân trang lại như mới. Điều này gây thiệt hại kinh tế
không nhỏ cho nước nhận đầu tư: mua công nghệ cũ nhưng với giá cao. Hình
thức bán dây chuyển sản xuất cũng tồn tại không ít vấn đề. Bên nước ngoài
chuyển cho các nước nhận đầu tư công nghệ lạc hậu từ 2-3 thế hệ thậm chí chỉ
chuyển giao một phần công nghệ dẫn đến hiện tượng công nghệ chắp vá,
không đồng bộ. Kết quả là các nước đang phát triển trở thành bãi thải công
nghiệp của các nước phát triển, hiệu quả sản xuất vốn đã kém lại không cải
thiện được nhiều, sản phẩm cạnh trạnh khó khăn trên thị trường quốc tế. Kết
quả khảo sát điều tra về thiết bị nhập khẩu trong 42 doanh nghiệp có vốn FDI
thuộc ngành công nghiệp nhẹ của Bộ công nghiệp Việt Nam năm 2005 cho
thấy, có tới 76% máy móc, thiết bị sản xuất hàng tiêu dùng thuộc thế hệ từ
năm 1950-1986, hơn 70% số máy móc đã hết khấu hao, 50% thiết bị cũ được
tân trang lại [26, tr. 61]
Thứ ba, gây ô nhiễm môi trường
Các doanh nghiệp FDI chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và chế biến thực phẩm vốn là những ngành sản sinh ra nhiều chất thải,
dễ gây ô nhiễm môi trường, thậm chí ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống,
tính mạng của người dân. Hiện tượng các doanh nghiệp khi đăng ký đầu tư
đưa ra các phương án xử lý chất thải công nghiệp, các biện pháp giữ gìn môi
trường nhưng trong quá trình thực hiện thì lại tìm mọi cách né tránh là điều
thường xuyên xảy ra. Nguyên nhân gây ra hiện tượng trên là do những nước
nhận đầu tư – chủ yếu là các nước kém và đang phát triển không đặt ra các
tiêu chuẩn chặt chẽ về môi trường; đánh thuế thấp thậm chí không đánh thuế

đối với các ngành gây ô nhiễm; chính sách kiểm soát môi trường hạn chế, quy
định, chế tài xử phạt chưa nghiêm. Hơn nữa, việc sử dụng thiết bị công nghệ

20


lạc hậu mà các nước này nhận chuyển giao từ các nhà đầu tư nước ngoài vốn
không tạo ra năng suất lao động cao lại còn gây ra tình trạng ô nhiễm đất,
nước, không khí và tiếng ồn.
Thứ tư, lợi ích người lao động bị xâm phạm
Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI phải đáp ứng
những yêu cầu rất khắt khe về trình độ, nếu không đáp ứng được họ lập tức sẽ
bị sa thải mà không kèm theo một chế độ trợ cấp thất nghiệp nào. Bên cạnh
đó, hiện tượng sáp nhập, giải thể của các TNCs đang diễn ra ngày càng nhiều
cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng sa thải ồ ạt lao động
trong các doanh nghiệp FDI hiện nay.
Các doanh nghiệp FDI không quan tâm đến sức khỏe, tinh thần của
người lao động. Người lao động luôn trong tình trạng bị vắt kiệt sức lực khi
làm việc với cường độ cao, thời gian bị kéo dài song thu nhập lại không cao
tương ứng. Qua điều tra về tình trạng lao động làm việc cho các doanh nghiệp
FDI ở Việt Nam thời gian gần đây cho thấy có 11,3% số công nhân làm việc
trung bình từ 8-10 giờ/ngày; 4,4% số công nhân phải làm việc trên 10
giờ/ngày; có 24,7% số công nhân phải làm việc 7 ngày/tuần tuy nhiên họ lại
không được biết hoặc không được doanh nghiệp thoả thuận về tiền lương, tiền
công làm tăng ca, tăng giờ. Mặc dù đã tích cực làm thêm giờ như vậy nhưng
có tới ½ số công nhân khẳng định là không đủ sống với mức thu nhập hiện có
[24, tr.27]. Cùng với vấn đề tiền lương, điều kiện làm việc, môi trường lao
động cũng như an toàn lao động của người lao động không được các doanh
nghiệp quan tâm. Người lao động phải làm việc trong môi trường độc hại
(tiếng ồn, bụi, khói…), không được cung cấp hệ thống bảo hộ (ánh sáng, nhiệt

độ, các thiết bị an toàn…), thậm chí không được hưởng trợ cấp độc hại.
1.2. Nội dung và vai trò quản lý Nhà nước đối với đầu tư trực tiếp
nước ngoài

21


1.2.1. Khái niệm và nội dung quản lý Nhà nước đối với FDI
1.2.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với FDI
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân là sự tác động có tổ
chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước; các cơ hội có thể có để
đạt mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra [23, tr.21].
Ở mỗi quốc gia khi vận hành nền kinh tế đều có sự giống nhau là chịu
sự chi phối và tác động của các quy luật kinh tế và quy luật đặc thù của mỗi
chế độ xã hội. Nhà nước nhận thức, vận dụng các quy luật đó vào quản lý điều
hành nền kinh tế bằng hệ thống luật pháp, chính sách, cơ chế tổ chức thực
hiện. Tùy theo bản chất kinh tế xã hội của mỗi quốc gia và trình độ khác nhau
về nhận thức, sự vận dụng các quy luật kinh tế của các nhà nước phát huy hiệu
lực và hiệu quả khác nhau. Điều đó nói lên tầm quan trọng đặc biệt của hoạt
động quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, hệ thống doanh nghiệp
nói riêng (trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài).
Quản lý Nhà nước đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc
Nhà nước tạo lập môi trường kinh doanh, các điều kiện cần thiết, tạo khung
khổ, chính sách, pháp luật phù hợp thông qua bộ máy hành chính từ Trung
ương đến địa phương, quản lý hoạt động của doanh nghiệp từ khi thành lập
đến khi doanh nghiệp rút khỏi thị trường.
1.2.1.2. Nội dung quản lý Nhà nước đối với FDI
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch về FDI.
Chiến lược là đường lối chung, tổng quát và giải pháp chủ yếu tổng thể

để phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong một thời gian dài (từ 10-20
năm). Quy hoạch là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng
để thực hiện các mục tiêu theo không gian và thời gian [23, tr. 114-115].

22


Trong hoạt động quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung, đối với FDI nói
riêng, việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đóng vai trò quan trọng hàng đầu
bởi đó là căn cứ cơ bản để tiến hành hoạt động quản lý Nhà nước đối với FDI.
Chiến lược, quy hoạch về FDI quy định mục tiêu, chỉ tiêu và bước đi cơ bản
nhằm đưa hoạt động FDI theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Tất cả những hoạt
động trong công tác quản lý Nhà nước đều nhằm đạt mục tiêu của chiến lược,
quy hoạch đã đề ra. Hơn nữa, đó còn là công cụ để điều tiết hoạt động của các
doanh nghiệp FDI, hướng các doanh nghiệp hoạt động theo định hướng của
nước chủ nhà theo những lĩnh vực, ngành nghề và khu vực đầu tư cụ thể; cung
cấp thông tin, dự báo để các doanh nghiệp có thể ra quyết định chính xác, kịp
thời.
Khi xây dựng chiến lược, quy hoạch về FDI cần đảm bảo thỏa mãn các
yêu cầu kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng của đất nước;
đồng thời phải công khai cho các nhà đầu tư về các lĩnh vực, ngành nghề
khuyến khích, không khuyến khích hay cấm đầu tư và những ưu tiên của nhà
nước là gì, thứ tự ra sao, những hình thức sản xuất kinh doanh nào được phép
thành lập và hoạt động, yêu cầu đối với chủ thể sản xuất kinh doanh trong
từng hình thức đó như thế nào. Việc đề ra chiến lược, quy hoạch phải dựa trên
cơ sở lợi ích của cả hai bên: Nhà đầu tư nước ngoài và nước nhận đầu tư. Yêu
cầu doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ luật pháp nhưng không có nghĩa
là bắt doanh nghiệp nước ngoài phải hoàn toàn làm theo ý muốn của nước
nhận đầu tư. Vấn đề là làm thế nào để lợi ích hai bên cùng đạt được là lớn

nhất. Không vì tăng cường thu hút FDI bằng mọi giá mà quy hoạch chạy theo
doanh nghiệp mà phải dựa vào lợi ích lâu dài của mỗi địa phương và quốc gia.
- Tạo môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư có thể hiểu là tập hợp các yếu tố và điều kiện đặc thù
của từng địa phương (quốc gia), có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, định hình

23


cơ hội và động lực để doanh nghiệp tiến hành đầu tư kinh doanh một cách
thuận lợi.
Các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư là môi trường chính trị, pháp
luật; môi trường kinh tế; môi trường văn hóa – xã hội; môi trường tự nhiên; cơ
sở hạ tầng. Trong đó, môi trường chính trị, pháp luật được nhiều người đánh
giá là có vai trò quan trọng hơn cả bởi vì sự ổn định về chính trị là một đảm
bảo an toàn cho hoạt động của nhà đầu tư; sự nhất quán trọng hệ thống chủ
trương, đường lối chính sách của Nhà nước, một cơ chế điều hành hợp lý của
Nhà nước đem lại sự thuận tiện và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Những
yếu tố khác như trình độ phát triển của nền kinh tế, các chu kỳ kinh tế; các giá
trị xã hội nói chung, các tập tục, lối sống, thói quen, thu nhập của dân cư, hệ
tư tưởng; điều kiện về tài nguyên thiên nhiên, thời tiết, khí hậu, cơ sở hạ
tầng…cũng có tác động nhiều mặt đến hoạt động của doanh nghiệp.
Môi trường đầu tư không chỉ là một địa điểm ở đó doanh nghiệp tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn quyết định phương thức và hiệu
quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Môi trường đầu tư thuận lợi là một
bệ phóng, điểm tựa vững chắc cho sự vươn lên của doanh nghiệp; trái lại môi
trường đầu tư không thuận lợi không chỉ kìm hãm, cản trở mà đôi khi còn làm
cho doanh nghiệp bị phá sản hàng loạt. Do vậy, việc phân tích môi trường đầu
tư, nhận biết và tận dụng cơ hội đầu tư là cần thiết, quyết định khả năng cạnh
tranh và sự sống còn của doanh nghiệp.

Tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài là
vai trò đặc biệt quan trọng của Nhà nước. Vai trò đó được thể hiện ở những
điểm cơ bản sau:
Xây dựng chính sách về FDI:
Chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục
tiêu bộ phận trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh

24


×