Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

LUẬN văn phát triển kinh tế huyện bình xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.81 MB, 114 trang )

LUẬN VĂN:

phát triển kinh tế huyện bình
xuyên tỉnh vĩnh phúc trong điều
kiện hiện nay


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là nhiệm
vụ trung tâm, đồng thời định hướng phát triển kinh tế theo hướng CNH, HĐH, mở
cửa, hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển bền vững. Để phát triển kinh tế đất nước
thì từng địa phương được phân cấp quản lý nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn lãnh
thổ theo định hướng của ngành và cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Trong đó,
phát triển kinh tế cấp huyện hiện nay vẫn đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
để làm sáng tỏ về mặt lôgíc và hoàn thiện quản lý trong thực tiễn.
Huyện Bình Xuyên là một huyện mới tái lập từ ngày 01.09.1998 được tách ra
từ huyện Tam Đảo thành huyện Bình Xuyên và huyện Tam Dương, sau khi tái lập
huyện có 14 đơn vị hành chính cấp xã và thị trấn. Khi mới tái lập định hướng của
phát triển của huyện vẫn dựa vào quy hoạch của huyện Tam Đảo (cũ), lấy phát triển
nông nghiệp là chủ yếu, do vậy sau 3 năm tái lập kinh tế huyện Bình Xuyên phát
triển chậm chạp, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, đời sống của nhân dân còn khó
khăn. Trong khi đó huyện có lợi thế gần thủ đô Hà Nội, sân bay Quốc tế Nội Bài, có
đường quốc lộ 2 và đường sắt chạy qua, mặt khác quá trình công nghiệp hoá và đô
thị hoá của Tỉnh Vĩnh Phúc đang diễn ra với tốc độ nhanh, kinh tế xã hội có bước
phát triển mạnh.
Vấn đề đặt ra cho Đảng bộ và chính quyền của huyện trong giai đoạn từ nay
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 là nhanh chóng khắc phục nhược điểm,
khó khăn, khai thác tiềm năng điều kiện hiện có, tìm bước đi thích hợp để đẩy
nhanh quá trình xây dựng và phát triển kinh tế trên địa bàn, nhằm xây dựng huyện
trở thành một huyện công nghiệp, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững nhằm


nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Chính vì vậy việc nghiên cứu,
đánh giá thực trạng phát triển kinh tế của huyện và đề ra các giải pháp phát triển
kinh tế là rất cần thiết nhằm phát huy tốt những yếu tố tiềm năng, định rõ phương


hướng phát triển các lĩnh vực kinh tế của huyện trong những năm tới, làm cơ sở
khoa học cho việc xây dựng các đề án, quy hoạch và kế hoạch đầu tư phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn huyện, để Bình Xuyên từng bước phát triển tương xứng với
vị thế của một huyện trọng tâm phát triển công nghiệp của tỉnh với mục tiêu phấn
đấu đến năm 2015 huyện trở thành đô thị loại 4 của tỉnh Vĩnh Phúc.
Là người trực tiếp tham gia quản lý ở huyện Bình Xuyên, tôi chọn đề tài
“Phát triển kinh tế huyện Bỡnh Xuyờn tỉnh Vĩnh Phỳc trong điều kiện hiện nay”
làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến đề tài có một số đề tài luận văn Thạc sĩ nghiên cứu về phát
triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ thương mại
nói riêng như:
Luận văn thạc sĩ năm 2006 của Nguyễn Anh Tuấn chuyên ngành quản lý
kinh tế, về hoàn thiện quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội quận Long Biên thành phố
Hà Nội. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Chiến về tác động đầu tư
trực tiếp ở nước ngoài vào phát triển kinh tế -xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn Văn Lúa về thu hút đầu tư để phát triển
kinh tế mở Chu Lai tỉnh Quảng Nam. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Nguyễn
Hoài Khanh về tác động đầu tư trực tiếp nước ngoài tới phát triển kinh tế -xã hội ở tỉnh
Bình Dương. Luận văn thạc sĩ kinh tế năm 2006 của Huỳnh Khánh Toàn về mối quan
hệ giữa phát triển công nghiệp với hình thành đô thị mới ở Quảng Nam. Luận văn thạc
sĩ kinh tế năm 2006 của Trần Anh Đức về định hướng và giải pháp quản lý Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế trên địa bàn quận Cẩm lệ thành phố Đà Nẵng...
Tuy vậy, đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách
hoàn chỉnh về phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc trong điều kiện

hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích


Làm rõ căn cứ lý luận, phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển kinh tế
huyện Bình Xuyên, đề xuất các giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc, trong đó trọng tâm là các giải pháp quản lý nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển kinh tế cấp huyện, xác định đúng
vai trò, vị thế của chính quyền cấp huyện đối với phát triển kinh tế trong tình hình
mới.
Phân tích đánh giá các yếu tố tiềm năng, nguồn lực và thực trạng tác động của
quản lý nhà nước đến sự phát triển kinh tế huyện Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay, chỉ
ra những nguyên nhân của thành tựu và những hạn chế, yếu kém.
Đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020,.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các nhân tố cho phát triển
kinh tế và tác động của quản lý nhà nước cấp huyện tới sự phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên, đặt trong mối quan hệ với phát triển xã hội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: trong phạm vi gianh giới hành chính của huyện Bình
Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc
Phạm vi về thời gian: Khảo sát đánh giá thực trạng phát triển kinh tế huyện
Bình Xuyên từ năm 2005 đến nay và giải pháp đến năm 2015 định hướng đến năm
2020.
Phạm vi ngành, lĩnh vực: Tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế chủ yếu của
huyện Bình Xuyên, không phân biệt cấp quản lý.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, các chỉ thị


nghị quyết về phát triển kinh tế của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Vĩnh Phúc. huyện uỷ và
UBND huyện Bình Xuyên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết: hệ thống hoá những vấn đề
chung về phát triển kinh tế, những căn cứ lý thuyết và thực tiễn phát triển kinh tế
cấp huyện trong điều kiện hiện nay.
Phương pháp phân tích số liệu định lượng: Trên cơ sở số liệu thu thập được
và những số liệu qua khảo sát thực tế, luận văn sử dụng phương pháp phân tích định
lượng theo nhóm vấn đề nghiên cứu phục vụ nội dung nghiên cứu và các kết luận
tổng hợp.
Phương pháp thống kê, so sánh: Sử dụng số liệu thống kê để phân tích, so
sánh nhằm đề xuất những kết luận về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế trên
địa bàn huyện Bình Xuyên.
6. Đóng góp của luận văn
6.1. Về lý luận
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển kinh tế trong thời kỳ công
nghiệp hoá hiện đại hoá đối với cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.
Làm rõ vai trò, vị trí của chính quyền của cấp huyện đối nhiệm vụ phát triển
kinh tế thời kỳ công nghiệp hoá -hiện đại hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc
tế.
6.2. Về thực tiễn
Trên cơ sở, tổng hợp phân tích, đánh giá tình hình phát triển kinh tế của
huyện trong những năm qua làm rõ bức tranh toàn cảnh về phát triển kinh tế trong
mối tương quan với các địa phương trong tỉnh Vĩnh Phúc. Điều này rất cần thiết cho

cấp uỷ đảng, chính quyền huyện trong việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới
Góp phần xây dựng mục tiêu, định hướng phát triển của huyện trong giai
đoạn 2005-2015 và định hướng đến năm 2020, đồng thời đề xuất các giải pháp cần


tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu của huyện trong thời kỳ CNH- HĐH và hội
nhập kinh tế.
Đề tài là tài liệu tham khảo giúp cấp uỷ Đảng, chính quyền huyện Bình
Xuyên trong việc hoạch định mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế huyện Bình
Xuyên trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 03 chương, 07 tiết.


Chương 1
phát triển kinh tế và tác động của quản lý nhà nước
cấp huyện đối với phát triển kinh tế

1.1. Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế
1.1.1. Quan niệm về phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Trải qua thời
gian, khái niệm về phát triển cũng đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu
là: quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như
là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá
trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia.
Theo cách hiểu như vậy, phát triển phải là một quá trình lâu dài và do các
nhân tố nguồn lực của nền kinh tế và nhân tố quản lý quyết định.
Cũng có thể hiểu phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến
đổi cả về chất và lượng của cuộc sống nó đặt trong mối quan hệ với phát triển xã

hội.
Phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay có mục tiêu không những phát
triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững. Từ những thập niên 70, 80 của thế kỷ
trước khi tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới đã đạt được tốc độ khá
cao, người ta bắt đầu có những suy nghĩ đến các ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng
trưởng nhanh đó đến tương lai con người và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra.
Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn thiện. Năm
1987, vấn đề phát triển bền vững được Ngân hàng Thế giới (WB) đề cập lần đầu
tiên, theo đó phát triển bền vững là “… Sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại
mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của hệ thống tương lai”.
Quan niệm đầu tiên về phát triển bền vững của WB chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh
sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho
con người trong quá trình phát triển. Ngày nay, quan điểm về phát triển bền vững


được đề cập một cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên
nhiên, yếu tố môi trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesbug (Cộng hoà
Nam phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: Tăng trưởng
kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Tiêu chí để đánh giá sự
phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công
bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và
nâng cao chất lượng môi trường sống. Đảng Cộng sản Việt nam đã thể hiện rõ quan
điểm về phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước
đến năm 2010: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển
kinh tế với giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia, tuỳ theo quan niệm khác
nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn những con đường phát triển khác nhau. Nhìn

một cách tổng thể, hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: Nhấn mạnh tăng
trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn diện.
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường
lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Theo cách lựa chọn này, Chính
phủ đã tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng mà bỏ
qua các nội dung xã hội. Các vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng trưởng thu nhập đã đạt được một
trình độ khá cao. Thực tế cho thấy nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình đã làm
cho nền kinh tế rất nhanh khởi sắc, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất
cao. Tuy vậy, theo sự lựa chọn này, những hệ quả xấu đã xảy ra: một mặt, cùng với
quá trình tăng trưởng nhanh, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội ngày càng
gay gắt, các nội dung về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan
tâm, một số giá trị văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức, thuần
phong mỹ tục tốt đẹp của nhân dân bị phá huỷ. Mặt khác, việc chạy theo mục tiêu


tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên
quốc gia, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất lượng tăng trưởng kinh tế không đảm
bảo và vi phạm những yêu cầu phát triển bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo
ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế ở giai đoạn sau. Sự phát triển kinh tế của các
nước Braxin, Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi
theo sự lựa chọn này.
Mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội lại đưa ra yêu cầu
giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong điều kiện thực trạng tăng trưởng thu
nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát triển, phân phối thu nhập cũng như chăm
sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn
đều, bình quân cho mọi ngành, mọi vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Đây
là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình chủ nghĩa xã hội trước đây,
trong đó có cả Việt Nam. Theo mô hình này, các nước đã đạt được một mức độ khá
tốt về các chỉ tiêu xã hội. Tuy vậy, nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự

tăng trưởng nhanh, mức thu bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và
ngày càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường
chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không đảm bảo về mặt chất lượng.
Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát triển
tận dụng lợi thế để thực hiện một lựa chọn tối ưu hơn bằng con đường phát triển
toàn diện. Theo mô hình này, Chính phủ của các nước, một mặt đưa ra các chính
sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giầu, phát triển kinh tế
tư nhân và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác,
cũng đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc
sống dân cư. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo sự lựa chọn này.
Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự lựa
chọn theo hướng phát triển toàn diện. Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng
nhanh, chúng ta đã đưa ra mục tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu
và trong toàn bộ tiến trình phát triển.


Việc hệ thống hoá con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội dung tương
đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, các địa phương, căn cứ vào điều kiện
kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để có hướng đi thích
hợp cho mình.
1.1.2. Các nội dung phát triển kinh tế
Thứ nhất: Tăng trưởng kinh tế
Muốn phát triển các mặt của đời sống kinh tế -xã hội, trước hết phải có thêm
của cải , tức là năng lực của nền sản xuất phải được mở rộng hay nền kinh tế phải
tăng trưởng với tốc độ cao trong thời gian dài. cũng vì vậy, các nước nghèo, lạc hậu
muốn tạo ra sự phát triển kinh tế, phải coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu số một
trong chiến lược kinh tế-xã hội của mình.
Tăng tưởng kinh tế là: Sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh

sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh
tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của
nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc giá trị. thu nhập bằng giá trị
phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc
tính bình quân trên đầu người.
Tăng trưởng kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả động thái biến đổi về mặt số
lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế chưa đề cập
đến mối quan hệ của nó với các vấn đề xã hội.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền
kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính bền vững hay
việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía cạnh này, điều được
nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc
độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế nữa, quá trình ấy phải được tạo nên
nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ, vốn và nhân lực trong một
cơ cấu kinh tế hợp lý.


Như vậy mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển có mối quan hệ biện
chứng. Tăng trưởng là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa là điều
kiện đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến phân hoá giàu nghèo, khủng
hoảng xã hội, ngược lại phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong thực
tế.
Xét trên góc độ kinh tế, tăng trưởng kinh tế có tính hai mặt: lợi ích và chi
phí.
Tăng trưởng kinh tế có rất nhiều ích lợi, là cơ sở là điều kiện để cải thiện
và nâng cao đời sống của dân cư. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề quan trọng bậc
nhất để phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế -xã hội như: khoa học, giáo
dục, y tế, thể dục thể thao… do những lợi ích đó, tăng trưởng kinh tế là hết sức
cần thiết với tất cả các quốc gia. Với các nước nghèo, lạc hậu tăng trưởng kinh tế
càng quan trọng vì mức thu nhập, mức sống của dân cư rất thấp, nhiều mặt của

đời sống kinh tế xã hội còn ở trình độ thấp, lạc hậu…
Mặt thứ hai của tăng trưởng kinh tế là chi phí. Nền kinh tế tăng trưởng cành
nhanh, nhu cầu khai thác và sử dụng tài nguyên càng lớn vì vậy tài nguyên càng
sớm cạn kiệt, môi trường càng bị tổn hại , ô nhiễm. Nền kinh tế càng tăng trưởng
nhanh, càng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội : như phân hoá giàu nghèo, sự phát
triển của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội… Nền kinh tế tăng trưởng càng nhanh,
chi phí càng lớn.
Thứ hai: Sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. theo hướng tiến
bộ phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội.
Trong các nội dung của phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế được xem như là
tiêu thức phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá so sánh các giai đoạn
phát triển của nền kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là: tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế với vị trí, tỷ
trọng tương ứng của chúng và mối quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền
kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng


giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều
kiện kinh tế- xã hội nhất định, luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ
thể. Nếu các thước đo tăng trưởng phản ánh sự thay đổi về lượng thì xu thế chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là thể hiện mặt chất kinh tế trong quá trình phát triển. Đánh giá
sự phát triển kinh tế cần xem xét một cách toàn diện các góc độ của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu ngành kinh tế, cơ
cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế v.v... Trong đó,
cơ cấu kinh tế ngành phản ánh sự phát triển của phân công lao động xã hội và sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là một nội
dung quan trọng của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu ngành kinh tế là: tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế,

thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số và chất lượng giữa các
ngành với nhau. Các mối quan hệ này hình thành trong điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định. Luôn luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
Về lý thuyết cơ cấu ngành kinh tế thể hiện cả về mặt định lượng và định tính.
Mặt định lượng chính là quy mô và tỷ trọng chiếm về GDP, lao động, vốn của mỗi
ngành trong tổng thể kinh tế quốc dân. Mặt định tính thể hiện vị trí và tầm quan
trọng của mỗi ngành trong hệ thống kinh tế quốc dân. Các nước đang phát triển có
xuất phát điểm thấp, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp
của các nước này thường chiếm từ 20%-30% GDP. Trong khi đó ở các nước phát
triển, tỷ trọng thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm từ 1%-7%. Trong quá trình phát
triển, cơ cấu ngành kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự chuyển đổi theo một xu
hướng chung là tỷ trọng nông nghiệp có xu hướng giảm đi, trong khi đó tỷ trọng
của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Như vậy cần phải hiểu cơ cấu ngành kinh tế theo những nội dung sau:
Trước hết, đó là số lượng các ngành kinh tế được hình thành, số lượng ngành
kinh tế không cố định, nó luôn được hoàn thiện theo sự phát triển của phân công lao
động xã hội


Nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất phân công lao động xã hội,
biểu hiện cụ thể qua qua sự khác nhau về quy trình công nghệ của các ngành trong
quá trình tạo ra sản phẩm vật chất và dịch vụ. Các ngành kinh tế được phân thành
ba khu vực hay gọi là ba ngành gộp: Khu vực I bao gồm ngành nông nghiệp - lâm ngư nghiệp; Khu vực II là các ngành công nghiệp và xây dựng; khu vực III gồm các
ngành dịch vụ.
Thứ đến, cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở mối quan hệ tương hỗ giữa các
ngành với nhau. Mối quan hệ này bao gồm cả mặt số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng thể hiện ở tỷ trọng (tính theo GDP, lao động vốn vv...) của mỗi ngành trong
tổng thể nền kinh tế quốc dân, còn khía cạnh chất lượng phản ánh vị trí tầm quan
trọng của từng ngành và tính chất của sự tác động qua lại giữa các ngành với nhau.
Sự tác động qua lại giữa các ngành có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động trực

tiếp bao gồm tác động cùng chiều và ngược chiều, có mối quan hệ gián tiếp được
thể hiện theo các cấp 1,2,3 vv... nói chung mối quan hệ của các ngành cả số và chất
lượng đều thường xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp theo sự phát triển
của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
Khu vực I có đặc điểm phụ thuộc nặng vào tự nhiên năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế thấp. Do đó trong cơ cấu các ngành kinh tế khu vực I càng chiếm tỷ
trọng lớn, khu vực II và II chiếm tỷ trọng nhỏ thì nền kinh tế càng phụ thuộc vào tự
nhiên năng suất và hiệu quả của nền sản xuất xã hội càng thấp và ngược lại với khu
vực I chiếm tỷ trọng nhỏ nền kinh tế ít phụ thuộc vào tự nhiên, năng suất và hiệu
quả của nền sản xuất xã hội cao. Bởi vậy cơ cấu kinh tế theo ngành thay đổi theo
hướng: khu vực I giảm về tỷ trọng; khu vực II, III tăng về tỷ trọng được coi là sự
tiến bộ và sự thay đổi đó là nội dung của phát triển kinh tế.
- Cơ cấu vùng kinh tế: Sự phát triển kinh tế được thể hiện ở cơ cấu vùng
kinh tế theo góc độ thành thị và nông thôn. ở các nước đang phát triển, kinh tế nông
thôn phát triển rất cao. Theo số liệu của WB vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước,
45 nước có thu nhập thấp, tỷ trọng dân số nông thôn chiếm 72%, còn 36 nước có


thu nhập tiếp theo, con số này là 65%. Trong khi đó các nước phát triển có hiện
tượng đối ngược lại, 80% dân số sống ở khu vực thành thị.
Một xu hướng khá phổ biến của các nước đang phát triển là luôn có một
dòng di dân từ nông thôn ra thành thị. Đó là kết quả của cả “ lực đẩy” ra khỏi khu
vực nông thôn bởi sự nghèo khổ cũng như thiếu thốn đất đai ngày càng nhiều và cả
“lực hút” từ sự hấp dẫn của khu vực thành thị. Dòng di dân ngày càng lớn đã tạo ra
áp lực rất mạnh đối với Chính phủ các nước đang phát triển. Mặt khác, việc thực
hiện các chính sách công nghiệp hoá nông thôn, đô thị hoá, phát triển hệ thống
công nghiệp, dịch vụ nông thôn làm cho tỷ trọng kinh tế thành thị ở các nước
đang phát triển ngày càng tăng lên, tốc độ dân số thành thị cao hơn so với tốc độ
tăng trưởng dân số chung và đó chính là xu thế hợp lý trong quá trình phát triển.
WB đã theo dõi xu thế phát triển này ở các nước đang phát triển trong 20 năm từ

1980 đến 2000 và đưa ra số liệu khá thuyết phục.
Như vậy, ở các nước đang phát triển có mức thu nhập thấp và trung bình, tỷ
lệ tăng dân số thành thị gấp 1,5 đến 2 lần so với tốc độ tăng dân số tự nhiên trong
khi đó ở các nước đang phát triển thì hai tỷ lệ này gần tương đương nhau. ở Việt
nam số liệu thống kê 13 năm (1990 đến 2003) cho thấy trong khi tốc độ tăng dân số
tự nhiên bình quân năm là khoảng 1,7% thì tốc động tăng dân số khu vực thành thị
khoảng 2,5%.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: Đây là dạng cơ cấu phản ánh tính chất xã hội
hoá về tư liệu sản xuất và tài sản của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc thì có 2 loại
hình sở hữu là sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Nhìn chung ở các nước phát
triển và xu hướng ở các nước đang phát triển, khu vực kinh tế tư nhân thường chiếm
tỷ trọng cao và nền kinh tế phát triển theo con đường tư nhân hoá. ở nước ta hiện
nay đang tồn tại 6 thành phần kinh tế là: thành phần kinh tế nhà nước; thành phần
kinh tế tập thể; thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ thành; phần kinh tế tư bản tư
nhân; thành phần kinh tế tư bản nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài. Các thành phần kinh tế nói trên không có sự phân biệt về thái độ đối xử, đều
có môi trường và điều kiện phát triển như nhau, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai


trò chủ đạo. Sau nhiều năm thực hiện đổi mới, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có xu hướng phát triển tốt, đóng góp
một phần khá lớn vào kinh tế đất nước.
- Cơ cấu khu vực thể chế: Theo dạng cơ cấu này, nền kinh tế được phân
chia dựa trên cơ sở vai trò các bộ phận cấu thành trong sản xuất kinh doanh và qua
đó đánh giá được vị trí của mỗi khu vực trong vòng luân chuyển nền kinh tế cũng
như mối quan hệ giữa chúng trong quá trình thực hiện sự phát triển. Các đơn vị thể
chế thường trú trong nền kinh tế được chia thành 5 khu vực: Khu vực Chính phủ
bao gồm tất cả các hoạt động được thực hiện bằng ngân sách nhà nước, khu vực tài
chính, khu vực phi tài chính, khu vực hộ gia đình và khu vực vô vị lợi phục vụ gia
đình bao gồm các tổ chức hoạt động với mục đích hoạt động, phi lợi nhuận. Mục

tiêu của khu vực Chính phủ là đảm bảo các hoạt động cộng đồng, tạo điều kiện bình
đẳng cho các khu vực thể chế và thực hiện công bằng xã hội. Các đơn vị thuộc khu
vực phi tài chính thực hiện chức năng sản xuất hàng hoá và dịch vụ bán trên thị
trường và với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Khu vực tài chính cũng thực hiện mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận ở trên thị trường tài
chính. Các hộ gia đình hoạt động theo lợi nhuận mục tiêu khác với các khu vực trên,
chức năng và hành vi của họ là tiêu dùng, tuy vậy họ cũng có thể tham gia vào các
hoạt động sản xuất dưới hình thức cung cấp sức lao động cho các doanh nghiệp
hoặc tự sản xuất dưới dạng các đơn vị sản xuất cá thể. Các tổ chức vô vị lợi, phục
vụ hộ gia đình với nguồn tài chính quyên góp tự nguyện như các tổ chức từ thiện,
cứu trợ, các tổ chức giúp đỡ người tàn tật v.v… theo đuổi mục tiêu phục vụ không
vì lợi nhuận, cung cấp hàng hoá và dịch vụ thẳng cho các hộ gia đình không lấy tiền
hoặc lấy với giá không có ý nghĩa kinh tế.
Thứ ba: Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội.
Mục tiêu cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là
tăng trưởng hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mà là việc nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân, xoá bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình
quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình độ dân trí giáo dục


của quảng đại quần chúng nhân dân, cơ hội lựa chọn việc thoả mãn các nhu cầu, sự
đảm bảo về an ninh v.v.. Và người dân phải được hưởng các thành quả của tăng
trưởng kinh tế. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá
trình phát triển.
Như vậy phát triển kinh tế có nội dung rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nếu
tăng trưởng kinh tế mới chỉ đề cập tới những thay đổi về lượng của nền kinh tế thì
phát triển kinh tế không những đề cập về lượng mà còn bao hàm cả những thay đổi
về chất.
1.1.3. Các thước đo phát triển kinh tế
Để đo lường mức độ phát triển kinh tế có rất nhiều thước đo. Có thể chia

thước đo thành 04 nhóm cơ bản sau:
Nhóm 1: Các thước đo tăng trưởng kinh tế.
a. Tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc dân.
Để phản ánh sự tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng hai chỉ tiêu tổng
hợp chủ yếu là tổng sản phẩm trong nước và tổng sản phẩm quốc dân cũng như giá
trị bình quân đầu người của các chỉ tiêu này.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP- Gross Domestie Product).
GDP là một trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh toàn
bộ kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các đơn vị thường trú trong
nền kinh tế quốc dân của một Quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP là thước
đo kết quả hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất và dịch vụ trong lãnh thổ của
một đất nước, nó bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế bao gồm
những ngành tạo ra của cải vật chất, những ngành tạo ra các loại dịch vụ, kể cả các
cơ quan quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, các tổ chức xã hội các tổ chức phục
vụ cho xã hội và dân cư không vì mục đích kinh doanh.
Vậy tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị gia tăng của toàn bộ sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ và được tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là
một năm) trong phạm vi lãnh thổ của một nước; không phân biệt nguồn vốn và chủ
sở hữu trong nước hay nước ngoài.


Tổng sản phẩm quốc dân (GNP- Gross Domestie Product) là tổng giá trị thị
trường của mọi hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bởi những người có cùng quốc tịch,
bất kể hoạt động kinh doanh được tiến hành ở trong hay ngoài biên giới và được
tính trong một thời kỳ cụ thể (thường là một năm).
Trong thực tế khi lấy lấy tổng sản phẩm trong nước (GDP) cộng với thu nhập
do lao động và đầu tư từ nước ngoài đem về trừ đi phần chi trả lợi nhuận và lợi tức
cho đầu tư và lao động nước ngoài để tính tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thì cả hai
yếu tố sau đều khó xác định, đặc biệt đối với nhiều nước trình độ thống kê còn hạn
chế. Vì lẽ đó chỉ tiêu GDP vẫn còn được áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước, cũng

như các tổ chức Quốc tế trong việc đánh giá tăng trưởng và so sánh Quốc tế.
Tuy nhiên chỉ số tăng thêm của tổng sản phẩm trong nước GDP hay tổng sản
phẩm quốc dân (GNP) chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa của tăng trưởng. Bởi vì tổng
sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào dân số và tốc độ tăng dân
số hàng năm. Để khắc phục nhược điểm này cần tính GDP hoặc GNP bình quân đầu
người của các thời kỳ.
Để đánh giá mức sống của một quốc gia, người ta thường sử dụng chỉ tiêu
GNP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì hai nguyên nhân cơ bản sau:
- GNP tính cả đến các khoản tiền ngoại tệ thu được của các kiều dân của
quốc gia đó ở nước ngoài chuyển về.
- Đồng thời GNP còn trừ đi các khoản lợi nhuận và lợi tức chuyển ra ngoài
đất nước trả cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Còn để đánh giá khả năng sản xuất của một quốc gia, người ta sử dụng chỉ
tiêu GDP bình quân đầu người. Sở dĩ như vậy vì nó là thước đo tốt nhất cho biết số
lượng hàng hoá, dịch vụ được sản xuất ra tính bình quân cho một người dân.
b.Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Đó là tỷ lệ phần trăm giữa phần tăng thêm GDP hoặc GNP so với GDP hoặc
GNP của năm gốc so sánh. Đây là thước đo hết sức quan trọng, trực tiếp đo lường
mức độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có thể tính cho quy mô của
nền kinh tế hay bình quân đầu người.


c. Chỉ số giá cả CPI (Consumer Price Index).
Sự thay đổi của GDP và GNP có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự thay đổi
giá cả, muốn biết tốc độ tăng trưởng kinh tế thực tế là bao nhiêu người ta phải loại
bỏ tác động của giá cả bằng cách lấy GDP hoặc GNP danh nghĩa chia cho giá cả.
d. Sức mua ngang giá PPP (Pur chasing power parity).
Mức giá của hàng hoá dịch vụ của các Quốc gia không giống nhau. Do đó để
có thể so sánh chính xác hơn GDP hoặc GNP của các Quốc gia, cần phải sử dụng
thước đo sức mua ngang giá PPP.

Nhóm 2: Các thước đo cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế là một nội dung của phát triển kinh tế. Để đo lường cơ cấu
kinh tế, người ta sử dụng các thước đo kinh tế sau:
a. Tỷ trọng ngành GDP.
Đây là thước đo trực tiếp đo lường cơ cấu kinh tế, mức đo này cho biết mức
độ phát triển nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thể hiện ở chỗ: Tỷ trọng của
các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm
xuống, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng lên.
b. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế.
Cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế do cơ cấu ngành kinh tế quy định. Do đó
cơ cấu lao động là sự phản ánh trình độ phát triển của cơ cấu kinh tế.
c. Cơ cấu dân cư theo khu vực thành thị- nông thôn.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ cũng là quá trình đô
thị hoá, do đó làm cho tỷ lệ dân cư sống ở thành thị ngày càng tăng. Bởi vậy cơ cấu
dân cư theo khu vực thành thị và nông thôn là thước đo cơ cầu kinh tế.
đ. Tỷ trọng hàng hoá dịch vụ xuất nhập khẩu trong GĐP và cơ cấu xuất
nhập khẩu.
Tỷ trọng cơ cấu xuất nhập khẩu không chỉ phản ánh mức độ phát triển các
quan hệ kinh tế đối ngoại của các Quốc gia, mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh
tế trong nền kinh tế mở, những ngành có tiềm năng có lợi thế sẽ có điều kiện phát
triển và chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế.


Nhóm 3: Các thước đo động lực của tiến bộ kinh tế
a. Tỷ lệ vốn đầu tư nội địa trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Vốn là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng phát triển kinh tế, nếu nguồn
vốn trong nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, thì có thể
kết luận những tiến bộ kinh tế xuất phát tự nội lực.
b. Tỷ lệ lao động kỹ thuật và lao động quản lý là người bản địa trong tổng
lao động kỹ thuật và lao động quản lý trong nền kinh tế.

Lao động là một trong bốn nguồn lực cơ bản để tăng trưởng phát triển kinh
tế. Trong nguồn lực này lao động kỹ thuật và lao động quản lý có vai trò rất quan
trọng. Do đó để đánh giá động lực của các tiến bộ kinh tế cần phải sử dụng thước đo
này.
d. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các Doanh nghiệp có vốn đầu tư trong
nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế.
Kim ngạch xuất khẩu không chỉ thể hiện quy mô của nền kinh tế, sự phát
triển của các quan hệ thị trường mà còn phản ánh cơ cấu các ngành kinh tế. Do đó
tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đo
lường động lực tiến bộ kinh tế.
Nhóm 4: Các thước đo chất lượng cuộc sống.
a. Thu nhập bình quân trên đầu người.
Mức thu nhập quyết định mức độ thoả mãn các nhu cầu vật chất và các nhu
cầu tinh thần. Do vậy thu nhập bình quân trên đầu người là thước đo hết sức quan
trọng đo lường chất lượng cuộc sống.
b. Các chỉ số giáo dục.
Các chỉ số giáo dục bao gồm: Tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ người đi học trong
các độ tuổi, số năm đi học bình quân, số giáo viên trên một nghìn dân, số sinh viên
trên một nghìn dân..v.v., các chỉ số này phản ánh trình độ phát triển của giáo dục
của một quốc gia và mức độ thụ hưởng của các dịch vụ của dân cư.
c. Các chỉ số y tế.


Các chỉ số Ytế bao gồm: Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi, tỷ lệ dân cư được tiêm
phòng, số bác sỹ trên một nghìn dân, số giường bệnh trên một nghìn dân..v.v., các
chỉ số này phản ánh trình độ phát triển y tế của một quốc gia và mức độ thụ hưởng
các dịch vụ y tế của dân cư.
d. Các chỉ số công bằng xã hội.
Đó là các chỉ số như : Hệ số Gini, tỷ lệ người nghèo đói, hệ số chênh lệch
giàu nghèo.vv..Các chỉ số này đo lường mức độ công bằng trong phân phối thu

nhập.
e. Các chỉ số phát triển con người (HDI, Humande velop ment Index)
Đây là chỉ số tổng hợp phản ánh trình độ phát triển của con người và mức độ
thụ hưởng các thành quả kinh tế của dân cư. Chỉ số này bao gồm ba chỉ số như:
Tuổi thọ trung bình, mức độ phổ cập giáo dục, thu nhập bình quân trên đầu người.
Như vậy HDI không chỉ phản ánh mức sống vật chất, mà còn đo lường cả
mức sống tinh thần của dân cư và do đó chỉ số này đo lường chính xác hơn chất
lượng cuộc sống của dân cư.
Trên đây là thước đo chất lượng cuộc sống chủ yếu, ngoài ra đo lường chất
lượng cuộc sống, các thước đo khác có thể được sử dụng như: số lần xem phim/
người/ năm, tỷ trọng các gia đình được sử dụng nước sạch, có ti vi, tủ lạnh, máy
giặt, điện thoại, xe máy, ô tô v.v..
1.2. Các yếu tố điều kiện về nguồn lực và tác động của quản lý nhà nước
cấp huyện đối với phát triển kinh tế
1.2.1. các yếu tố điều kiện về nguồn lực cho phát triển kinh tế
Sự phát triển của mọi quốc gia đều phải dựa vào những nguồn lực nhất định,
được gọi là nguồn lực phát triển.
Các nguồn lực phát triển kinh tế có thể được hiểu là những thực lực và tiềm
lực bao gồm những yếu tố, những điều kiện hợp thành cơ sở vật chất cho sự phát
triển của nền kinh tế quốc dân trong những thời kỳ nhất định.
Theo khái niệm về các nguồn lực như trên thì các điều kiện, các yếu tố đóng
vai trò là các nguồn lực phát triển kinh tế ở một quốc gia là rất đa dạng. Song ở các


quốc gia khác nhau thì các nguồn lực phát triển cũng rất khác nhau và ngay trong
một quốc gia, các nguồn lực cũng có thể biến đổi và có vai trò khác nhau giữa các
thời kỳ.
1.2.1.1. Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên là các nguồn cung cấp điều kiện và nguyên
liệu cho phát triển sản xuất. Nó bao gồm đất đai, không khí, nước, rừng, biển, các

loại năng lượng và những khoáng sản nằm trong lòng đất… con người có thể khai
thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban tặng để thoả mãn
những nhu cầu đa dạng của mình. Ngoài ra vị trí địa lý cũng có ảnh hưởng rõ nét
đến sự phát triển của nền kinh tế và trong một chừng mực nào đó có thể xem đây
như là một nguồn lực tự nhiên của đất nước.
Theo công dụng có thể chia nguồn tài nguyên thiên nhiên thành các loại sau:
+ Nguồn năng lượng
+ Các loại khoáng sản
+ Nguồn tài nguyên rừng
+ Nguồn đất đai
+ Nguồn nước
+ Biển và thuỷ sản
+ Khí hậu
Nguồn lực tài nguyên thiên nhiên được coi là một nguồn lực rất quan trọng
trong phát triển kinh tế. Nó được xem như món quà của thiên nhiên ban tặng cho
các quốc gia. Những quốc gia giàu có về tài nguyên thiên nhiên sẽ có những điều
kiện đặc biệt thuận lợi trong quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên trên thế giới
cũng có những nước nghèo tài nguyên khoáng sản (Nhật bản, Xingapo…) nhưng
do biết phát huy tốt các nguồn lực khác, nhất là nguồn lực con người, thì vẫn đạt
được tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng.
Số lượng và chất lượng của tài nguyên thiên nhiên của một quốc gia không
phải hoàn toàn cố định. Nếu có sự đầu tư thoả đáng cho việc điều tra, nghiên cứu và
phát triển thì một quốc gia có thể phát hiện được thêm những nguồn tài nguyên mới


và phát triển, mở rộng được các nguồn tài nguyên đã có trong phạm vi biên giới
quốc gia, nhằm nâng cao tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.2.1.2. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một quốc gia là tổng thể năng lực và tiềm lực lao động
biểu hiện bằng số lượng và chất lượng lao động của một quốc gia đó. Nó bao gồm

cả lực lượng lao động đơn giản, lao động phức tạp.
Nguồn nhân lực thể hiện ở số lượng lao động (những người trong độ tuổi lao
động và có khả năng lao động) và ở chất lượng lao động (chủ yếu ở trình độ giáo
dục và trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, sức khoẻ… của con người). Chất
lượng nguồn nhân lực là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với nguồn nhân lực của
một quốc gia.
Nguồn lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật có khả năng lao động, có nguyện vọng tham gia lao động và những
người ngoài độ tuổi lao động (trên độ tuổi lao động) đang tham gia làm việc trong
các ngành kinh tế quốc dân.
Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt: Số lượng và chất lượng
như nguồn nhân lực.
Lực lượng lao động theo quan niệm của tổ chức lao động Quốc tế(ILO International Labour Organization) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động. Theo
quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
ở nước ta hiện nay thường sử dụng khái niệm sau: lực lượng lao động là bộ
phận dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp.
Tầm quan trọng của nguồn lực con người không chỉ dừng lại ở nhận thức lý
luận, ở tư duy của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách mà luôn được
khẳng định trong cuộc sống sinh động. Nguồn lực con người đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao, luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là yếu
tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất và vì vậy nó là
một trong những yếu tố quyết định nhất của tăng trưởng kinh tế.
1.2.1.3. Nguồn vốn


Khác với yếu tố tài nguyên và lao động, vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho
quá trình sản xuất, song bản thân chúng lại là kết quả đầu ra của các quá trình sản
xuất trước đó. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân sau nhiều năm tích luỹ, toàn bộ
vốn cho hoạt động nền kinh tế là rất lớn và rất đa dạng.
Theo mục đích sử dụng của vốn không chỉ có sản xuất trực tiếp phục vụ cho

việc sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, mà còn bao gồm khối lượng
đáng kể và phong phú các hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng khác
phục vụ cho các nhu cầu kinh tế-xã hội của đất nước.
Theo hình thức tồn tại cụ thể của vốn, không chỉ có các loại vốn tồn tại dưới
dạng vật thể (máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc,…) mà còn
bao gồm cả các loại vốn phí vật thể. Đó là kết quả của các loại hoạt động đầu tư cần
thiết cho hoạt động của nền kinh tế, những sản phẩm của nó không tồn tại dưới
dạng vật thể, mà tồn tại dưới dạng các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích
hay đơn thuần chỉ là những khoản đầu tư để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Ngoài ra, vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản chính. (tiền, các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các loại nợ khác,…). Tiền là các loại tài sản chính cần đảm bảo
cho các hoạt động kinh tế diễn ra một cách bình thường, liên tục. Còn các loại cổ
phiếu, trái phiếu, các loại công nợ khác là phương thức để chuyển tiết kiệm thành
đầu tư.
Như vậy, có thể hiểu: vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các tài sản
nhằm mục tiêu thu nhập trong tương lai.
* Vốn được hình thành từ các nguồn sau:
- Nguồn vốn trong nước:
+ Nguồn vốn tiết kiệm của ngân sách nhà nước là: phần được dành để chi
cho đầu tư phát triển từ thu của ngân sách nhà nước.
+ Tiết kiệm của các doanh nghiệp là: phần lãi sau thuế được các doanh
nghiệp để lại dành cho đầu tư phát triển.
+ Tiết kiệm của dân cư là: phần thu nhập để dành chưa tiêu dùng của các hộ
gia đình


- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài: bao gồm các nguồn vốn của Chính phủ,
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế và của tư nhân đầu tư vào các nước
đang phát triển dưới các hình thức trực tiếp và gián tiếp khác nhau.
+ Viện trợ phát triển chính thức (Officcial Development Assistance-ODA)

ODA là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức của Chính phủ của một số nước,
hoặc của các tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy, hỗ
trợ quá trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước này.
+ Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ(Non Gocvernment Organization) Viện
trợ NGO là viện trợ không hoàn lại. Trước đây chủ yếu là viện trợ vật chất đáp ứng
các nhu cầu nhân đạo như cung cấp thuốc men, lương thực. Ngày nay, viện trợ này
bao gồm cả chương trình hỗ trợ phát triển với mục tiêu dài hạn hơn. Viện trợ NGO
tuy nhỏ nhưng cũng có vai trò tích cực. Song sử dụng viện trợ NGO cũng là vấn đề
nhạy cảm về chính trị.
+ Vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài: Đây là nguồn vốn do tư nhân nước
ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của nước chủ nhà, nhưng
không tham gia công việc quản lý; hoặc cấp tín dụng thông qua các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tài chính; hoặc thông qua các khoản tín dụng thương mại
mà các nhà xuất khẩu nước ngoài dành cho các nhà nhập khẩu của nước chủ nhà.
+ Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài(Foreign Direct Invest ment- FDI) Đây là
vốn của nước ngoài đầu tư trực tiếp vào một nước (Nước tiếp nhận đầu tư).
1.2.1.4. Khoa học công nghệ
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng rộng lớn trong
việc khám phá, khai thác và sử dụng nguồn lực tài nguyên thiện nhiên. Những phát
triển mới về năng lượng nguyên tử, mặt trời, địa nhiệt,… đã cho con người” chìa
khoá” để giải quyết tình trạng cạn kiệt tài nguyên hiện nay. Những nghiên cứu mới
về sinh vật biển, về công nghệ sinh học… không chỉ có tác dụng làm tăng năng suất
cây trồng, vật nuôi, mà còn cải tạo môi trường sinh thái, kéo dài tuổi thọ con người.
Chính khoa học và công nghệ đã làm biến đổi chất lượng nguồn lao động theo
hướng chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động sử dụng máy móc, lao


động trí tuệ; làm biến đổi cơ cấu nguồn lực lao động theo hướng giảm dần tỷ trong
lao động nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp, dịch vụ, từ đó làm
tăng năng suất lao động. Khoa học và công nghệ còn làm cho việc huy động, tập

trung và di chuyển vốn diễn ra một cách nhanh chóng, an toàn, thuận tiện và chính
xác. Do đó làm cho hiệu quả sử dụng vốn tăng lên.
Với tác động nêu trên, khoa học và công nghệ đã mở ra khả năng chuyển
chiến lược phát triển kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu khi các nguồn tài nguyên
đang bị cạn kiệt dần.
1.2.2. Tác động của quản lý nhà nước cấp huyện trong phát triển kinh
tế
1.2.2.1. Vị trí, vai trò cấp huyện trong hệ thống tổ chức hành chính nhà
nước
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, quận/ huyện là một trong bốn cấp
hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời quận/ huyện
còn được tổ chức là một cấp chính quyền thuộc hệ thống chính quyền địa phương,
là cấp trên của xã, phường - chính quyền cơ sở và cấp dưới của tỉnh/ thành phố.
Về tổ chức không gian địa lý, huyện là địa bàn lãnh thổ với cư dân và tổ
chức xã hội đô thị, bao gồm diện tích tự nhiên và một lượng dân cư nhất định, tuỳ
thuộc vị trí, tính chất và điều kiện phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội. Về hành
chính, huyện là cơ quan nhà nước địa phương quản lý một số xã, thị trấn nhất định.
Số lượng xã, thị trấn thuộc mỗi huyện không có chỉ tiêu thống nhất, tuỳ theo đặc
điểm và tính chất của từng khu vực quyết định hình thành huyện và địa giới huyện
thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
Xét về tổ chức xã hội - kinh tế, huyện là một phần lãnh thổ của tỉnh được
phân chia theo địa giới hành chính bao gồm đất đai, dân cư, ở các huyện, hầu hết
đều có hệ thống kết cấu hạ tầng chưa phát triển, có đường giao thông, hệ thống cung
cấp điện, nước sinh hoạt còn khó khăn, dân cư phân bố không đồng đều, tầng lớp
làm ăn sinh sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, thương mại, dịch vụ


×