Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

LUẬN văn phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam thời kỳ 1992 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.87 KB, 61 trang )

LUẬN VĂN:

Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả
đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
thời kỳ 1992-2004


Lời nói đầu
Nền kinh tế thế giới đang phát triển ở giai đoạn thứ ba, kể từ sau chiến tranh thế giới lần
thứ hai. Giai đoạn này được mệnh danh là giai đoạn toàn cầu hoá, khu vực hoá với đặc
trưng nổi bật là hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI – Foreign Direct Investment
). FDI đang là làn sóng mở đường cho xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, nhiều nền
kinh tế trước đây đã từng đóng cửa thì nay thực sự đã mở rộng để đón chào các nhà đầu
tư.
Đối với nước ta, FDI là một thành tố quan trọng trong tiến trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, đồng thời nó cũng góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế thế
giới của nước ta diễn ra một cách nhanh chóng thuận lợi hơn. Trong tình trạng đói vốn,
khát công nghệ hiện nay của nước ta, công tác bức xúc là phải kêu gọi càng nhiều càng
nhanh FDI ( Nguồn tài chính không phải nợ vay-Non debt sorce of finance ) càng tốt.
Hơn 13 năm qua, kể từ khi luật đầu tư nước ngoài ra đời tại Việt Nam
(29/12/1987) tới nay, việc thực hiện chủ trương thu hút vốn FDI đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, hơn 3 năm trở lại đây, do ảnh hưởng nặng nề của cuộc
tài chính xảy ra ở một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cộng mức độ cạnh
tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút FDI của các nước láng giềng như Trung Quốc, Thái
Lan… FDI tại Việt Nam có phần chững lại, giảm thiểu cả về mặt số lượng lẫn chất
lượng. Tình hình này đòi hỏi chúng ta phải có những tổng kết và đánh giá đúng đắn về
FDI trong những năm qua, phân tích được những lợi thế và bất lợi của đất nước để nhanh
chóng có những giải pháp đồng bộ toàn diện nhằm tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn,
có thể cạnh tranh với các nước trên khu vực.
Hơn nữa, một khi đã thu hút được FDI thì vấn đề là làm sao sử dụng FDI một
cách có hiệu quả nhất, đảm bảo kết hợp một cách hài hoà hiệu quả tài chính (góc độ nhà


đầu tư) và hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế xã hội). Có như vậy, Việt Nam mới
ngày càng hấp dẫn các nhà đầu tư, đồng thời giảm thiểu chi phí mà xã hội phải gánh chịu
nâng cao lợi ích kinh tế xã hội khi đầu tư. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc
giải quyết các vấn đề trên, em đã chọn đề tài “ Phân tích thống kê thực trạng và hiệu
quả đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời kỳ 1992-2004”.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia làm ba phần chính:
Chương I: Những vấn đề về FDI và hiệu quả FDI.
Chương II: Hệ thống chỉ tiêu thống kê về FDI và hiệu quả FDI.


Chương III: Phân tích thống kê thực trạng và hiệu quả FDI.
Chương I
Những vấn đề về FDI và hiệu quả FDI.
I. Khái niệm và vai trò của FDI.
1. Khái niệm:
Đầu tư ( Investment ) nói chung là sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao
động, của cải vật chất, trí tuệ ) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết
quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại đầu tư, ở đây chúng ta chỉ xem xét phân loại
đầu tư theo nguồn vốn thì đầu tư gồm hai loại:
- Đầu tư trong nước
- Đầu tư nước ngoài
Trong đó, đầu tư nước ngoài là những phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước
ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và
những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất đầu tư nước ngoài là những hình
thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá.
Đầu tư nước ngoài gồm hai dòng chính:
- Đầu tư tư nhân
- Trợ giúp phát triển chính thức của Chính phủ và tổ chức quốc tế
Đầu tư của tư nhân được thực hiện dưới ba hình thức: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián

tiếp và tín dụng thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) chỉ là một trong ba hình
thức đầu tư tư nhân. Đầu tư tư nhân đây là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ nước
ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều
hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc dịch vụ thương mại. Nhìn
chung ở các nước, FDI được hiểu là một hoạt động kinh doanh, một dạng quan hệ kinh tế
có nhân tố nước ngoài. Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện sự khác biệt về
quốc tịch hoặc về lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư
trực tiếp nước ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tư bản bắt buộc phải vượt ra ngoài
tầm kiểm soát quốc gia.


Còn theo điều 2 Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12/11/1996 thì: " Đầu tư trực
tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất
cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này".
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có các đặc điểm sau:
- Là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu
tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang
tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị không để lại
gánh nợ nần cho nền kinh tế.
- Chủ đầu tư tiến hành mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ góp vốn của mình.
Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số
vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% cổ phần còn lại do nước
chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam cho phép
mở rộng rãi hơn với hình thưc 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước ngoài phải
góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Thông qua Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến học hỏi kinh nghiệm quản lý... là nhiều mục tiêu mà các hình

thức đầu tư khác không thể giải quyết được.
- Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
dưới hình thức vốn pháp định mà trong quá trình hoạt động nó bao gồm cả vốn vay của
doanh nghiệp dể triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như nguồn vốn đầu tư từ lợi nhuận.
Chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn hỗ trợ
phát triển chính thưc (ODA-Official Development Assistance). Khác với FDI, ODA
thường dùng để đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở như giao thông vận tải,
giáo dục, y tế... Đó là những công trình mặc dù có lợi nhuận thấp, thậm chí không có lợi
nhuận trực tiếp, thời gian thu hồi vốn chậm nhưng lại hết sức cần thiết cho sự phát triển
kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư, tuy có ưu điểm hơn FDI về lãi suất nhưng ODA
cũng có những bất lợi cho nước đầu tư như: Chịu ràng buộc về kinh tế và chính trị (nước
chủ nhà phải có cổ phần đóng góp vào IMF...); sử dụng vốn vay tràn lan, kém hiệu quả
gây nợ chồng chất; là nguyên nhân gián tiếp gây ra tình trạng tham nhũng; chi phí tiếp


nhận vốn cao... Trong điều kiện này thì FDI có lợi thế hơn hẳn bởi FDI không đưa đến
gánh nặng nợ nần, không bị ràng buộc về kinh tế hay chính trị, việc sử dụng vốn trực tiếp
đụng chạm đến lợi ích của các nhà đầu tư nên sẽ có hiệu quả hơn. Chính vì thế, báo cáo
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tháng 3/1996 đã đề cập: "Bên cạnh những thuận lợi to lớn ở
trong nước và quốc tế đối với việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, chúng ta còn
nhiều khó khăn và thách thức. ODA trên thế giới là nguồn vốn có hạn lại có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các nước đang phát triển. ODA và chính trị đi liền với nhau, các nước
cung cấp ODA thường hay gắn các điều kiện để mưu tìm lợi ích kinh tế hoặc chính trị.
Phần lớn ODA là vốn vay, tuy có phần ưu đãi, song phải trả nợ nếu không tính toán đúng
đắn sẽ có nguy cơ mắc phải nợ nần".
FDI cũng khác xa các quan hệ thương mại thông thường như quan hệ xuất nhập
khẩu vay thương mại, gia công hàng hoá. Bởi lẽ, bản chất FDI là việc di chuyển tư bản từ
nước này sang nước khác để kinh doanh và chủ đầu tư không bị tách rời khỏi vốn đầu tư
(quản lý và sử dụng vốn đầu tư, hưởng lợi nhuận thu được và phải chịu sự rủi ro trực tiếp
nếu có). Còn các quan hệ thương mại thông thường là các quan hệ trao đổi hàng tiền giữa

các chủ thể trong từng việc cụ thể, dù có sự chuyển dịch hàng tiền qua biên giới nhưng
không kéo theo sự quản lý của chủ sở hữu, sự chuyển giao quyền quản lý và trách nhiệm
gánh chịu sự rủi ro với đối tượng chuyển giao.
2. Vai trò của FDI.
2.1. Đối với nước đi đầu tư.
FDI cho phép bành chướng sức mạnh về nền kinh tế, tăng cưởng ảnh hưởng của
mình trên thị trường quốc tế, nhờ mở rộng được thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh
được hàng rào bảo vệ mậu dịch của các nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy
móc thiết bị sang nước nhận đầu tư (để góp vốn) và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các
nước khác (do chính sách xuất khẩu ưu đãi cảu các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích
đầu tư trực tiếp nước ngoài, chuyển giao vốn, công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của
các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài) nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức
cạnh tranh với hàng nhập của các nước khác. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở các nước, về thực chất hoạt động như là chi nhánh của công ty mẹ ở chính
quốc. Việc xây dựng các nhà máy sản xuất chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở rộng
thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài. Đặc biệt thị trường


tiêu thụ sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia... có
sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với nguồn vốn FDI.
FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất, rút ngắn thời gian thu hồi
vốn và thu lợi nhuận cao. Nhưng công ty này phần lớn là thuộc những nước công nghiệp
phát triển, mà tỷ suất lợi nhuận ở trong nước có hướng giảm, kéo theo hiện tượng thừa
tương đối tư bản. Mặt khác, có sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển và sản
xuất, mức sống thu nhập giữa các nước nên đã tạo ra chênh lệch về giá cả và các yếu tố
đầu vào của sản xuất. Do đó, đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này
để giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận... Trước hết, đó là chi phí về lao động. Tiền
lương của người lao động ở Nhật gấp hơn 10 lần lương bình quân lao động trong khối
ASEAN, lương bình quân lao động trong các nước NICS Đông á cũng gấp 12 lần lương
của Việt Nam. Do đó thời gian qua các nước tư bản phát triển và những nước công

nghiệp mới đã chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát
triển để giảm chi phí sản xuất. Việc tổ chưc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tại các nước sở
tại cũng giúp chủ đầu tư giảm chi phí vận chuyẻen, tiết kiệm chi phí quảng cáo, tiếp thị...
Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ mặc nạn thất nghiệp ở
các nước phát triển để đầu tư sang những nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như vậy
tạo ra công ăn việc làm cho các nước nhận đầu tư. Ngoài ra, mục tiêu của nhiều dự án
nước ngoài là tạo nguồn nguyên liệu, nhiên liệu phục vụ cho nhu cầu phát triển để sản
xuất kinh doanh của chủ các chủ đầu tư, chẳng hạn thăm dò khai thác khí, khoáng sản, tài
nguyên biển rừng, sản phẩm cây công nghiệp. Nguồn tài nguyên của các nước đang phát
triển có nhiều nhưng không có điều kiện chế biến vì thiếu thốn công nghệ. Do đó, đầu tư
vào cả lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được
lợi nhuận cao nhất.
Như vậy, đối với việc đầu tư ra nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh của các
nước nhận đầu tư các chủ đầu tư trực tiếp sản xuất được sản phẩm với giá thành hạ hơn
so với sản xuất trong nước, nhờ đó mà các chủ đầu tư này có được ưu thế trong việc tiêu
thụ sản phẩm này trên thị trường thế giới. Nếu các sản phẩm này được nhập trở lại các
nước chủ đầu tư với giá hạ hơn giá sản phẩm này trong nước hoặc của một số nước khác
thì khả năng tiêu thụ sản phẩm này ở chính quốc sẽ mạnh hơn. Cùng với việc đem tiền để
đi đầu tư nước khác và nhập khẩu sản phẩm với nhu cầu cao hơn tự sản xuất trên đây làm
cho nhu cầu đồng nội tệ tăng so với đồng ngoại tệ theo chiều hướng giảm dần. Sự giảm tỉ


giá hối đoái này sẽ có tác dụng khuyến khích các nhà sản xuất tăng cường xuất khẩu nhờ
đó tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
FDI cho phép các công ty nước ngoài kéo dài chu kỳ sống của các sản phẩm mới
được tạo ra trong nước, đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng
lực cạnh tranh. Đổi mới công nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do đó các nhà
đầu tư nước ngoài thường chuyển những máy móc công nghẹ đã lạc hậu so với trình độ
chung của thế giới để sang nước khác. Điều đó, một mặt giúp các chủ đầu tư thực chất
bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ; kéo dài được chu

kỳ sản phẩm của hãng ở các thị trường mới; di chuyển máy móc gây ô nhiễm môi trường
ra nước ngoài và trong nhiều trường hợp còn thu được đặc lợi do chuyển giao công nghẹ
đã lạc hậu đối với nước chủ đầu tư nước ngoài.
2.2 Đối với nước nhận đầu tư.
a. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng.
Vốn cho đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước
ngoài. Đối với các nước đang phát triển, sản xuất còn ở trình độ thấp nguồn vốn trong
nước còn hạn hẹp thì vốn FDI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. ở các nước này, có nhiều tiềm năng về lao động, tài nguyên thiên nhiên
nhưng do trình độ sản xuất còn thấp kém, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu nên
chưa có điều kiện khai thác các tiềm năng ấy. Các nước này chỉ có thể thoát khỏi sự
nghèo đói bằng cách tăng trưởng đầu tư, phát triển sản xuất, tạo ra mức tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định. Để thực hiện được việc này các nước đang phát triển cần có nhiều vốn
để đầu tư.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà trên thế giới có nhiều nước đang nắm trong tay
một khối lượng vốn khổng lồ và có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài thì đó là cơ hội để các
nước đang phát triển có thể tranh thủ nguồn vốn ngắn hạn huy động từ các ngân hàng
hoặc thông qua các khoản đầu tư tài chính khác, FDI có tính ổn định hơn rất nhiều. Có
thể thấy rõ điều này qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Trong 18 tháng
trước khi cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra, dòng vốn chảy vào bốn nước bị tác động
nặng nề nhất sau này là Inđônêxia, Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan lên tới 86,8 tỷ USD
chỉ 18 tháng sau đã có 77,9 tỷ USD thoát lui khỏi các nước này. Ngược lại, dòng vốn đi


vào các nước Châu á vẫn liên tục tăng từ 71,1 tỷ USD năm 1996 lên 86,9 tỷ USD năm
1999.
ở nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng nguồn vốn
đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, trong đó có một số nước hoàn toàn dựa vào vốn FDI, đặc
biệt ở giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. ở Inđônexia sau khi ban hành luật đầu tư nước
ngoài năm 1967, FDI đã cung cấp một lượng vốn bình quân trong 27 năm (1967-1994) là

1,15 tỷ USD/năm trong 15 năm (1979-1994).
ở các nước này, FDI đã thực sự đóng vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế và
nếu chỉ căn cứ vào thực tại vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế thì có thể đánh giá FDI có
ý nghĩa quyết định đến tăng trưởng kinh tế của các nước này.
Tỉ lệ FDI/Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ở Việt Nam năm là 32,33%; năm 1997 là
31,32%; đến năm 1999 giảm xuống còn 18,19%. Con số này đã thể hiện chúng ta khá
thành công trong việc thu hút FDI trong thời gian qua nhưng tỷ lệ này đang có xu hướng
ngày càng giảm.
b. Chuyển giao công nghệ.
Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó bằng
tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi
là công nghệ cứng) và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật công nghệ, tri thức khoa học,
bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị trường...(hay còn gọi là công nghẹ mềm). Thông
qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, quá trình chuyển giao công nghệ được thực
hiện nhanh chóng và thuận tiện cho cả bên đầu tư cũng như bên nhận đầu tư. Thực tế cho
thấy rằng, kỹ thuật và công nghệ nước ngoài đã giúp cho Malaisia từ chỗ là một nước
kinh tế lạc hậu, kỹ thuật thủ công phân tán, lực lượng sản xuất kém phát triển đến giữa
những năm 1980 đã trở thành một nước phát triển nhất về găng tay cao su, thứ hai thế
giới về chất bán dẫn và tinh thể sơ đồ tích phân và thứ ba thế giới về máy điều hoà nhiệt
độ.
Mọt trở ngại lớn nhất trên con đường phát triển kinh tế của hầu hết các nước đang
phát triển lao đông trình độ chuyển giao công nghệ còn lạc hậu. Trong thời đại khoa học
kỹ thuật phát triển như hiện nay, thì việc các nước đang phát triển tự phát triển khoa học
kỹ thuật cho kịp với tốc độ phát triển kỹ thuật hiện nay là phải biết tận dụng những thành
tụ khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài thồn qua hoạt động chuyển giao công nghệ.


Tiếp nhận FDI là một phương thức cho phép các nước đang phát triển tiếp nhận khoa học
kỹ thuật - công nghệ hiện đại trên thế giới, tuy nhiên mức độ hiện đại còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố. Nhưng dù thế nào thì đây cũng là lợi ích căn bản của các nước tiếp nhận

FDI. Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của các quốc gia khác nhau
có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và chuyển giao công nghẹe cho nước nhận đầu tư, thì
đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu được kỹ thuật công nghệ thuận
lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển được "đi xe miễn phí" mà họ phải
trả một khoản học phí không nhỏ cho việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ này. So với
việc nhập khẩu thiết bị và mua bản quyền những cách được áp dụng trước kia để nâng
cao trình độ công nghệ, thì FDI có lợi hơn hẳn bởi "đó là một kênh chuyển giao trình độ
quản lý và kỹ thuật, đi kèm với các nhà máy, thiết bị nước ngoài cũng như mạng lưới tiếp
thị và phân phối". Hơn nữa, trong mọi trường hợp các nước đang phát triển cũng ít có sự
lựa chọn nào khác ngoài việc mở cửa thu hút FDI, bởi cách mua bản quyền để thay thế
cho FDI hiện đã khó khăn hơn rất nhiều so với trước. Theo các chuyên gia, thách thức
mà các nước đang phát triển phải đối mặt là "các nước đang phát triển vẫn phải liên tục
xoá đi khoảng cách với những nước dẫn đầu công nghiệp, song họ sẽ phải chuyển dẫn từ
mẫu hình phát triển dựa vào tích luỹ lên theo mẫu hình dựa theo sự đổi mới".
c. Thúc đầy tăng trường kinh tế.
Tranh thủ vốn và công nghệ của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn sử
dụng nó để thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Đây
cũng là điểm nút để các nước đang phát triển ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo.
Thực tiễn và kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy quốc gia nào thực hiện chiến lược
mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ các nhân tố với bên ngoài nó trở thành nhân tố bên
trong thì quốc gia đó sẽ tạo được sự tăng trưởng kinh tế cao.
Xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới,
có thể rút ra một số nhân xét sau:
- Có mức tăng trưởng tỉ lệ thuận giữa tăng trưởng kinh tế với khối lượng vốn FDI
được huy động và sử dụng ở Việt Nam năm 1995, khối lượng FDI là 6.607 triệu USD ,
thì tăng trưởng GDP là 9,5%, tương ứng năm 1996 là 8.864 triệu USD và 9,3%, năm
1997 là 4.654 triệu USD và 8,2%, năm 1998 là 4.059 triệu USD và 5,8%, năm 1999 là
1.548 triệu USD và 4,8%.



- Sự tăng trưởng gắn liền với mức tăng trưởng xuất khẩu mức tăng trưởng kinh tế
chủ yếu ở các nước đang phát triển thường do nhân tố đầu tư chủ yếu, nhờ đó mà các
nhân tố khác như tổng số lao động cũng được sử dụng và năng suất lao động cũng tăng
theo. Vì vậy, có thể thống qua tỷ lệ đóng góp của FDI trong GDP để đánh giá vai trò của
FDI với tăng trưởng kinh tế.
Bảng 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tổng sản phẩm trong nước (GDP) của một số
nước năm 1999.
tên nước
Chỉ tiêu
1.FDI (Tr
USD)
2.GDP(Tr
USD)
3.FDI/GDP(%
)

Singapor
e

Argentin
a

Brazin

Philippi

Venezuel

Việt


n

a

Nam

6.984

23.579

32.659

2.287

3.187

1.548

84.945

283.011

529.398

65.493

102.222

18.305


8,12

8,33

6,17

3,49

3,12

8,47

Nguồn: International Financial Statistics-International Moneytary Fund-Volume LIV
Number 1 January 2001.
d. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển
nội tại của nền kinh tế, mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống đang
diến ra mạnh mẽ hiện nay, FDI là một hoạt động quan trong của hoạt động kinh tế đối
ngoại, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công
lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi từng quốc gia phải thay
đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự chuyển của mỗi
quốc gia phù hợp với trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Ngược lại, chính đầu tư trực tiếp nước ngoài lại góp phần
thúc đẩy nhanh chuyển dich cơ cấu kinh tế. Bởi vì:
- Thông qua FDI đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành nghề mới ở nước nhận
đầu tư.


- FDI góp phần vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ thuật công nghệ ở nhiều
ngành kinh tế góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này làm tăng tỉ

phần của chúng trong nền kinh tế.
- Một số ngành được kích thích phát triển bởi FDI nhưng cũng có nhiều ngành bị
mai mọt rồi đi đến bị xoá sổ.
e. Trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Quan hệ kinh tế quốc tế xuất hiện từ khi con người bắt đầu thực hiện hành vi trao
đổi mua bán hàng hoá giữa các quốc gia. Qui mô và phạm vi trao đổi ngày càng mở rộng,
hình thành nên các quan hệ quốc tế gắn bó và phụ thuộc vào nhau giữa các nước trên thế
giới.
FDI là một hoạt động kinh tế đối ngoại ra đời muộn hơn các hoạt động kinh tế đối
ngoại khác vài ba thập kỷ. Nhưng ngay từ khi xuất hiện, vào khoảng cuối thế kỷ 19, FDI
đã có vị trí đáng kể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Cùng với quá trình phát triển mạnh mẽ
của các quan hệ kinh tế quốc tế, hoạt động FDI không ngừng được mở rộng và ngày càng
chiếm vị trí quan trong trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đến nay, FDI đã trở thành xu
hướng của thời đại và là nhân tố cơ bản quy định bản chất các quan hệ kinh tế.
Thập kỷ 80 vừa qua đã chứng kiến những bước phát triển mới của đầu tư trực tiếp
nước ngoài trên thế giới, khối lượng vốn tăng lên với tốc độ nhanh hơn so với sự gia tăng
của sản xuất và buôn bán quốc tế. Những năm 70, lượng vốn FDI trên toàn thế giới bình
quân hàng năm là 25 tỷ USD, con số này đã tăng lên gấp hai lần trong thời kỳ 19801985. Năm 1986, lượng vồn FDI trên toàn thế giới là 78 tỷ USD, năm 1987 là 133 tỷ
USD, năm 1988 là 195 tỷ USD, đến năm 1990 giảm xuống còn chút ít 184 tỷ USD. Tính
bình quân hàng năm trong thời kỳ 1985-1990, FDI tăng khoảng 24%, tốc độ này lớn hơn
bốn lần so với tốc độ tăng kim nghạch xuất khẩu trong thời kỳ này là 6,1%. Bước sang
thập kỷ 90 này, FDI đã tăng lên nhanh chóng và là một nhân tố gây ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế của nhiều quốc gia. Trái ngược với tình hình năm 1997, mặc dù tăng
trưởng thương mại thế giới giảm hơn một nửa chỉ còn 3,7% so với năm 1994, năm 1997
là 6,3% năm 1996 song FDI trên toàn thế giới vẫn gia tăng và đạt mức kỷ lục, bất chấp
tình trạng suy giảm kinh tế trên thế giới. Theo đánh giá của tổ chức thương mại và phát
triển của tổ chức Liên hiệp quốc (UNCTAD), năm 1998 FDI trên toàn thế giới đạt
khoảng 410 tỷ tăng 10% so với mức 400 tỷ năm 1997. Năm 1999, tăng trưởng khoảng



20%, đạt gần 800 tỷ USD,năm 2000 đạt mức kỷ lục 1.140 tỷ USD, gấp ba lần năm 1997.
Bốn quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút FDI là Mỹ, Anh, Đức, Trung Quốc, FDI vào
Châu á vẫn chiếm khoảng 1/3 tổng vốn FDI trên toàn thế giới. Tình hình trên đây, cho
phép khẳng định rằng FDI đang trở thành xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Ngoài những vai trò trên FDI còn có một số vai trò sau:
- Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp
thuế, phí tiền thuê đất... của các đơn vị đầu tư nước ngoài. Bởi vì, hầu hết các dự án FDI
là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu.
- Cùng với việc tăng khả năng sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, FDI còn giúp mở
rộng thị trường trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án FDI đều có phương án bao
tiêu sản phẩm. Đây là hiện tượng đa chiều đang trở thành khá phổ biến ở các nước đang
phát triển hiện nay.
- Về mặt xã hội, FDI đã tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, thu hút được một khối
lượng đáng kể ở các nước nhận đầu tư vào các đơn vị đầu tư nước ngoài, nâng cao thu
nhập cho người lao động, đồng thời góp phần đào tạo một đội ngũ công nhân có trình độ
kỹ thuật cao.
Điều này góp phần vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là tình trạng nan
giải ở nhiều quốc gia. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam nơi có
lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được,
thì FDI được coi là chiếc chìa khoá quan trọng để giải quyết vấn để này. Bởi vì, FDI tạo
nên điều kiện vốn và kỹ thuật cho phép khai thác và sử dụng tiềm năng của nền kinh tế
trong đó có tiềm năng về lao động.
II. Hiệu quả của FDI.
1. Khái niệm.
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế quan trọng biểu hiện quan hệ so sánh
giữa kết quả kinh tế mà xã hội đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó.
Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài thì hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư biều
hiện quan hệ so sánh giữa kết quả đầu tư mà cá nhân hay xã hội đạt được hiệu quả đó.
Kết quả được đem ra so sánh có thể là kết quả ban đầu, trung gian hoặc kết quả
cuối cùng. Tương ứng, có các chỉ tiêu kết quả biểu hiện khác nhau, có tác dụng khác



nhau. Kết quả được nói ở đây có thể là kết quả gián tiếp, kết quả trực tiếp với các mức độ
khác nhau.
Chi phí được chọn để so sánh cũng bao gồm nhiều loại khác nhau: chi phí thường
xuyên, chi phí một lần ( nguồn lực của nền sản xuất xã hội ).
Tuỳ thuộc vào cấp độ quản lý, mục đích sử dụng các kết quả tính toán trong công
tác quản lý và kế hoạch hoá cần phân biệt các loại hiệu quả kinh tế tài chính ( hiệu quả
hạch toán kinh tế ) và hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư.
Hiệu quả tài chính ( hiệu quả kinh tế theo quan điểm doanh nghiệp ) của hoạt
động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu ccầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh và
dịch vụ, nâng cao đời sống của người lao động trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh và
dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà đơn vị đó đã sử dụng so với các kỳ khác hoặc so với
định mức chung.
Các kết quả đem lại cho chủ đầu tư rất đa dạng và là quá trình tất yếu của quá
trình thực hiện đầu tư. Các kết quả đó có thể là lợi nhuận thuần, doanh thu thuần, mức
tăng năng suất lao động, số lao động có việc làm do hoạt động đầu tư tạo ra, mức tăng
thu nhập cho người lao động của đơn vị thực hiện đầu tư.
Hiệu quả kinh tế xã hội (hiệu quả kinh tế theo quan điểm kinh tế xã hội) của hoạt
động đầu tư là chênh giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp
mà nền kinh tế xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư.
Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng hoạt động đầu tư với việc
thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể
được xem xét mang tính chất định tính như: đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục
vụ việc thực hiện các chủ trương, chính sách nhà nước ; góp phần chống ô nhiễm môi
trường, cải tạo môi sinh; tận dụng khai thác tài nguyên chưa được quan tâm; phát triển
vùng kinh tế yếu kém; phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo, kéo theo sự phát triển
các ngành nghề khác; phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng dân cư
xa xôi thưa thớt nhưng có tiềm năng về tài nguyên... hoặc đo lường bằng các tính toán
định lượng như mức tăng thu ngân sách, tăng số người có việc làm, tăng thu ngoại tệ,

tăng tích luỹ vốn, tăng tổng sản phẩm quốc dân, tăng đầu tư, tăng tốc độ phát triển, tốc
độ tăng trưởng, tăng xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho dân cư.


Chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư thực hiện bao gồm
toàn bộ tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội phgải dành cho
đầu tư thay vì sử dụng vào các công việc khác trong tương lai không xa.
Như vậy hiệu quả kinh tế xã hội chính là so sánh có mục đích giữa các giá mà xã
hội phải trả cho việc sử dụng các nguồn lực sẵn có của mình và lợi ích do đầu tư tạo ra
cho toàn bộ nền kinh tế.
2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả FDI.
Nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư có ý nghĩa quan trọng đối với yêu
cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội loài người nói
chung. Nâng cao hiệu quả kinh tế của FDI là cở vật chất để không ngừng nâng cao mức
sống dân cư. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết nền kinh tế vĩ mô của
nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư trực tiếp
nước ngoài phải được xem xét từ hai góc độ nhà đầu tư và nền kinh tế.
Trên góc độ chủ đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy
tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của các dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự
chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lời càng cao thì càng
hấp dẫn các nhà đầu tư. Việc nâng cao hiệu quả đầu tư (hiệu quả tài chính) của các đơn
vị đầu tư nước ngoài có vai trò quyết định trực tiếp đối với bản thân chủ đầu tư, từ đó tạo
lòng tin đối với các chủ đầu tư khác sắp có ý định bỏ vốn đầu tư. Đây là yếu tố gián tiếp
làm tăng thêm sức cạnhu tranh, cho phép giành lợi thế trong quan hệ kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời cao đều tạo ra
những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế xã hội. Không ít trường hợp có hiệu quả tài
chính cao nhưng có hiệu quả kinh tế xã hội thấp, thậm chí gây tổn hại đến lợi ích kinh tế
xã hội, có lợi trước mắt nhưng có hại lâu dài. Bởi vì, các chủ đầu tư nước ngoài và đôi
khi cả bên Việt Nam chỉ quan tâm nhiều đến hiệu quả tài chính. Đứng về lợi ích riêng
của nhà đầu tư thì hiệu quả cao nhất là thu được lợi nhuận. Cho nên, họ chỉ chú ý đến

những vấn đề thiết thực như doanh thu chi phí, thuế, tiền thuê đất… Trong khi đó nhà
nước góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô chúng
ta phải xem xét mặt lợi ích xã hội đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để
được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư tức là trong khi thẩm định xem


xét một dự án FDI cần phải đặt hiệu quả kinh tế xã hội lên trên và coi đó là những biện
pháp cơ bản để khuyến khích đầu tư.
3. Tình hình FDI trong thời gian qua.
- Hoạt động đầu tư nước ngoài không ngừng tăng (kể từ khi Luật Đầu tư nước
ngoài được ban hành năm 1987). Tính đến tháng 7/2004, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu
tư cho 5.837 dự án đầu tư nước ngoài, trong đó 4.796 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn
đầu tư cấp mới là 43,97 tỷ USD, vốn pháp định 19,5 tỷ USD; trong đó 45,4% vốn đầu tư
cấp mới theo hình thức 100% vốn nước ngoài và 42,5% theo hình thức liên doanh; số
vốn còn lại theo hình thức BOT (với 6 dự án).
- Đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng (FDI) nói
riêng đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội) của đất nước, củng cố thêm thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế: đóng góp
trên 13% GDP, trên 18% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu
(không kể dầu khí), đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 7% thu ngân
sách cả nước; thu hút gần nửa triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp.
Tuy vậy, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm
năng và sự mong muốn của chúng ta:
- Cơ cấu của vốn FDI đang quá chênh lệch giữa các ngành, phần vốn chủ yếu tập
Trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (57,8% tổng số vốn). Lĩnh vực dịch vụ
chiếm 34,8% và lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm 7,3%.
- Cơ cấu vùng, vốn đầu tư cấp mới chủ yếu tại các địa phương, thành phố có điều
kiện kinh tế-xã hội thuộc các vùng trọng điểm kinh tế như thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hải Phòng, Hà Nội. Riêng vùng kinh tế trọng điểm kinh tế
phía Nam (thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu) chiếm

55,5% tổng số vốn đầu tư nước ngoài của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc
(Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 26,3% tổng số đầu tư
nước ngoài đăng ký trên cả nước.
- Hình thức đầu tư chính vẫn là liên doanh chiếm 51% số vốn đăng ký và 30% số
dự án; 100% vốn nước ngoài chiếm 36% số vốn đăng ký và 66% dự án; hợp đồng hợp
tác kinh doanh và hợp đồng khai thác chuyển giao chiếm 13% vốn đăng ký và 4% dự án.


- Số dự án và số vốn đầu tư tại Việt Nam của các nước khu vực Châu á chiếm tỷ
lệ lớn: trong 64 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nước Châu á
chiếm 76% dự án và 70% vốn đăng ký; các nước châu Âu chiếm gần 16% dự án và 24%
vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 4% dự án và 2,7% vốn đăng ký; còn lại là khu vực khác.
- Hoạt động của các dự án còn chưa thực sự hiệu quả, tiến độ châm: trong các dự
án còn hiệu lực nói trên chỉ có 2.304 dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với
tổng vốn đầu tư 27,71 tỷ USD, có 869 dự án đang xây dựng cơ bản với tổng vốn đầu tư
9,95 tỷ USD, 1.038 dự án đã giải thể trước thời hạn với tổng vốn đầu tư 12,46 tỷ USD và
39 dự án kết thúc đúng hạn với tổng vốn đầu tư 658 triệu USD.
- Vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng nhưng số vốn đưa vào tăng không đáng kể
so với số vốn thực hiện: từ năm 1988 đến hết tháng 7/2004 đạt hơn 28,2 tỷ USD (gồm cả
vốn thực hiện của các dự án hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn), trong đó bên ngoài đưa
vào chiếm 85,08% vốn thực hiện. Thời kỳ 1991-1995, vốn thực hiện đạt 7,15 tỷ USD
chiếm 44% tổng số vốn thực hiện, trong đó vốn bên ngoài đưa vào chiếm 85,08% vốn
thực hiện. Thời kỳ 1996-2000 đạt 13,47 tỷ USD chiếm 64,8% tổng số vốn cấp mới, tăng
88% so với thời kỳ 1991-1995 và vượt 3,6% chỉ tiêu dự kiến (13 tỷ USD), trong đó vốn
bên ngoài đưa vào chiếm 89,3%.
Để thu hút hơn nữa đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, điều quan trọng nhất là tạo
môi trường thể chế ổn định, nhất quán để các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm
làm ăn lâu dài và cần phải có chiến lược tổng thể xúc tiến đầu tư nước ngoài.



Chương II. Hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng và đánh giá hiệu quả FDI
I. Nguyên tắc và yêu cầu xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng và đánh giá hiệu
quả FDI
Để có thể xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê FDI và hiệu quả FDI
một cách khoa học và hợp lýcần bảo đảm các yêu cầu sau đây:
- Xác định đúng bản chất, tiêu chuẩn đánh giá FDI và hiệu quả FDI, nắm chắc các
phạm trù kinh tế về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thực tế, do chưa giải quyết đúng
đắn và đầy đủ yêu cầu này nên tồn tại hiện tượng đồng nhất hiệu quả FDI một phạm trù
tổng hợp với các chỉ tiêu bộ phận biểu hiện từng mặt của nó (như năng suất lao động)
hay đồng nhất hiệu quả FDI với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Như vậy là lẫn lộn giữa
phát triển theo chiều sâu và phát triển nói chung hoặc lẫn lộn giữa kết quả trung gian và
kết quả cuối cùng khi xác định hiệu quả FDI.
- Đảm bảo phản ánh đầy đủ, chính xác và hệ thống tức là các chỉ tiêu được chọn
phải đủ lớn để bao quát hết các mặt cơ bản có liên quan tới FDI; các chỉ tiêu được chọn
phải là các chỉ tiêu đặc trưng nhất; các chỉ tiêu phải đảm bảo có nội dung phạm vi và đơn
vị tính phù hợp với yêu cầu đánh giá thực trạng và hiệu quả FDI; các chỉ tiêu trong hệ
thống phải có mối liên hệ hữu cơ với nhau, trong hệ thống phải thể hiện rõ các chỉ tiêu
chủ yếu và thứ yếu, các chỉ tiêu tổng hợp và từng mặt của hiệu quả.
- Các chỉ tiêu phải được quy định và hướng dẫn đầy đủ cách thu thập số liệu và
phương pháp tính toán, áp dụng thống nhất cho các ngành cũng như các cấp từ Trung
ương đến địa phương và cơ sở.
- Trong vấn đề xác định hiệu quả FDI phải đảm bảo được yêu cầu so sánh về độ
dài của thời kỳ nghiên cứu tức là hai chỉ tiêu kết quả và chi phí có thời kỳ tính toán giống
nhau; tính đến độ trễ của vốn, vì đầu tư chỉ mang lại kết quả sau một thời gian nhất định
trong đó có kết quả gián tiếp và kết quả trực tiếp.
- Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính kế thừa, song cũng phải chú ý
thường xuyên cải tiến, hoàn thiện và bổ sung cho phù hợp với nhu cầu quản lý mới và so
sánh quốc tế.
- Các chỉ tiêu phải được phân loại một cách khoa học và tuỳ theo cấp độ khác
nhau (doanh nghiệp và nề kinh tế quốc dân) mà áp dụng các chỉ tiêu khác nhau cho phù

hợp.


- Hệ thống được hình thành phải là hệ thống cho phép giải quyết tốt nhất mâu
thuẫn giữa nhu cầu thông tin với khả năng về mọi mặt để thu thập xử lý và phân tích các
chỉ tiêu nêu ra. Điều đó cũng có nghĩa là cần sự kết hợp giữa tính lý thuyết với tính khả
thi và thực tiễn của hệ thống.

II. Hệ thống chỉ tiêu thống kê thực trạng FDI.
Hệ thống chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu: Số lượng dự án, tổng vốn đầu tư của
dự án, vốn pháp định, vốn đăng ký, vón thực hiên, vốn cấp mới, vốn tăng thêm, vốn giải
thể, vốn hết han… Các chỉ tiêu này thường được cập nhật thường xuyên thông qua các
báo cáo của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
1. Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối:
1.1. Số lượng dự án: Là toàn bộ số dự án FDI đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép đầu tư.
Số dự án được chia theo thời gian (tháng, quý, năm); vùng; địa phương; ngành;
đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.2. Vốn pháp định: Là vốn ban đầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
ghi trong điều lệ doanh nghiệp hay là mức vốn phải có để thành lập doanh nghiệp được
ghi trong điều lệ thành lập doanh nghiệp (Điều 19-Luật đầu tư nước ngoài).
Vốn pháp định được chia theo thời gian; ngành; doanh nghiệp.
1.3. Vốn đăng ký: Là số vốn chủ đầu tư cam kết trong hồ sơ xin cấp giấy phép đầu tư.
Vốn đăng ký được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp;
đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.4. Vốn thực hiện: Là số vốn chủ đầu tư đã thực sự bỏ ra để đầu tư trong suốt dự án.
Vốn thực hiện được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp;
đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.5. Vốn đầu tư: Là số vốn thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp định và vốn vay.
Vốn đầu tư được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp; đối

tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.6. Vốn cấp mới: Là số vốn mà chủ đầu tư xin cấp giấy phép đầu tư thêm trong năm.
Vốn cấp mới được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp;
đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.


1.7. Vốn tăng thêm: Là số vốn mà chủ đầu tư xin ghi thêm trong giấy phép đầu tư của
một dự án.
Vốn tăng thêm được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; doanh nghiệp;
đối tác đầu tư; hình thức đầu tư.
1.8. Vốn hết hạn: Là số vốn còn lại chưa thực hiện được tại thời điểm dự án hết hạn đầu
tư.
Vốn hết hạn được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư;
hình thức đầu tư.
1.9. Vốn giải thể: Là số vốn cộng dồn còn lại chưa thực hiện tại thời điểm doanh nghiệp
tuyên bố giải thể.
Vốn giải thể được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu tư;
hình thức đầu tư.
1.10. Vốn còn hiệu lực:
Vốn còn hiệu lực=Vốn cấp mới +Vốn tăng-(Vốn hết hạn+Vốn giải thể)
Vốn còn hiệu lực được chia theo thời gian; vùng; địa phương; ngành; đối tác đầu
tư; hình thức đầu tư.
2. Nhóm chỉ tiêu tương đối và bình quân.
2.1. Vốn đăng ký bình quân một dự án ( K dk ): Là quan hệ so sánh giữa số vốn đăng ký
(Kdk) và số lượng dự án (n).

K dk




K dk
n

2.2. Vốn thực hiện bình quân một dự án ( K th ): Là mối quan hệ so sánh giữa vốn thực
hiện (Kth) và số lượng vốn đầu tư (n).

K th



K th
n

Đơn vị tính: Tr USD/1 dự án.
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt.
2.3. Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký ( R ): Là quan hệ so sánh giữa vốn thực hiện
(Kth) vốn đăng ký (Kdk).


K th
K dk

R 
Đơn vị tính: USD/USD
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt.

ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị giá trị vốn đăng ký thì có bao nhiêu đơn vị
giá trị vốn thực hiện.

III. Hệ thống chỉ tiêu thống kê hiệu quả FDI.

Bao gồm hai nhóm chỉ tiêu:
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính (góc độ doanh nghiệp)
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế xã hội (góc độ nền kinh tế)
1. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả tài chính của doanh nghiệp có FDI.
1.1. Công thức tổng quát xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính.
Hiệu quả tài chính được đo lường bằng các chỉ tiêu tương đối thời kỳ, nó có hai
loại chỉ tiêu:
1.1.1. Kết quả thu được do thực hiện vốn đầu tư (Htc): Chỉ tiêu được xác định bằng cách
chia kết quả sản xuất mà đơn vị có vốn FDI thu được (Q) cho số vốn mà đơn vị bỏ ra để
tạo ra kết quả đó (C).

H tc



Q
C

H tc được coi là hiệu quả khi H tc > H tc0
Với H tc0 là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đã
được chọn làm cơ sở so sánh hoặc của đơn vị khac đã đạt tiêu chuảa hiệu quả.
Đơn vị tính USD/USD
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 1 đơn vị giá trị vốn bỏ ra thì có bao nhiêu đơn vị giá
trị kết quả.
1.1.2. Vốn thực hiện để tạo ra một đơn vị kết quả sản xuất (Etc): Chỉ tiêu được xác định
bằng cách chia kết quả sản xuất mà đơn vị có vốn FDI thu được cho số vốn mà đơn vị bỏ
ra để tạo ra kết quả đó .


Etc


C
Q



Etc được coi là hiệu quả khi Etc< Etc0
Etc là chỉ tiêu nghịch của chỉ tiêu H tc
Đơn vị tính USD/USD
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết để cần 1 đơn vị giá trị kết quả thì có bao nhiêu đơn vị
giá trị vốn.
1.2. Một số chỉ tiêu thống kê hiệu quả tài chính.
1.2.1. Tỷ suất sinh lời (hệ số thu hồi vốn đầu tư RR): Chỉ tiêu này được xác định bằng
cách chia tổng mức lợi nhuận thuần cho số vốn đầu tư của dự án (K).

RR 

W
K

Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có ý nghĩa là cứ mỗi đơn vị vốn bỏ ra thì thu được bao
nhiêu đơn vị lợi nhuận thuần. Nó dùng để so sánh giữa các dự án với nhau, từ đó chọn ra
dự án tối ưu.

1.2.2. Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia chia số
vốn đầu tư của dự án (K) cho tổng mức lợi nhuận thuần .

T




K
W

Chỉ tiêu càng nhỏ càng tốt
Chú ý: Lợi nhuận được tính bằng tiền thu ở những thời điểm khác nhau của quá
trình thực hiện dự án nên cần chú ý đến giá trị thời gian của các khoản lợi thu được.
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết thời gian để chủ đầu tư thu hồi vốn ban đầu. Nó dùng để
so sánh hiệu quả sử dụng vốn giữa các dự án khác nhau hoặc giữa các năm của đời dự án.


1.2.3. Số vòng quay vốn lưu động (N): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia doanh
thu (D) cho số vốn lưu động bình quân

N



D
K ld

Đơn vị tính: Vòng quay
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt nhưng giá trị của nó phụ thuộc vào ngành nghề
kinh doanh, do đó cần phài so sánh với mức trung bình ngành.
1.2.4. Hệ số tự chủ vốn: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia số vốn tự có cho số
vốn đầu tư của doanh nghiệp.

H




K tco
K

Đơn vị tính USD/USD
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, vốn tự có tối thiểu (vốn pháp định) ít
nhất phải bằng 30% vốn đầu tư nên hệ số này phải ít nhất lớn hoưn 0,3. Nhìn chung hệ số
vốn tự chủ càng lớn thì mức độ tin cậy của doanh nghiệp trong hoạt động càng cao.
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ một đơn vị giá trị vốn đầu tư thì có bao nhiêu đơn vị
giá trị vốn tự có của doanh nghiệp FDI.
1.2.5. Tỷ số cân đối nợ:

Tỷ số cân

=

Tổng số nợ
Tổng số tài san có

đối nợ

Khả năng
thanh toán

=

Tai sản có + nợ phải đòi
Nợ ngăn hạn


ngắn hạn

ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết khả năng của doanh nghiệp về mặt tài chính và khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn.
2. Nhóm chỉ tiêu thống kê hiệu quả kinh tế xã hội.


2.1. Tỷ trọng vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội (R'): Chỉ tiêu này bằng số
vốn FDI (K) chia cho số vốn đầu tư toàn xã hội (Kxh) nhân với 100.

R' 

K
100
K xh

Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu cho biết cứ 100 đơn vị giá trị vốn toàn xã hội thì có bao nhiêu
đơn vị giá trị vốn FDI.
2.2. Hiệu quả sử dụng vốn FDI: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá trị tăng
thêm của VA hay GDP cho vốn FDI bình quân (K)

H

VA

K




GDP
K

ý nghĩa: Chỉ tiêu này có nghĩa là cứ mỗi đơn vị giá trị vốn FDI thì sẽ làm tăng bao
nhiêu đơn vị giá trị gia tăng hay GDP.
2.3. Tỷ lệ số lao động được sử dụng trong doanh nghiệp FDI ( R ): Chỉ tiêu này được
xác định bằng cách chia số lao động bình quân của doanh nghiệp FDI cho số lao động
được sử dụng trong xã hội.

LFDI
Lxh

R 
Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt

ý nghĩa: Chỉ tiêu này có nghĩa là cứ mỗi một lao động được sử dụng trong xã hội
thì có bao nhiêu lao động được sử dụng trong doanh nghiệp FDI.
2.4 . Mức sử dụng lao động (SDld): Chỉ tiêu này là quan hệ so sánh giữa số vốn đầu tư
với số lao động bình quân của doanh nghiệp có vốn FDI.

SDld
Đơn vị tính: USD/1 lao động



K
LFDI



Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có nghĩa là một loa động được trang bị bao nhiêu đơn vị giá
trị vốn đầu tư.
2.5. Số ngoại tệ thực thu
Số ngoại tệ thực thu = Tổng thu ngoại tệ - Tổng chi ngoại tệ
2.6. Đóng góp ngân sách (Hdg): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia mức đóng
góp vào ngân sách của doanh nghiệp FDI (DG) cho số vốn FDI.

H dg



DG
K

Hdg càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có nghĩa là cứ mối đơn vị giá trị vốn FDI thì có bao nhiêu
đơn vị giá trị được đóng góp vào ngân sách nhà nước.
2.8. Mức thu nhập bình quân lao động: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia tổng
quỹ lương phân phối cho lao động (Q) cho số lao động hiện có bình quân.

W



Q
T

Đơn vị tính: USD/1tháng/1 người
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt

2.9. Tỷ lệ đóng góp vào GDP: Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá trị GDP do
khu vực có vố FDI cho giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế nhân với 100.

t 

GDPFDI
100
GDP

Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu càng lớn càng tốt
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có cho biết cứ mỗi 100 đơn vị giá trị GDP của toàn bộ nền
kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị gía trị GDP do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.10. Tỷ lệ đóng góp vào xuất khẩu (txk): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia giá
trị xuất khẩu do khu vực có vốn FDI (XKFDI) cho giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền kinh
tế (XK) nhân với 100.


t xh 

XKFDI
100
XK

Đơn vị tính: %
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có cho biết cứ mỗi 100 đơn vị giá trị GDP của toàn bộ nền
kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị giá trị GDP do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.11. Tỷ lệ giá trị sản xuất trong các ngành (tGO): Chỉ tiêu này được xác định bằng
cách chia giá trị sản xuất của ngành i do khu vực có vốn FDI (GOFDI nganh i) cho giá trị
sản xuất của toàn bộ nền kinh tế (GOnganhi) nhân với 100.


GOnganhi

tGO 

GOnganhi

100

Đơn vị tính: %
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có cho biết cứ mỗi đơn vị giá trị xuất khẩu của toàn bộ nền
kinh tế thì có bao nhiêu đơn vị giá trị xuất khẩu do khu vực có vốn FDI tạo ra.
2.12. Tỷ lệ số doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm (tmt): Chỉ tiêu này được xác định bằng
cách chia số doanh nghiệp FDI gây ô nhiễm (Non) cho số doanh nghiệp FDI (N) nhân
với 100.

tmt

Non

100
N

Đơn vị tính: %
ý nghĩa: Chỉ tiêu này có cho biết cứ 100 doanh nghiệp FDI thì có bao nhiêu doanh
nghiệp gây ô nhiễm môi trường.
2.13. Tỷ lệ số máy móc công nghệ lạc hậu (tcn): Chỉ tiêu này được xác định bằng cách
chia số máy móc, công nghệ lạc hậu (Nlh) cho toàn bộ số máy móc, công nghệ được
chuyển giao qua FDI (N) nhân với 100.


tcn 
Đơn vị tính: %

Nth
100
N


×