Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

LUẬN văn một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở xã thượng phùng huyện mèo vạc tỉnh hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.5 KB, 59 trang )

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế
hộ nông dân ở xã Thượng Phùng - huyện
Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang


Lời nói đầu

Nông hộ là hình thức kinh tế đặc thù trong nông nghiệp. Sự tồn tại và phát triển của kinh
tế nông hộ là một tất yếu khách quan dưới sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua kinh tế nông hộ ở nước ta đã trải qua những bước biến đổi thăng
trầm. Một thời gian dài kinh tế nông hộ chưa được trú trọng do đó nó chưa có các điều
kiện để phát triển. Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có chỉ thị 100 của Ban Bí
Thư và Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị coi nông hộ là đơn vị kinh tế cơ sở có quyền tự
chủ trong sản xuất - kinh doanh thì kinh tế nông hộ đã có điều kiện để chuyển mạnh sang
sản xuất hàng hoá, góp phần tạo nên khởi sắc trong nông nghiệp, nông thôn. Bởi vậy, hộ
nông dân có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Hộ chiếm 80% tổng dân số cả
nước, 90% tổng diện tích canh tác và sản xuất phần lớn các nông sản cho xã hội như :
thóc chiếm 98% sản lượng thóc toàn quốc, chăn nuôi chiếm khoảng 97- 98%, rau chiếm
98%...
Thượng Phùng là một xã biên giới vùng cao núi đá của cực bắc của tổ quốc, có vị
trí chiến lược quan trọng giáp huyện Phú Ninh - tỉnh Vân Nam -Trung Quốc với đường
biên giới là 18,5 km.
Xã có diện tích tự nhiên là 3.402 ha cách trung tâm huyện lỵ Mèo Vạc là 32 km,
dân số đến tháng 12/2005 là 5.192 khẩu bằng 592 hộ có 5 dân tộc anh em chung sống tại
13 xóm, bản. Dân tộc Mông chiếm 96,22%. Tỷ lệ hộ đói, nghèo còn cao là: 71,79% .
Do địa bàn vùng cao núi đá, núi non hùng vĩ, địa bàn hiểm trở có độ cao là 1.500
m so với mực nước biển, có sông Nho Quế chảy qua và các khe suối lớn nhỏ cung cấp
nguồn nước phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư.
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa phân biệt 2 mùa rõ rệt mùa đông và mùa hè.


Mùa đông mưa phùn, sương mù có sương muối và khan hiếm nước nghiêm trọng, cây
trồng chủ yếu của nhân dân trong xã là ngô, lúa một vụ vào mùa mưa và chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Do đặc điểm tình hình như trên nên đã ảnh hưởng đến sản xuất của nhân
dân.
Để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân xã
Phượng phùng cần phát huy những tiềm năng sẵn có và sử dụng chúng một cách có hiệu
quả. Trước hết là phải khai thác thế mạnh về sản xuất nông, lâm nghiệp. Trên cơ sở đó


từng bước phát triển các ngành kinh tế khác. Phương án tối ư để phát triển kinh tế xã hội
là phải đầu tư theo chiều sâu, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, sử dụng đất một cách hợp lý,
tiết kiệm vốn, có hiệu quả cao, đồng thời đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào
thực tiễn sản xuất.
Muốn vậy, xã cần phải có các giải pháp phát triển kinh tế hộ nông dân một cách
hợp lý, tạo điều kiện cho các nông hộ chuyển từ tự túc, tự cấp lên sản xuất gắn với thị trường. Xuất phát từ thực tiễn sản xuất đó, em đã lựa chọn đề tài:
“Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hộ nông dân ở xã Thượng Phùng huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang "
Mục đích nghiên cứu: Hệ thống hoá cơ sở lý luận chung về kinh tế hộ nông dân.
Phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất của các nông hộ ở xã Thượng Phùng - huyện Mèo
Vạc - tỉnh Hà Giang. Rút ra những mặt đã đạt được, những hạn chế và những vấn đề đặt
ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm, phương hướng mục tiêu và các
giải pháp chủ yếu nhằm tìm ra một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển
kinh tế hộ nông dân ở xã Thượng Phùng - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài : Đề tài tập trung nghiên cứu kinh tế hộ nông dân
xã Thượng Phùng - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang trong quá trình phát triển kinh tế hộ
gia đình ở xã Thượng Phùng - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu dựa vào các phương pháp phổ biến
như: phương pháp điều tra, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp dự báo...

chương I: cơ sở lý luận chung về phát triển kinh tế hộ nông dân


I. Vai trò và tính tất yếu của kinh tế hộ gia đình
1. Khái niệm và các đặc trưng của kinh tế hộ gia đình
1.1. Khái niệm về kinh tế hộ
Nông hộ (hộ gia đình nông dân) là tế bào kinh tế xã hội được hình thành trên cơ sở
các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục tập quán truyền thống, tâm lý đạo đức
và các quan hệ kinh tế. Hộ là hình thức phổ biến nhất, là tế bào kinh tế xã hội trong nông


thôn Việt Nam. Gia đình là cơ sở của hộ nói chung. Gia đình - một loại hình hộ chứa
đựng các yếu tố để hình thành những loại hình hộ mở rộng khác.
Về phương diện thống kê, Liên Hợp Quốc cho rằng :" Hộ là những người cùng sống
chung dưới mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ ".
Xét theo lĩnh vực sản xuất: Kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của nền nông
nghiệp hàng hoá. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các nông hộ được tiến hành trên cơ
sở một hoặc một số người lao động tự đầu tư theo khả năng về vốn để trang bị các tư liệu
sản xuất cần thiết nhằm sản xuất ra sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ đảm bảo cho sự
sinh tồn của hộ và đáp ứng nhu cầu thị trường.
1.2. Các đặc trưng của kinh tế hộ gia đình
Đặc trưng bao trùm của kinh tế nông hộ là các thành viên trong gia đình làm việc
một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích kinh tế của bản thân và gia đình mình. Nhìn chung
là kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc hoặc sản xuất hàng hoá nhỏ với năng
suất lao động thấp, nhưng lại có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển sản xuất
nông nghiệp ở các nước đang phát triển nói chung và ở nước ta nói riêng.
Với những đặc trưng trên, tuỳ theo tình hình và điều kiện cụ thể của từng nước,
từng vùng, từng loại hộ mà hình thành những đặc trưng cụ thể đa dạng về hình thức quản
lý, về ruộng đất, quy mô, về vốn tài sản, lao động. Sau đây, chúng ta sẽ xem xét những
đặc trưng cụ thể :
1.2.1. Hình thức quản lý của nông hộ, nông trại ở các nước trên thế giới
- Phần lớn do mỗi gia đình trực tiếp quản lý. Người chủ hộ đồng thời là người chủ

gia đình cùng tham gia lao động với các thành viên trong gia đình. Có trường hợp thì
giao cho một thành viên trong gia đình có năng lực và uy tín quản lý hoặc thuê người
quản lý. Mỗi hộ, nông trại là một đơn vị (kinh tế ) kinh doanh tự chủ .
- Hình thức liên doanh với các nông hộ, nông trại hoặc các đơn vị kinh doanh khác
thành một đơn vị thống nhất có tư cách pháp nhân. Đối tượng liên doanh này thường là
anh em, bà con họ hàng thân thuộc. Việc liên doanh này nhằm mở rộng sản xuất, tăng
thêm tiềm lực kinh tế .
1.2.2. Ruộng đất
Như ở nhiều nước tư bản phát triển, ruộng đất do các nông hộ, nông trại sử dụng
thường thuộc sở hữu tư nhân. Chủ nông hộ, nông trại vừa là người sử dụng ruộng đất vừa


là người sở hữu ruộng đất. Một số khác có thể thuê một phần hoặc hoàn toàn ruộng đất để
sử dụng, một số lại vừa có ruộng đất riêng lại vừa có ruộng đất thuê của người khác hoặc
cho người khác thuê, một số nữa không có ruộng đất phải lĩnh canh. Riêng đối với Việt
Nam thì ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước. Các nông hộ được giao quyền sử dụng ruộng
đất lâu dài tuỳ theo từng loại đất trồng cây hàng năm hay cây lâu năm .
1.2.3. Cơ cấu sản xuất của các nông hộ, nông trại
Mỗi nhà đều có các loại hình phát triển kinh tế hộ riêng: Có loại nông hộ sản xuất
mang tính chất độc canh, nặng về cây lương thực mà chủ yếu là cây ngô, lúa. Có loại
nông hộ vừa trồng trọt, chăn nuôi vừa có ngành nghề. Có hộ chuyên làm nông nghiệp,
lâm nghiệp hoặc thuỷ sản kết hợp với chế biến và một số ngành nghề khác. Điều đó phụ
thuộc vào điều kiện tư nhiên, kinh tế của từng vùng, từng nông hộ. Trong nông hộ có
ngành sản xuất hoạt động thường xuyên quanh năm, nhưng cũng có ngành sản xuất vào
lúc nông nhàn.
Cơ cấu sản xuất đó đã ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của từng loại hộ. Có hộ thu
nhập chủ yếu từ nông nghiệp, nhưng cũng có hộ thu nhập chủ yếu từ ngoài nông nghiệp.
Có hộ thu nhập từ kinh doanh các ngành nghề, làm thuê cho các nơi khác. Thông thường
những hộ có nhiều ruộng đất thì thu nhập từ nông nghiệp là chủ yếu, ngược lại những hộ
ít ruộng đất thì thu nhập từ các ngành phi nông nghiệp là chủ yếu.

1.2.4.Vốn và tài sản của nông hộ, nông trại
Nhìn chung các hộ đều sử dụng số vốn tự có để phát triển sản xuất và bảo đảm đời
sống. Nhưng tuỳ theo điều kiện và quy mô từng hộ mà số vốn của các hộ có khác nhau.
Các hộ trung bình và nghèo thường ít vốn và thiếu vốn. Các hộ khá và giàu cũng thiếu
vốn để mở rộng sản xuất. Nhìn chung các hộ đều thiếu vốn sản xuất nhưng ở mức độ
khác nhau. Nhiều hộ có nhu cầu vay vốn nhưng tuỳ theo điều kiện từng nước và từng loại
hộ mà nhà nước cho vay nhiều hay ít. ở các nước đang phát triển việc Nhà nước cho các
hộ nông dân vay vốn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế và
xã hội ở nông thôn. Hiện nay ở nước ta nhà nước đã có chính sách cho vay vốn với lãi
suất ưu đãi để phát triển kinh tế gia đình.
Về tư liệu sản xuất: nhìn chung các nông hộ đã mua sắm được các nông cụ thông
thường. Còn các hộ có điều kiện thì mua sắm được một số máy móc thông dụng ít tiền,
còn máy móc hiện đại đắt tiền thì hộ phải thuê của các tổ chức dịch vụ kỹ thuật. Một số


nông trại lớn tự mua sắm được máy móc đắt tiền. Một số nông trại khá và trên trung bình
góp vốn mua một ít may móc để dùng chung hoặc cho thuê theo các hình thức dịch vụ kỹ
thuật. Còn ở Việt Nam, nhiều nông hộ trung bình khá có nông cụ và trâu bò riêng, một số
nông hộ giàu có máy móc riêng làm cho mình và kết hợp làm thuê cho các hộ khác.
Ngoài những tài sản riêng của các hộ, trong các vùng đều có những tài sản công cộng như
hệ thống thuỷ nông, trạm điện thế do các tổ chức dịch vụ phụ trách làm dịch vụ cho các
nông hộ trong vùng.
1.2.5. Lao động trong các nông hộ, nông trại
ở các nước lao động chủ yếu là do các thành viên trong nông hộ, nông trại làm.
Những nông trại lớn có thể thuê lao động ngoài, nhưng lực lượng chủ yếu vẫn là các
thành viên trong gia đình hoặc bà con họ hàng. Còn ở Việt Nam trong các nông hộ các
thành viên trong gia đình thường làm đủ loại các công việc (trồng trọt, chăn nuôi, nghề
phụ) do sự phân công hàng ngày của bố hoặc mẹ. Một số nông hộ giàu có nhiều đất đai,
nhiều ngành nghề có thêm một số lao động thời vụ có kỹ thuật hoặc thuê lao động thường
xuyên.

2. Vai trò của kinh tế hộ trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá
Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông nghiệp
và nông thôn. Các thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng
quan hệ hôn nhân và dòng máu dựa trên cơ sở huyết thống, ngoài ra còn do truyền thống
qua nhiều đời, do phong tục tập quán, tâm lý đạo đức gia đình, dòng họ. Về kinh tế, các
thành viên trong nông hộ gắn bó với nhau trên các mặt quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý
và quan hệ phân phối mà cốt lõi của nó là quan hệ kinh tế.
Các thành viên trong nông hộ có cùng mục đích và cùng lợi ích chung là làm cho hộ
mình ngày càng phát triển ngày càng giàu có. Lợi ích kinh tế là động lực tác động mạnh
mẽ đến sản xuất kinh doanh của hộ. Các thành viên trong hộ có cùng lao động, gần gũi
nhau, hiểu biết nhau về khả năng, trình độ, tình hình và hoàn cảnh, tạo điều kiện thuận lợi
cho phân công và hiệp tác lao động một cách hợp lý.
Mỗi nông hộ đều có tài sản như ruộng đất, trâu bò, nông cụ...Các thành viên trong
nông hộ đã quen sử dụng nên hiểu được đặc tích của các tài sản. Họ sử dụng các tài sản
có hiệu quả, chăm sóc bảo quản các tài sản để có thể sử dụng lâu dài.


Trong kinh tế nông hộ, quan hệ giữa người quản lý sản xuất và người trực tiếp sản
xuất có sự thống nhất với nhau. Người chủ nông hộ là người quản lý sản xuất đồng thời
cũng là người trực tiếp sản xuất. Giữa người quản lý sản xuất và người trực tiếp sản xuất
của nông hộ gắn bó chặt chẽ với nhau cho nên các thông tin được sử lý nhanh chóng kịp
thời, quyết định quản lý sản xuất đúng đắn và có sức thuyết phục cao.
Trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đang diễn ra mạnh mẽ sẽ tác động tới
cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và các hoạt động kinh tế của hộ sẽ có những thay
đổi đáng kể. Quá trình này sẽ giảm nhẹ nặng nhọc lao động do sự phát triển của hệ thống
máy móc thiết bị hiện đại, nhưng điều hành công việc của toàn bộ hệ thống sản xuất là do
con người. Trên ý nghĩa đó, vai trò của họ sẽ không bị lu mờ trong quá trình CNH và vai
trò tạo nguồn lao động của hộ là không thể thay thế được.
Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước thì

kinh tế hộ càng có vai trò quan trọng. Cụ thể là:
2.1. Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội
Trên quy mô hộ để tạo cơ sở cho việc chuyển từ kinh tế tự cấp, tự túc sang kinh tế
hàng hoá. Kết quả ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nghề
trong nông thôn, nâng cao thu nhập của người dân.
Theo điều đề tài KX 0804 cho ta thấy mối quan hệ giữa đầu tư và thu nhập của các
nhóm hộ gia đình như sau:
Mức thu nhập chung của nông hộ dao động trong khoảng 68-94 ngàn đồng/tháng.
Để có thu nhập ấy cần có số vốn nhất định được lấy mốc là 100% thì các hộ thuần nông
để có thu nhập 54-75 ngàn đồng/người /tháng thì cần số vốn khoảng 80%, hộ kiêm ngành
nghề để có mức thu nhập 95-132 ngàn đồng/người/tháng thì cần số vốn là 125%, hộ kinh
doanh ngành nghề để có mức thu nhập cho các thành viên trong gia đình từ 140-150 ngàn
đồng/người/tháng cần mức vốn là 300%, hộ buôn bán để có mức thu nhập cao từ 150450 ngàn đồng/người/tháng cần có mức vốn bằng 400% mức vốn bình quân chung của
các hộ nông dân.
2.2. Kinh tế nông hộ tạo công ăn việc làm cho người lao động
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã và đang có nhiều chủ trương chính
sách khuyến khích nông dân làm giàu chính đáng bằng sự kết hợp lao động trí tuệ của họ


với đất đai một cách hài hoà. Hiện nay trong nông nghiệp và nông thôn nước ta có
khoảng trên 11 triệu hộ gia đình làm nông nghiệp. Dưới tác động mạnh mẽ của cơ chế thị
trường, trong nông thôn đã và đang diễn ra sự phân hoá mạnh mẽ. Các hộ gia đình làm ăn
phát đạt, có thu nhập cao, có ngành nghề phụ, cùng với các điều kiện sản xuất khá ngày
càng được khuyến khích phát triển. Trong quá trình kinh doanh (sản xuất) của mình, các
loại hộ gia đình này sẽ thu hút được một phần lao động tại chỗ đang dư thừa. Theo số liệu
điều tra hiện nay nước ta có khoảng trên 1 triệu hộ kinh tế cá thể với quy mô vốn từ 2030 triệu đồng và có số lao động từ 2-5 lao động thậm chí có thời điểm lên tới 20-30 lao
động làm thuê. Đây là một loại hình tổ hợp sản xuất nhỏ phù hợp với quy mô trình độ
quản lý có số vốn hợp lý, có thể thành lập và giải thể nhanh, thời gian thu hồi vốn nhanh
và có khả năng giải quyết việc làm cho 3-5 triệu lao động thường xuyên.
2.3. Kinh tế nông hộ tham gia vào phân công lao động xã hội theo đơn vị kinh

tế hộ gia đình
Trong nền kinh tế tự cung tự cấp, sản xuất của hộ nông dân vẫn phục vụ cho nhu
cầu tiêu dùng nội bộ, chỉ có rất ít sản phẩm dư thừa mới đem ra trao đổi. Sản xuất chủ
yếu do nhu cầu về lương thực dẫn đến nông nghiệp chưa có sự phát triển toàn diện, hiệu
quả kinh tế của việc sử dụng đất đai là rất thấp dẫn đến các ngành nghề khác không có
điều kiện phát triển. Đặc biệt trong những điều kiện sản xuất ngặt nghèo hoặc những năm
mất mùa, hộ gia đình vẫn duy trì sự cân bằng tối thiểu bằng cách hạn chế và gắng sức tìm
nguồn sống cho gia đình mình với chi phí lao động rất lớn. Sau hơn 10 năm đổi mới sản
xuất nông nghiệp nước ta đã có bước phát triển ổn định và tăng trưởng khá: giá trị sản
xuất tăng bình quân 4,3%, sản lượng lương thực tăng 5% từ 19,8 triệu tấn năm 1988 lên
31,8 triệu tấn năm 1998; 33,8 triệu tấn năm 1999 và 38 triệu tấn năm 2000. Cùng với tốc
độ tăng dân số cao dẫn đến bình quân diện tích canh tác trên một lao động giảm: trong 12
năm từ 1985-1997, diện tích đất đai đã tăng lên khoảng 1.145.500 ha nghĩa là tăng
khoảng 117,64%. Trong khi đó dân số nông nghiệp tăng lên 10.731,2 ngàn người tức là
126,02% và lao động tăng 10.617,3 ngàn người bằng 156,4% có nghĩa là mức tăng dân
số và lao động nhanh hơn mức tăng diện tích đất đai đã làm cho diện tích tính trên đầu
người và lao động giảm xuống. Tương tự năm 1997 so với năm 1985 mỗi nhân khẩu
giảm đi 20% đất đai và mỗi lao động giảm đi 25%. Bình quân một nhân khẩu nông
nghiệp giảm 327,6 m2 và một lao động giảm 856,1 m2 đất nông nghiệp.


Với những điều kiện như vậy, việc phát triển các ngành nghề truyền thống, xu
hướng đi tìm việc ở nơi khác sẽ xảy ra sự phân công lao động trong nông thôn. Điều này
dẫn tới diện tích canh tác trên đầu người tăng, năng suất lao động tăng, hiệu quả kinh tế
có khả năng cao hơn.
2.4. Phát triển kinh tế nông hộ góp phần đổi mới kỹ thuật sản xuất
Khi chuyển sang cơ chế thị trường, với tư cách là một đơn vị kinh tế tự chủ thì việc
đầu tư cho đổi mới trang thiết bị là một đòi hỏi tất yếu. Nguyên nhân chính là do có sự
cạnh tranh giữa những người sản xuất với nhau, dẫn đến việc giảm chi phí, giảm giá
thành sản phẩm mới có thể tồn tại được. Nhờ kết hợp kinh nghiệm truyền thống và kỹ

thuật hiện đại mà sản phẩm của hộ sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, chất lượng chủng
loại tốt hơn, đa dạng hơn với giá cả thấp nhằm mang lại thu nhập nhiều hơn và tăng
cường khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản vốn nhiều biến động.
Với tính cần cù và nhanh nhạy của người dân việc chuyển giao công nghệ mới đến
từng hộ có thể được thực hiện một cách nhanh chóng và có hiệu quả, điều này cần lưu ý
đến vấn đề nâng cao trình độ dân trí nông thôn. ở đây diễn ra một sự kết hợp hài hoà giữa
kỹ thuật thủ công và hiện đại, giữa cơ khí hoá và sản xuất thủ công đặc biệt trong lĩnh
vực sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản. Sản xuất hàng hoá của hộ có thể sớm áp
dụng những thành tựu tiên tiến của công nghệ sinh học hiện đại vào sản xuất và chế biến
làm cho giá trị kinh tế của sản phẩm hàng hoá ngày càng cao hơn.
3. Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại kinh tế hộ nông dân
Lịch sử phát triển nông nghiệp của nhân loại đã chứng minh rằng: Sự tồn tại và phát
triển của kinh tế hộ là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật sản xuất nông
nghiệp. Thật vậy, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm không giống với sản xuất
công nghiệp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật (thực vật, động vật). Do yêu
cầu ngặt nghèo của quy luật sinh học đối với cây trồng, vật nuôi mà đòi hỏi nhà nông
phải điều chỉnh hành vi của họ từng ngày từng giờ, đòi hỏi sự chăm sóc cần mẫn với tình
cảm thực sự của người lao động. Những công việc của người nông dân trong các công
đoạn của quy trình sản xuất như: làm đất, gieo trồng, bón phân, chăm sóc, thu
hoạch...không thể kiểm tra đo đạc và đánh giá được. Do vậy, sản xuất nông nghiệp chỉ
thích hợp với trách nhiệm, chất lượng của lao động gia đình, phù hợp với kiểu sản xuất
của hộ gia đình. Như vậy tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã quyết định sự tồn tại


khách quan của kinh tế nông hộ, với tư cách là đơn vị kinh tế độc lập trong mối liên hệ
với các loại hình sản xuất khác.
ở nước ta, kinh tế nông hộ tồn tại qua nhiều gia đoạn lịch sử và có một vai trò rất
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội nông thôn. Sản xuất nông nghiệp có tính đa
dạng, phân tán, sự phức tạp của nó phù hợp với sản xuất của hộ nông dân hơn bất kỳ hình
thức tổ chức sản xuất nào khác. Mặt khác, trong quá trình phát triển của lực lượng sản

xuất xã hội trong lĩnh vực nông nghiệp thì công cụ lao động ngày càng được hiện đại hoá.
Sự thay đổi này chỉ nhằm trợ giúp cho các quá trình sản xuất chứ không làm thay đổi bản
chất của quá trình biến đổi với mục đích nhằm khai thác tốt hơn các điều kiện tự nhiên
phục vụ con người. Hơn nữa, đối tượng của sản xuất nông nghiệp là sinh vật, kết quả sản
xuất là các sản phẩm đòi hỏi quá trình sản xuất liên tục, không thể phân chia các bán
thành phẩm. Vì vậy, quá trình sản xuất từ đầu đến cuối tốt nhất là do người nông dân đảm
nhận. Chính vì vậy việc khai thác tiềm năng kinh tế nông hộ được Đảng và Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đồng thời đây là một trong những yêu cầu cấp bách trong chiến lược
phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta.

II. Sơ lược tình hình phát triển nông hộ ở nước ta và những chủ trương đường
lối phát triển kinh tế hộ nông dân của Đảng và Nhà nước ta
Sau cải cách ruộng đất (1953), hàng triệu hộ nông dân được cấp ruộng đất, được
thoát khỏi chế độ cày thuê cuốc mướn. Đa số hộ nông dân đều có ruộng và trực tiếp tiến
hành sản xuất kinh doanh. Sức sản xuất của nền kinh tế tiểu nông được giải phóng khỏi
những bó buộc của các quan hệ phong kiến đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự phát triển
sản xuất. Từ năm 1954 đến năm 1959, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp miền Bắc tăng
35% (bình quân mỗi năm tăng 7%). Năm 1959 sản lượng lương thực quy thóc toàn miền
Bắc đạt 5,6 triệu tấn. Đó là con số kỷ lục mà từ trước và cả hàng chục năm sau (19611971) chưa năm nào đạt được.
Cuộc cải cách ruộng đất (1953-1957) thực sự đã đem lại niềm phấn khởi, tin tưởng
cho hàng triệu hộ nông dân và mở ra thời kỳ mới cho công cuộc xây dựng kinh tế. Tuy
vậy, chỉ một năm sau khi cuộc cải cách ruộng đất kết thúc, từ năm 1958 chúng ta tiến


hành cuộc vận động đưa nông dân vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp. Với tư tưởng
nôn nóng thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, đưa nông dân vào làm
ăn tập thể, tạo tiền đề xây dựng nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, bằng
những áp lực về mặt chính trị xã hội đôi khi có tác dụng cưỡng chế, đến cuối năm 1960
hơn 84% tổng số nông hộ đã tham gia vào các hợp tác xã nông nghiệp và miền Bắc nước
ta đã "căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp". Cũng bắt đầu từ

đó, môi trường kinh doanh của các hộ đã có sự thay đổi căn bản. Các quan hệ mua bán,
trao đổi ruộng đất bị cấm đoán, chỉ có 5% diện tích canh tác được dành lại cho các hộ
làm "kinh tế phụ gia đình". Sản xuất nông nghiệp được tổ chức chủ yếu theo các hợp tác
xã và các nông- lâm trường với cơ chế tập chung, kế hoạch hoá trực tiếp và toàn diện. Hộ
nông dân đã hình thành hai loại: Một số ít là các hộ nông dân cá thể, số này ngày càng
giảm dần. Đại đa số là các hộ gia đình xã viên (trong các nông- lâm trường là các hộ gia
đình công nhân viên). Những thiếu sót trong quá trình hợp tác hoá nông nghiệp và sự yếu
kém trong tổ chức quản lý các hợp tác xã, nông - lâm trường cùng với việc thực hiện cơ
chế quản lý tập trung, kế hoạch hoá trực tiếp kéo dài đã làm cho các nông hộ mất hết
quyền tự chủ. Chức năng kinh tế, vai trò tổ chức sản xuất của các nông hộ bị giới hạn
trong khuôn khổ chật hẹp của kinh tế phụ gia đình. Kinh tế hợp tác xã bị đình đốn, quốc
doanh thì thua lỗ. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết quan
trọng, nhiều cuộc vận động lớn nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp nhưng vẫn không
sao thoát ra khỏi tình trạng trì trệ kéo dài mà hơn thế chỉ làm gay gắt thêm những mâu
thuẫn vốn có của nền nông nghiệp tập thể hoá, đẩy nông nghiệp nước ta tới chỗ khủng
hoảng toàn diện. Sản lượng lương thực toàn miền Bắc hàng chục năm chỉ xoay quanh
5,5 triệu tấn; đàn trâu, đàn lợn sau 20 năm có gia tăng được chút ít; còn đàn bò thì giảm
nhiều trong khi chất lượng đàn gia súc không có gì chuyển biến đáng kể...
Trước những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn đặt ra, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư
(1/1981- còn gọi là khoán 100) ra đời đã khẳng định một cách làm mà lâu nay nhiều địa
phương ngấm ngầm thực hiện dưới hình thức "Khoán chui". Đó là việc khoán sản phẩm
đến nhóm và người lao động. Khoán 100 như là một phương thuốc đặc trị bệnh chán nản,
không quan tâm tới công việc đồng áng của tập thể người lao động, nó bắt nguồn từ chế
độ ngày công lao động, tình trạng quản lý lỏng lẻo, tham ô lãng phí...trong các hợp tác
xã. Khoán 100 được xã viên hưởng ứng ở khắp nơi. Người ta bắt đầu quan tâm tới ruộng


đất, đến việc tiết kiệm vật tư tài sản trên cánh đồng hợp tác, đầu tư thêm lao động, tiền
vốn trên mỗi mảnh ruộng khoán nhằm có mức vượt khoán cao hơn. Chưa bao giờ trong
suốt 20 năm tiến hành hợp tác hoá, tập thể hoá, phong trào lao động sản xuất của các hộ

nông dân lại sôi động và khẩn trương đến như vậy. Chỉ sau một thời gian ngắn đã không
còn tình trạng ruộng đồng bị bỏ hoang hoá. Nhịp độ phát triển sản xuất nông nghiệp, mức
thu nhập của các hộ nông dân tăng nhanh, bộ mặt nông thôn chuyển biến đáng khích lệ.
So với năm 1980, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp năm 1985 tăng 33% (bình quân tăng
6,6%/năm ). Sản lượng lương thực bình quân 1976-1980 đạt 13,5 triệu tấn; từ 1981-1985
đạt 17,01 triệu tấn. Tương tự, năng suất lúa bình quân từ 20,2 tạ /ha đã tăng lên 25,8 tạ
/ha. Nhịp độ tăng trưởng sản lượng lương thực hàng năm từ 1,6% lên 5,5% (riêng lúa từ
0,35% lên 6,7% năm). Bình quân lương thực đầu người từ 268 kg năm 1980 tăng lên 304
kg năm 1985. Đáng chú ý là điều kiện kinh doanh của các hộ đã được cải thiện một bước.
Ngoài việc mở rộng quyền tự chủ trên những ruộng khoán, các hộ đã từng bước được
trang bị thêm những tư liệu sản xuất thiết yếu như trâu bò, nông cụ...
Trên cơ sở đó, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai và các chỉ
thị, Nghị quyết của các Đại hội và Hội nghị TW các khoá: VI và VII, VIII, IX về đổi mới
quản lý nông nghiệp ra đời với nhiều nội dung quan trọng trong đó có hai nội dung rất
quan trọng là khẳng định quyền tự chủ kinh doanh của các nông hộ và chủ trương giao
quyền sử dụng ruộng đất ổn định cho các nông hộ. Cùng với một loạt các biện pháp khác
như xoá bỏ chế độ thu mua lương thực, thực phẩm theo nghĩa vụ, mở rộng trao đổi hàng
hoá, tổ chức lại các hợp tác xã nông nghiệp và chuyển hướng kinh doanh cho phù
hợp...Nghị quyết 10 - Bộ Chính trị như một luồng gió mới đầy sinh khí thổi vào nông
nghiệp và nông thôn Việt Nam. Kinh tế nông hộ và nền nông nghiệp chuyển sang một
trang mới đầy triển vọng .
Ngay từ giữa năm 1988 và đặc biệt từ năm 1991 đến nay, việc thực hiện chủ trương
cấp giấy chứng nhập quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ nông dân, mở rộng cho vay tới
các nông hộ, thực hiện cuộc vận động "Xoá đói giảm nghèo" trên diện rộng ... đã tăng
thêm niềm tin tưởng, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho kinh tế hộ. Sản xuất nông
nghiệp ổn định, kinh tế nông dân và bộ mặt nông thôn thay da đổi sắc. Trong các chính
sách về ruộng đất một số vấn đề cơ bản được quan tâm đó là :


- Chỉ thị 47/CT-TƯ ngày 31-8-1988 của Bộ Chính trị về việc giải quyết một số vấn

đề cấp bách về ruộng đất .
- Nghị định 30/HĐBT ngày 23-3-1989 của Hội đồng Bộ Trưởng về việc thi hành
Luật Đất đai và Chỉ thị 67/CT cùng ngày của Chủ tịch HĐBT về một số việc làm tiếp tục
triển khai để thi hành Luật Đất đai .
- Quyết định 201/QĐ-ĐKTK ngày 14-7-1989 của Tổng cục Quản lý ruộng đất về
việc ban hành quy định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Thông tư 302/TTĐKTK ra ngày 28-10-1989 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai.
Điều đặc biệt chú ý trong giai đoạn này là Quyết định 327/CT ngày 15-9-1992 của
Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi
núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước, và sau này trở thành chương trình quốc gia
và đã có một ý nghĩ lớn trong việc khai thác, sử dụng đất đai chưa được sử dụng vào mục
đích sản xuất nông, lâm nghiệp .
Luật Đất đai năm 2003 ra đời trên cơ sở Luật Đất đai năm 1987 và 1993 . Luật Đất
đai 2003 đã được bổ sung sửa đổi hoàn chỉnh hơn đặc biệt là quy định rõ quyền và nghĩa
vụ của người sử dụng đất. So với Luật Đất đai năm 1987 và 1993 , Luật Đất đai 2003
quy định rõ hơn và nới rộng hơn, thể hiện rõ việc quản lý đất đai không chỉ về mặt pháp
lý hành chính, mà cả về mặt pháp lý kinh tế. Đó là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, thừa kế và thế chấp, quyền sử dụng đất trong thời hạn giao đất đúng mục đích
sử dụng đất được giao .
Từ khi ban hành Luật Đất đai đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản dưới
luật và các thông tư hướng dẫn của các bộ ban ngành quy định về việc giao đất lâm
nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất
lâm nghiệp.
Nhằm thức đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
theo hướng sản xuất hàng hoá thì việc giải quyết các nhu cầu về vốn cho hộ nông dân là
điều hết sức cấp bách bởi nhu cầu về vốn sản xuất của hộ và cũng bởi chính những khó
khăn vướng mắc còn tồn tại trong quá trình giải ngân nguồn vốn đến với nông hộ.
Trong những năm trước đây, Chính phủ đã có những văn bản chủ yếu nhằm tạo
thuận lợi cho các hộ nông dân có thể tiếp cận các nguồn vốn vay tín dụng để phát triển
sản xuất như: Chỉ thị số 202/CT ngày 26-6-1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về



việc cho vay vốn sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đến các hộ sản xuất; Nghị định số
14/CP ngày 2-3-1993 quy định về chính sách cho hộ vay vốn để phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp và kinh tế nông thôn...Gần đây nhất là chương trình cho vay đóng tàu đánh
bắt hải sản xa bờ với lãi xuất ưu đãi đã được thực hiện nhằm tạo năng lực khai thác hải
sản và bảo vệ vùng lãnh hải nước ta; tiếp đến là chủ trương cho các hộ vay dưới 10 triệu
đồng mà không phải thế chấp.
Để phục vụ cho chương trình xoá đói giảm nghèo, ngày 31-8-1995, Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 525/TTg về thành lập Ngân hàng phục vụ người nghèo và
Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ra Quyết định số 54/QĐ ngày 14-3-1996 về điều lệ
hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo. Mặc dù còn bộc lộ nhiều vấn đề bất cập
nhưng tất cả các chính sách tín dụng trên đã và đang góp phần giúp nông dân giảm khó
khăn về vốn, tạo điều kiện tốt hơn cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, sau 20 năm đổi mới kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta đã thực sự
chuyển mình với sự phát triển ổn định và tăng trưởng khá, mang lại những thành công
rực rỡ - từ nước phải nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lương thực lần đầu
tiên vào năm 1989 và vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới sau
Thái Lan - đời sống nông dân dần dần được cải thiện, sản xuất không ngừng phát triển
cùng với đó kinh tế hộ gia đình ngày một khẳng định vai trò tự chủ, quan trọng của mình.
Điều này một lần nữa đã khẳng định vững chắc đúng đắn những đường lối chủ trương
phát triển kinh tế nông hộ của Đảng và Nhà nước ta.
III. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân
1. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân trên thế giới
1.1. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở các nước Tây Âu- Mỹ
Các nước Tây Âu - Mỹ là những nước phát triển. Vì vậy, dân số và lao động trong
lĩnh vực nông nghiệp rất ít nhưng quy mô các trang trại lớn. ở các nước này thời kỳ đầu
của Chủ nghĩa tư bản quá trình phát triển nông nghiệp cũng diễn ra tương tự như trong
công nghiệp: hình thành các xí nghiệp nông nghiệp lớn với nhiều lao động làm thuê. Vì
vậy, trong thời gian này đã có chủ trương thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung ruộng đất,
xây dựng các xí nghiệp nông nghiệp với quy mô lớn, làm phá sản các trang trại gia đình

phân tán với hy vọng các mô hình mới này sẽ tạo ra nhiều nông sản tập trung với giá rẻ
hơn các sản phẩm của các gia đình phân tán sản xuất ra. Tuy nhiên do đặc điểm của sản


xuất nông nghiệp khác với công nghiệp do vậy mà những mô hình trên không phù hợp,
hiệu quả sản xuất của các xí nghiệp nông nghiệp tư bản quy mô lớn thấp hơn hiệu quả
sản xuất của các trang trại gia đình quy mô nhỏ. Trong khi đó trang trại hình thành và
phát triển đã phá vỡ vỏ bọc sản xuất tự cấp tự túc đưa nông nghiệp chuyển sang sản xuất
hàng hoá. Chính sự ra đời và phát triển của kinh tế trang trại đã khẳng định đây là hình
thức sản xuất có hiệu quả nhất trong nông nghiệp. Nhưng nông nghiệp ở các nước này
không chỉ dừng lại ở các trang trại độc lập mà tiến tới sự liên kết hợp tác giữa các trang
trại để hình thành các hiệp hội sản xuất. Quá trình đó không làm mất đi tính tự chủ độc
lập của các trang trại. Nhờ quá trình phát triển hợp với quy luật khách quan mà kinh tế
trang trại nhiều nước này ngày càng lớn mạnh.
1.2. Xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở một số nước châu á
Đối với các quốc gia đang phát triển do trình độ Công nghiệp hoá còn thấp, phần
lớn dân số và lực lượng lao động sống ở nông thôn nên bình quân ruộng đất canh tác trên
đầu người càng nhỏ đi. Do vậy xu hướng tập trung quy mô đất đai để hình thành nên các
trang trại mà trước hết là trang trại gia đình với quy mô nhỏ cũng gặp rất nhiều khó khăn.
Ngoài ra, một số quốc gia còn có những quy định hạn chế việc mua bán ruộng đất ở nông
thôn, các chính sách hạn điền cũng làm cản trở quá trình tập trung hoá ruộng đất để hình
thành nên các trang trại theo hướng sản xuất hàng hoá. Mặc dù diễn ra chậm chạp nhưng
xu hướng phát triển kinh tế hộ nông dân ở các nước này là tăng quy mô tập trung hoá
ruộng đất để hình thành nên các trang trại gia đình.
Đối với các nước kém phát triển do trình độ công nghiệp hoá rất thấp, dân số và lực
lượng lao động xã hội hầu hết tập trung ở nông thôn (70-85%) nên ruộng đất canh tác
bình quân đầu người vốn đã nhỏ nay lại càng nhỏ bé hơn. Thêm vào đó, tốc độ gia tăng
dân số ở các nước này thường rất cao (trên 2%..) cộng thêm sự phát triển yếu kém của
các ngành công nghiệp, dịch vụ nên phần lớn các đô thị, thành phố không đáp ứng được
các nhu cầu về lao động việc làm cho những người thất nghiệp ở nông thôn ra. Vì vậy,

hình thức trang trại ở các nước này thường rất ít và quy mô nhỏ bé phương thức kinh
doanh lạc hậu. Quá trình tập trung hoá ruộng đất còn gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên
nhân chủ yếu là do dân số và lao động ở nông thôn còn quá đông, sự dịch chuyển từ nông
thôn sang các ngành khác còn chậm chạp, ruộng đất thì phân tán manh mún. Do vậy, ở


các nước này hình thức kinh tế hộ nông dân tồn tại phổ biến và có xu hướng chung là
chuyển dần từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá gắn với thị trường.
Nhìn chung ở các nước thuộc khu vực Châu á thì phương thức canh tác chủ yếu
hiện nay trong sản xuất nông nghiệp là phương pháp truyền thống gắn liền với tiến bộ
công nghệ sinh học. Do vậy, quá trình phát triển kinh tế trang trại ở các nước này rất
được chú trọng và được gắn chặt với chương trình phát triển nông thôn tổng hợp.
2. Xu hướng phát triển của kinh tế nông hộ nước ta.
Việc phân loại kinh tế nông hộ có ý nghĩa cho phép chúng ta tìm xu hướng phát
triển riêng của từng loại. Các xu hướng phát triển này có mối liên hệ với nhau trong các
điều kiện quy định cụ thể của nền kinh tế nước ta và thế giới cấu thành xu hướng phát
triển chung của kinh tế nông hộ. Điều này có nghĩa là, xem xét xu hướng phát triển của
từng loại hộ là xem xét các khuynh hướng vận động tạo nên xu hướng phát triển chung.
Đứng trên giác độ kinh tế hàng hoá theo các tác giả Chu Văn Vũ – Lê Duy HiếuNguyễn Đức Thịnh (Trong cuốn: “Kinh Tế hộ nông dân”- Viện kinh tế học- Nhà xuất
bản Quốc gia) có thể chia nông hộ nước ta thành 3 loại:
- Loại A: Bao gồm tất cả các hộ sản xuất không đủ tiêu dùng, không có khả năng tái
sản xuất giản đơn. Và hơn thế nữa quá trình tích luỹ sự thiếu hụt ngày càng gia tăng. Số
hộ này cho đến nay còn chiếm trên 40% tổng số nông hộ cả nước.
- Loại B : Bao gồm tất cả những hộ sản xuất chỉ đủ tiêu dùng. Họ không có hay chỉ
có một khối lượng sản phẩm không đáng kể để bán. Số hộ này chiếm khoảng 35% tổng
số nông hộ cả nước.
- Loại C : Bao gồm tất cả các nông hộ sản xuất chủ yếu để bán tức là những nông
hộ có xu hướng sản xuất hàng hoá. Số hộ này chiếm khoảng trên 20% tổng số nông hộ
nước ta.
3. Những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông hộ ở nước ta.

Qua nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn mô hình phát triển kinh tế nông hộ,
trang trại ở các nước, đặc biệt là ở các nước phát triển công nghiệp mới, có thể rút ra một
số bài học như sau:
- Kinh tế hộ nông dân (đối với các nước chậm phát triển) và kinh tế trang trại (các
nước phát triển) là hình thức kinh tế chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp ở các nước trên
thế giới. Hình thức kinh tế này ra đời từ rất sớm và tồn tại rất lâu như một tất yếu khách


quan trong quá trình phát triển của ngành nông nghiệp. Bởi lẽ, nó là một hình thức có rất
nhiều ưu thế, sản xuất có hiệu quả hơn so với các hình thức kinh tế khác.
- Trong khu vực Châu á trên cơ sở phát triển cây lương thực (Nhất là khi vượt qua
mức an toàn lương thực) thì đều chuyển đổi cơ cấu từ nền sản xuất tự cung tự cấp sang
sản xuất hàng hoá theo định hướng thị trường với việc sản xuất các loại rau, đậu cao cấp,
cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao.
- Ruộng đất là một vấn đề rất quan trọng đối với kinh tế hộ nông dân và kinh tế
trang trại. Trong quá trình phát triển, xu hướng giảm dần số hộ làm nông nghiệp và tăng
quy mô diện tích là một tất yếu. Tuy nhiên, quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm, nhiều
hay ít tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và điều kiện cụ thể ở mỗi quốc gia.
- Các hộ nông dân đều sử dụng lao động gia đình là chính, một số thuê thêm lao
động thời vụ nhưng không nhiều. Mọi xu hướng đi ngược lại quá trình trên đây mà chỉ sử
dụng lao động làm thuê hay tập thể hoá lao động trong các nông trang, hợp tác xã đều
không có hiệu quả.
- Quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp phải gắn liền với quá trình tăng cường cơ
sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn và các hộ nông dân. Tuỳ theo điều kiện
từng nước, từng yếu tố mà có sự khác nhau.
- Kinh tế hộ, kinh tế trang trại hoạt động trong một lĩnh vực nhiều khó khăn, nhiều
rủi ro nhưng lại sản xuất ra nhiều sản phẩm sống còn và cần thiết cho xã hội. Vì vậy ở tất
cả các quốc gia, Nhà nước bao giờ cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
kinh tế hộ nông dân và trang trại. Tuy nhiên, tùy theo từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã
hội, lịch sử - tự nhiên khác nhau mà vai trò tác động của Nhà nước cũng có sự khác nhau.

Xu hướng phát triển chung của kinh tế nông hộ nước ta chứa đầy mâu thuẫn và
nghịch lý. Một mặt là chuyển sang sản xuất hàng hoá, mặt khác khó có thể thực hiện sự
chuyển hướng ấy vì sức ép quá lớn của lao động thừa, trong khi một bộ phận nông hộ
nước ta có xu hướng tích luỹ sự thiếu hụt tương đối. Do vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ
hơn nữa cho sự phát triển kinh tế nông hộ đi đúng hướng, đem lại hiệu quả kinh tế cao
nhất, tạo điều kiện cho nông nghiệp nông thôn phát triển, rút ngắn khoảng cách giữa
thành thị và nông thôn.


Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân ở xã thượng phùng - huyện
mèo vạc - tỉnh hà giang

I. Điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của xã ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế nông hộ
1. Điều kiện tự nhiên
1.1. Vị trí địa lý
Thượng phùng là xã vùng cao núi đá có đường biên giới dài 18,5 km giáp huyện
Phú Ninh - tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, cách huyện lị Mèo Vạc là 32km, có độ cao
trung bình 1.500 so với mặt nước biển .
Phía Đông giáp xã Sơn Vĩ - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang .
Phía Tây giáp xã Pải Lủng - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang.
Phía Nam giáp xã Pả Vi - huyện Mèo Vạc - tỉnh Hà Giang.
Xã Thượng Phùng chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết khí hậu
chia làm 2 mùa rõ rệt đó là mùa đông và mùa hè, nhiệt độ không khí trung bình năm 19,5
0

C, có 5 tháng có nhiệt độ trung bình dưới 100C (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau). Còn

về mùa mưa khá cao, song phân bố không đều, mưa lớn thường tập trung từ tháng 4 đến
tháng 10. Vì vậy, việc chống xói mòn, lũ quét trong mùa mưa và giữ độ ẩm trong mùa

khô là rất cần thiết. Hàng năm xã có gió mùa Đông Bắc thổi từ tháng 10 đến tháng 2 năm
sau, thường gây ra lạnh, giá rét có khi nước đóng băng, tuyết kèm theo sương muối,


sương mù và khan hiếm nước nghiêm trọng nên gây ảnh hưởng không tốt tới sản xuất và
ảnh hưởng trực tiếp đến sinh lý, sinh thái cây trồng và vật nuôi. Nhưng về mùa hè gió to
kèm theo lốc và nắng hạn nên gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất và sinh hoạt. Do vậy trong
công tác bố trí và tổ chức sản xuất cần có những biện pháp phòng trừ hữu hiệu như: trồng
rừng, đai rừng phòng hộ, bố trí hướng và che chắn đối với nhà cửa, chuồng trại tránh gia
súc, gia cầm chết trong mùa đông...
Tóm lại với điều kiện thời tiết khí hậu của xã như trên thì thích hợp cho sự phát
triển một số cây lâu năm như: Chè, xa mộc, tre. cây ăn quả như: (Đào , Lê , Mận, óc chó
...), cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày và một số loại cây trồng khác chỉ gieo
trồng được ở mùa mưa hoặc ở những nơi chủ động được nước tưới. Trong tương lai, xã
cần phải cải tạo và xây dựng đập nước cùng hệ thống kênh mương để cung cấp nước tưới
cho cây trồng, vật nuôi trong mùa khô.
1.2. Điều kiện địa hình
Thượng Phùng nằm trong cao nguyên đá của cực Bắc Tổ quốc, địa hình chủ yếu là
đồi núi đá vôi chiếm 80% diện tích. Gồm các dãy núi cao từ 1000 – 1500 m, chạy theo
hướng từ Tây sang Đông, thấp dần từ biên giới Trung Quốc – Việt Nam xuống thị trấn
Mèo Vạc . Đồi núi chia cắt mạnh có độ dốc lớn. Phía nam là sông Nho Quế có độ cao là
1200 m ngăn giữa thị trấn Mèo Vạc với xã Thượng Phùng .
Nhìn chung với địa hình trên thì xã Thượng Phùng rất thích hợp với cây ngô, lúa
nương và ruộng bậc thang và các cây trồng khác ...
1.3. Điều kiện thổ nhưỡng
Tổng hợp các tài liệu về đất đã nghiên cứu và xây dựng từ trước đến nay trên địa
bàn xã Thượng Phùng có 06 loại đất chính sau:

Biểu 01: Diện tích các loại đất của xã Thượng Phùng.
TT


loại đất



Diện tích

Cơ cấu

hiệu

(ha)

(%)

1

Đất phù sa sông suối

Py

25

0,74

2

Đất thung lũng tụt dốc

D


125

3,67

3

Đất đỏ nâu trên đá vôi

Fv

1.120

32,92

4

Đất vàng nhạt trên đá cát

Fq

1.028

30,22


5

Đất đỏ vàng trên phiến thạch sét


Fs

1006

29,57

6

Đất mùn vàng nhạt trên núi đá cao

Hp

98

2,88

3.402

100

Tổng cộng:

Nguồn: Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Mèo Vạc năm 2004
- Đất phù sa sông suối (Py):
Diện tích 25 ha, chiếm 0,74% diện tích tự nhiên. Phân bố chủ yếu dọc theo sông
Nho quế . Loại đất này thích hợp cho trồng rau, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
- Đất đỏ nâu trên đá vôi (Pv):
Diện tích 1.120 ha chiếm 32,92% diện tích tự nhiên đất có đá lộ đầu, đá lẫn ở nơi
tầng mỏng thích hợp trồng cây lương thực như cây ngô ... cần có biện pháp chống xói
mòn để sản xuất được bền lâu.

- Đất vàng nhạt trên đá cát (Fp):
Diện tích 1.028 ha chiếm 30,22% diện tích tự nhiên. Phân bố chủ yếu trên địa hình
gò đồi với độ cao > 600m, địa hình bị chia cắt mạnh. Loại này chủ yếu là thích hợp cho
cây lâm nghiệp và cây ăn quả hoặc có thể làm nông- lâm kết hợp như một số loại cây
công nghiệp ngắn ngày. Song cần chú ý biện pháp chống xói mòn.
- Đất đỏ vàng trên phiến thạch sét (Fs):
Diện tích 1.006 ha chiếm 29,57 % diện tích tự nhiên. Loại này phân bố chủ yếu
trên đồi núi cao cần được chú ý để trồng cây lâm nghiệp và cây dài ngày.
- Đất mùn vàng nhạt trên núi đá cao (Hp):
Diện tích 98 ha chiếm 2,88% diện tích tự nhiên. không có ý nghĩa sản xuất .
- Đất thung lũng tụt dốc (D ):
Diện tích 125 ha chiếm 3,67% diện tích tự nhiên loại đất này chủ yếu tại các thung
lũng và thích hợp trồng các cây hoa mầu và lương thực...
1.4.Nguồn nước
Địa bàn xã có sông Nho Quế chảy men qua theo hướng Bắc xuống Nam, có sự
khác biệt rất lớn giữa mùa mưa lũ và khô hanh nên lưu lượng dòng chảy cũng chênh nhau
lớn giữa hai mùa này. Ngoài ra còn có các hệ thống suối từ trên đỉnh núi cao chảy xuống
và các mạch nước ngầm trong khe núi chảy ra nên đã đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất
và sinh hoạt của nhân dân.


Các sông suối của huyện Mèo Vạc nói trung và xã Thượng Phùng nói riêng có
tiềm năng thuỷ điện nhất là thuỷ điện nhỏ phục vụ sinh hoạt. Tuy vậy việc khai thác
nguồn nước sông Nho Quế phụ vụ sản xuất còn nhiều hạn chế vì mặt nước sông về mùa
khô có độ chênh quá lớn so với vùng đất sản xuất nông nghiệp
Tóm lại, những yết tố điều kiện tự nhiên bao gồm cả những yết tố thuận lợi và
khó khăn cho sự sinh trưởng của các loại cây trồng ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng ruộng
đất. Song các yết tố thuận lợi là cơ bản còn các yếu tố tự nhiên cần được khắc phục để sử
dụng đất có hiệu quả hơn
2. Điều kiện kinh tế- xã hội

2.1. Về quỹ đất đai
Theo bản đồ địa giới hành chính 364 và số liệu báo cáo đánh giá hiện trạng sử
dụng đất của phòng Địa chính huyện Mèo Vạc thì xã Thượng Phùng có tổng diện tích tự
nhiên là 3.402 ha. Trong đó: đất nông nghiệp có 673,6 ha chiếm 19,8 % diện tích tự
nhiên. Đất lâm nghiệp có rừng là 252,5 ha chiếm 7,42%...

Biểu 2: Tình hình phân bố sử dụng đất đai của xã
qua 3 năm 2003-2005


2003
Số
các loại đất

lượng
(ha)

Tổng diện tích đất tự nhiên

3.402

2004

2005

Cơ cấu

Số lượng

Cơ cấu Số lượng


Cơ cấu

(%)

(ha)

(%)

(ha)

(%)

100

3402

100

3402

100

I.Đất nông nghiệp

673,6

19,8

673,6


19,8

673,6

19,8

1.Đất canh tác

649,6

96,43

650,6

96,58

650,6

96,58

- Đất ruộng lúa

9,5

1,46

9,5

1,46


9,5

1,46

- Đất nương rẫy

4,8

0,73

4,8

0,73

4,8

0,73

635,3

97,79

636,3

97,80

636,3

97,80


24

3,56

24

3,56

24

3,56

2.Đất cây lâu năm

252,5

7,4

252,5

7,4

252,5

7,4

II.Đất lâm nghiệp

231


91,48

231

91,48

231

91,48

1.Đất có rừng tự nhiên

21,5

8,51

21,5

8,51

21,5

8,51

2.Đất có rừng trồng

24,7

0,72


24,7

0,72

24,7

0,72

6,4

0,18

6,4

0,18

6,4

0,18

2.444,8

71,86

2444,8

71,86

2444,8


71,86

898

36,73

898

36,73

898

36,73

39

1,59

39

1,59

39

1,59

1507,8

61,67


1507,8

61,67

1507,8

61,67

Trong đó:

- Đất trồng cây hàng năm
khác

III.Đất thổ cư
IV.Đất chuyên dùng
V.Đất chưa sử dụng
Trong đó:
- Đất đồi núi chưa sử dụng
- Sông suối
- Đất đá không cây

Nguồn: Niên giám Phòng thống kê huyện Mèo Vạc 2005
Qua biểu 02 ta thấy: Diện tích đất nông nghiệp chiếm bình quân khoảng 19,8 % so
với tổng diện tích đất tự nhiên. Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì diện tích sản
xuất ra lương thực (diện tích cây lương thực) là chính.
Nguyên nhân là do đặc thù riêng của vùng miền núi, diện tích có khả năng sản
xuất nông nghiệp bị hạn chế. Diện tích đất nông nghiệp được ổn định trong 3 năm, riêng



năm 2004 – 2005 diện tích tăng 1 ha do khai hoang làm tăng diện tích . Nhìn chung việc
phân bố và sử dụng đất đai tương đối ổn định qua các năm.
Về cơ cấu các loại đất cho ta thấy đất nông nghiệp chiếm 19,8 %, đất lâm nghiệp
chiếm 7,4 %, đất thổ cư 0,72 %, đất chuyên dùng 0,18 %, đất chưa sử dụng chiếm
71,86%. Đất chưa sử dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng diện tích đất tự nhiên tương
đương 2.444,8 ha, trong đó đất đồi núi chưa sử dụng chiếm 36,73 % tương đương 898
ha.
2.2. Tình hình xây dựng cơ sở hạ tầng
2.2.1. Giao thông
- Có đường từ trung tâm huyện vào đến xã dài 32km và thông qua cửa khẩu tiểu
ngạch Xín Cái và chợ Thượng Phùng thuận tiện cho nhân dân đi lại và trao đổi hàng hoá.
- Ngoài ra còn có 8/13 xóm, bản có các tuyến đường liên thôn liên bản dài khoảng
45 km nối liền với các điểm dân cư.
Nhìn chung các tuyến đường đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đi lại cho nhân
dân. Nhưng hiện nay các tuyến đường còn rất xấu mang tính tạm thời, thời tiết khí hậu,
địa hình phức tạp ... ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng. Đường giao thông mùa
mưa đi lại khó khăn, khả năng mở rộng, duy tu, hạn chế về giao thông vận tải đang là trở
ngại lớn đến giao lưu trao đổi hàng hoá. Song cũng cần đầu tư thêm để nâng cấp về mặt
chất lượng đồng thời cần làm thêm 1 số tuyến đường giao thông nông thôn loại B phục
vụ nhu cầu đi lại và phát triển sản xuất.
2.2.2. Thuỷ lợi
Những năm qua, xã đã xây dựng được một số công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất
và sinh hoạt như một số kênh, mương như: Khe 30 đi xóm Xà phìn A , Khe 30 đi xóm
Hầu Lùng Sán , Sín Mìn Chư đi Mỏ Cớ ... và một số kênh mương khác nhân dân tự làm
bắt nước vào ruộng, nương phục vụ sản xuất. Nhưng do kinh phí hạn hẹp, chưa đầu tư
thích đáng để hoàn chỉnh công trình, các công trình chủ yếu là công trình tạm, dẫn đến
hiệu ích công trình không cao.
2.2.3. Y tế
Xã Thượng Phùng có 1 trạm xá với diện tích xây dựng là 135 m2 nhà lợp Prô, có 5
gian, 6 phòng (gồm phòng làm việc của các cán bộ y tế, phòng khám bệnh, phòng bán

thuốc). Cán bộ y tế trực tiếp làm việc ở trạm xá có 5 người gồm 1 y sĩ, 3 y tá và 1 dược sĩ


(chưa có bác sĩ). Cơ sở vật chất còn nghèo nàn, thiếu thốn. Trạm mới chỉ khám và chữa
một số bệnh đơn giản. Còn lại đều phải giới thiệu lên tuyến trên là chính.
Trang thiết bị và nhà cửa hiện nay đang bị xuống cấp, nhất là phòng sản. Việc này
cần được sự quan tâm của xã, cùng các ngành chức năng hơn nữa, nhằm từng bước nâng
cao công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân địa phương.
- Xã có 13 cán bộ y tế thôn tại tại 13 xóm, bản nhìn chung số cán bộ này yếu về
trình độ và năng lực chưa đáp ứng được thực trạng hiện nay của xã. Cần phải đào tạo và
bồi dưỡng thường xuyên.
2.3. Lao động, dân số và cơ cấu dân tộc
Theo số liệu của phòng thống kê huyện Mèo Vạc, dân số xã Thượng Phùng được
thể hiện qua biểu số 03 dưới đây:

Biểu 3: Dân số và lao động xã Thượng Phùng ( 2003 - 2005)

chỉ tiêu

Năm

Đơn vị
tính

2003

2004

2005



1.Dân số

Người

5.086

5.175

5.192

- Dân tộc

Người

4.941

4.955

4.996

2.Lao động

Người

2.567

2.598

2.611


Hộ

576

587

592

Hộ

568

576

587

4.Số khẩu bình quân/hộ

Hộ

5,37

5,11

4,93

5.Số lao động bình quân/hộ

Hộ


2,11

2,15

2,16

Trong đó:

3.Số hộ
Trong đó:
- Dân tộc

Nguồn số liệu: Niên giám Phòng Thống kê huyện Mèo Vạc năm 2005
Xã Thượng Phùng có 13 Xóm bản, dân cư không tập trung. Có 5 dân tộc anh em
cùng chung sống đó là: Mông, Tày, Hoa, Xuồng, Lô Lô trong đó chủ yếu trong xã là dân
tộc Mông chiếm 96,22% .
Qua biểu 03 ta thấy: dân số xã năm 2005 là 5.192 người trong đó dân tộc Mông có
4.996 người chiếm 96,22%. Tốc độ tăng dân số của xã năm 2005 là 2,155%. Số lao động
bình quân trên hộ toàn xã có xu hướng tăng dần qua 3 năm. Xã phấn đấu từ năm 2005 trở
đi sẽ giảm tỷ lệ tăng dân số xuống còn dưới 2%.
Điểm yếu của xã Thượng Phùng là trình độ dân trí và nhận thức của người lao
động về các tiến bộ khoa học- kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp còn bị hạn chế, có
phần nào ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của xã.
2.4. Văn hoá, giáo dục
Xã có một đội văn nghệ với 15 người thường xuyên tham gia các hoạt động
phong trào văn hoá- xã hội do huyện tổ chức. Và một đội thanh niên sung kích tại 13
xóm, bản gồm 20 đoàn viên thanh niên tham gia hoạt động các phong trào do huyện và
xã phát động .
Về giáo dục, xã có 1 trường phổ thông cơ sở gồm: 7 lớp cấp I và 4 lớp cấp II gồm

49 giáo viên .
Nhìn chung, phong trào văn hoá, văn nghệ giáo dục, vui chơi giải trí được thường
xuyên duy trì. Hoạt động thể dục, thể thao được thường xuyên tổ chức.
3. Đánh giá chung những thuận lợi và khó khăn của xã Thượng Phùng
3.1.Thuận lợi


×