Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

LUẬN văn hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.38 KB, 116 trang )

LUẬN VĂN:

Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua một thế kỷ, dân tộc ta chìm trong chế độ nô lệ. Nhân dân ta sống trong
cuộc đời lầm than khổ nhục bởi áp bức, đè nén và bóc lột của thực dân và nữa phong kiến.
Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Con đường cách mạng mà Bác
Hồ và nhân dân ta đã chọn dẫn đến Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Đảng đã lãnh đạo
nhân dân giành chính quyền lập nên Nhà nước dân chủ kiểu mới. Ngay những ngày đầu
khó khăn ấy, bản luận cương chính trị của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”
cùng với “ nam nữ bình đẳng”. Người phụ nữ Việt Nam đổi đời toàn diện cả về vật chất
và tinh thần. Vị thế xã hội và chính trị của người phụ nữ từng bước được nâng lên. Tài
năng và nhân phẩm được tôn trọng và phát huy.
Ở thời kỳ hòa bình, xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo di huấn của Bác Hồ, Đảng ta
khởi xướng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Phụ nữ Việt Nam
đã đóng góp quan trọng vào lực lượng sản xuất nói chung và nền kinh tế tri thức nói riêng,
góp phần làm tăng trưởng kinh tế và thay đổi diện mạo đất nước.
Từ đó đến nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm trong các văn kiện qua các kỳ
Đại hội. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:
Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần,
thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người
công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi
dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội,
các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ,
trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội,
thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội,
các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ [16, tr.120].


Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong xã hội
dân chủ, quyền này luôn đựơc coi trọng. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề


ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Chính sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Quyền bình đẳng
giới đã được Hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của
nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển
tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng giới bằng pháp luật bên cạnh
những ưu điểm và tiến bộ còn bộc lộ những tồn tại cần được khắc phục nhằm xây dựng
một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Nhà nước với vai trò quản lý và nắm quyền
lực chung, Nhà nước có nhiệm vụ ban hành, bổ sung nhằm hoàn chỉnh và đồng bộ hóa hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng giới của phụ nữ đối với nam giới về kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng.
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều qui định trong các văn bản qui phạm pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng chống hành vi xâm phạm đến
quyền bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật Bình đẳng giới, một số luật khác và các văn bản dưới
luật có liên quan. Tuy vậy, việc hoàn thiện pháp luật đòi hỏi cần bổ sung một số điều luật
mới đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đã phát sinh như: vấn đề quấy rối tình
dục, ngược đãi, ức hiếp vợ, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình…Đồng thời rà soát
lại các văn bản dưới luật về chống văn hóa phẩm đồi trụy, về việc sử dụng công nghệ cao
nhằm trục lợi bất chính như games online đưa trẻ em vào thế giới ảo. Tình hình bạo lực gia
đình gia tăng và rất nghiêm trọng, mỗi năm nạn nhân chết do bạo hành gia đình lên đến
hàng trăm. Ngoài ra, còn có cả những qui phạm pháp luật được ban hành với mục đích ban
đầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ nhưng thực tế tác động của nó
mang lại cho phụ nữ không ít bất công, thiệt thòi như chế độ học phí, chế độ nghỉ thai
sản… Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với những hành vi vi phạm
quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em… Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật

về bình đẳng giới là rất cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất quan trọng, nhằm đưa ra những quan điểm, giải
pháp về vấn đề này góp phần giúp các cơ quan, tổ chức cá nhân trong và ngoài nước quan


tâm hơn đối với việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, khắc phục những bất cập, tồn
tại trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ,
công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm chung của cộng
đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước Châu Á, những hậu quả
nặng nề của “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong
cuộc sống xã hội.
Ngày nay, phụ nữ chiếm hơn một nữa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định
vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy,
bình đẳng giới luôn là nguyên tắc Hiến định trong pháp luật nước ta: Điều 63 Hiến pháp
1992 qui định “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và gia đình", “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ. Xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa quan trọng khi nước
ta đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mục tiêu mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, việc nghiên cứu về bình đẳng
giới tiếp tục là đề taì được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng
định địa vị của người phụ nữ và tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều công trình, đề tài được công bố là cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp lụât, chính sách dành cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của
phụ nữ, phòng, chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ…
Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiêu biểu là: Lê Ngọc Hùng: “Xã hội học về
giới và phát triển”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000; TS Ngô Bá Thành: “Sự bình
đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt
Nam”, xuất bản năm 2001; “Đưa vấn đề giới vào phát triển: thông qua sự bình đẳng giới

về quyền, nguồn lực và tiếng nói”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2001; Lương Phan Cừ:
“Bình đẳng giới- hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới”, xuất bản năm
2004; GS Lê Thi - Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân
số, văn hóa và sự phát triển bền vững”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2004; TS Đỗ Thị


Thạch: “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005; Lê Ngọc Văn (chủ biên) - Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Viện Gia đình và giới: “Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm
giới”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2006; Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện Khoa học
xã hội vùng Nam Bộ, Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình: “Giới, việc làm và đời sống
gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2007; LS Trịnh Đình Thể: “Suy nghĩ về bình đẳng
giới dưới góc nhìn pháp luật”, Nxb Tư pháp, năm 2007; Dương Thị Ngọc Lan: “Hoàn
thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch
sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2000; Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới
trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa
cộng sản khoa học, mã số: 5.01.03, năm 2002; Đổ Thị Thơm: “Hoàn thiện pháp luật về
quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật, mã số: 60.38.01, năm 2004; Đặng Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền
núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên ngành Xã hội học, mã số: 60.31.30; Hoàng Mai Hương:
“Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01; Cao Quốc Việt: “Hoàn
thiện pháp luật phòng chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; Nguyễn
Thanh Sơn: “Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay”,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; và nhiều
bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan.
Những công trình nêu trên chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc khía cạnh
khác liên quan đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ nữ. Trong đó đáng
chú ý là công trình của Lương Phan Cừ mới chỉ nghiên cứu chủ yếu về hiện trạng chính

sách và pháp luật về bình đẳng giới. Công trình này xuất bản năm 2004, đến nay thực
trạng pháp luật về bình đẳng giới đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, đây là công trình mới
nghiên cứu có hệ thống về thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bình đẳng giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về bình đẳng giới, hoàn thiện pháp luật về bình đẳng
giới.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ
nữ; nhận xét, đánh giá những thành tựu; những hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về bình đẳng giới và nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, một số
khái niệm về bình đẳng giới, pháp luật về bình đẳng giới, nghiên cứu thực trạng của quyền
bình đẳng nam, nữ trong pháp luật Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử và quan điểm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam qua các giai
đoạn và thực trạng pháp luật về bình đẳng giới hiện nay nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bình đẳng giới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các Công ứơc quốc tế Việt Nam tham gia,
ký kết về quyền bình đẳng nam, nữ; bình đẳng giới; vì sự tiến bộ của phụ nữ.
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin;


Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng
hợp;
Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Từ trước đến nay đã có một số tác giả bước bước đầu đã nghiên cứu về pháp luật
về bình đẳng giới, song những tác giả này chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc khía
cạnh khác. Vì vậy, đây là công trình mới nghiên cứu có hệ thống lý luận thực trạng và đề
xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới. Những đóng góp
của luận văn thể hiện tập trung ở các nội dung sau đây:
- Trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quan điểm, tác giả đưa ra quan điểm của mình
về khái niệm giới, bình đẳng giới, khái niệm pháp luật về bình đẳng giới, tiêu chí hoàn
thiện pháp luật về bình đẳng giới.
- Phân tích, nhận xét, đánh gía khái quát thực trạng pháp lụât về bình đẳng giới.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt
Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành có thể làm tài liệu tham khảo, vận dụng trong quá trình xây
dựng và hòan thiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, những kết
quả của luận văn có thể được vận dụng làm tài liệu nghiên cứu về bình đẳng giới và xây
dựng pháp luật về bình đẳng giới trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Đồng thời luận văn góp
phần hệ thống hóa pháp lụât về bình đẳng giới.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

được kết cấu làm 3 chương, 7 tiết.


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT
VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI
1.1.1. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bất bình đẳng giới, có nghĩa là muốn nói đến địa vị thấp kém của phụ nữ so với
nam giới đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử xã hội loài người. Do đó, cuộc đấu tranh của phụ
nữ giành quyền bình đẳng đối với nam giới, phong trào vận động ủng hộ phụ nữ trong cuộc
đấu tranh đó đã xuất hiện và phát triển cũng đã rất lâu. Thực tiễn đó làm nảy sinh các lý thuyết
nữ quyền và lý thuyết giới. Các lý thuyết đó đã phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác
nhau.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu lý thuyết nữ quyền, lý thuyết giới chỉ mới xuất hiện
những năm gần đây. Khoa học về phụ nữ và giới chính là sản phẩm của phong trào đấu
tranh của phụ nữ. Nó ra đời từ chính phong trào, thừa kế những di sản văn hoá, tinh thần
tiến bộ của loài người và đến lượt mình nó lại tạo cơ sở lý lụân, làm phong phú thêm cho
chính phong trào phụ nữ cũng như cho chính kho tàng kiến thức của nhân loại. Nó đã gây
được ảnh hưởng lớn, thậm chí làm đảo lộn nhiều nhận thức và quan niệm của một số
ngành khoa học. Ngành khoa học nghiên cứu về phụ nữ mới được hình thành từ những
năm 80. Mặc dù là một ngành khoa học còn rất non trẻ nhưng nó đã trưởng thành nhanh
chống, đạt được nhiếu thành tựu trong lĩnh vực nghiên cứu phụ nữ học và triển khai các đề
tài nghiên cứu ứng dụng về người phụ nữ ở Việt Nam cũng như vấn đề về bình đẳng nam
nữ, góp phần quan trọng vào công việc quản lý xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước ta.
Thời gian gần đây, vấn đề giới đã thu hút được sự quan tâm của nhiều người thuộc các
cấp, các ngành và các lĩnh vực khác nhau. Nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu lý thuyết về giới
cũng như việc vận dụng lý thuyết giới vào thực tiễn đang tăng lên không chỉ ở những nơi

triển khai các dự án về giới, xây dựng luận chứng, lập kế hoạch và soạn thảo chính sách


kinh tế - xã hội liên quan tới giới mà còn cả những cơ sở nghiên cứu khoa học và đào tạo
về giới trên toàn quốc.
Khái niệm giới, tuy mới được nói tới từ những năm 80 của thế kỷ XX, nhưng bản
chất vấn đề giới và nội dung các quan điểm về giới thực ra đã được nói đến từ lâu trong
lịch sử thế giới mà chủ yếu liên quan tới vấn đề phụ nữ và sự bình đẳng nam - nữ. Mối
quan hệ giữa nam giới và phụ nữ, sự giống nhau và khác nhau giữa hai giới, sự bình đẳng
giữa hai giới… là vấn đề có từ xưa, từ khi loài người bắt đầu xuất hiện trên trái đất. Tuy
nhiên, cho đến ngày nay đó vẫn còn là vấn đề thời sự đang được bàn luận sôi nổi và
nghiêm túc.
1.1.1.1. Khái niệm giới
Theo quan niệm của nhiều nhà khoa học, Giới và giới tính là hai khái niệm cặp đôi,
liên quan chặt chẽ nhau. Trong đó tiếng Anh giới là GENDER và giới tính là SEX. Do đó,
để hiểu khái niệm giới, trước hết cần hiểu khái niệm giới tính.
Giới tính là một khaí niệm khoa học ra đời từ môn sinh vật học chỉ sự khác biệt
giữa nam và nữ về mặt sinh học. sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản
xuất con người, di truyền nòi giống. Con người sinh ra đã có những đặc điểm về giới tính.
Ví dụ: chỉ phụ nữ mới có khả năng mang thai và sinh con, hoặc chỉ nam giới mới có khả
năng sản xuất tinh trùng cho quá trình thụ thai.
Giới là khái niệm ra đời từ môn xã hội học, chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về mặt
xã hội. Nói về giới là nói về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quan niệm hay qui
định cho nam giới và phụ nữ. Vai trò, trách nhiệm và quyền lợi đó thể hiện trước hết ở sự
phân công lao động, phân chia các nguồn của cải vật chất, tinh thần, tức là cách đáp ứng nhu
cầu của nam và nữ trong xã hội. Ví dụ: Theo quan niệm và thói quen đã có từ lâu đời ở nhiều
nước, nhiều khu vực thì phụ nữ thì phải làm hầu hết các công việc trong nhà như chăm sóc
con, nấu ăn, phục vụ chồng… Còn nam giới thì có trách nhiệm lao động sản xuất để nuôi gia
đình và làm các công việc xã hội. Khi sinh ra, con người chưa có trong bản thân sự phân biệt
giới mà họ dần dần tiếp thu và chấp nhận từ nề nếp của gia đình, qui ước của xã hội và chuẩn

mực của nền văn hoá.


Như vậy, khi nói giới tính là nói đặc điểm của con người do tự nhiên qui định. Nó
ổn định, thậm chí, hầu như bất biến đối với cả nam và nữ, xét cả về mặt không gian và thời
gian. Chẳng hạn phụ nữ trong mọi thời đại, mọi chế độ chính trị, mọi nền văn hoá đều giống
nhau ở khả năng mang thai và sinh con; nam giới ở mọi nơi, mọi thời đại đều giống nhau ở
chức năng sinh sản là làm cho phụ nữ mang thai. Còn nói đến giới là nói đến địa vị xã hội, thái
độ và hành vi ứng xử giữa nam giới và phụ nữ do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá… tạo
nên. Địa vị thái độ và hành vi đó không bất biến mà thay đổi do sự thay đổi của hoàn cảnh,
điều kiện xã hội, văn hoá. Ví dụ: so với cách đây 50 năm về trước, đặc điểm về giới tính của
phụ nữ nước ta hiện nay không có sự thay đổi, thế nhưng đặc điểm về giới-tức là địa vị xã hội,
tương quan về mặt xã hội so với nam giới-đã có sự thay đổi căn bản, bởi vì kể từ cách mạng
tháng tám 1945, hoàn cảnh, điều kiện xã hội, văn hoá nước ta đã thay đổi toàn diện và sâu
sắc.
Từ những phân tích trên đây ta có khái niệm: giới là thuật ngữ dùng để chỉ vai trò
và mối quan hệ xã hội giữa nam giới và nữ giới, mối quan hệ này được quyết định và có
thể thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh xã hội và văn hoá.
1.1.1.2. Vai trò giới
Vai trò giới là những hành vi ứng xử được dạy dỗ về mặt xã hội mà xã hội mong
đợi ở nữ giới và nam giới trong xã hội hay một nền văn hoá cụ thể. Đó là mối quan hệ
giữa phụ nữ và nam giới: ai làm gì, ai là người ra quyết định, tiếp cận nguồn lực và các
lợi ích.
Vai trò giới được chia làm ba nhóm cơ bản: vai trò sản xuất; vai trò tái sản xuất và
vai trò cộng đồng.
Vai trò sản xuất, thực hiện những hoạt động bao gồm sản xuất hàng hoá và dịch vụ
để tiêu dùng và trao đổi thương mại như làm ruộng, đánh cá, thuê mướng hoặc tự sử dụng
lao động. những hoạt động này được trả công và tạo ra thu nhập, cả nam và nữ có thể tham
gia vào các hoạt động sản xuất, nhưng nhìn chung các chức năng và trách nhiệm của họ
cũng khác nhau do sự phân công lao động theo giới truyền thống. Những việc do phụ nữ

làm thường được đánh giá thấp hơn nam giới.


Vai trò tái sản xuất, là thực hiện các hoạt động tái sản xuất ra con người và sức lao
động bao gồm sinh con, các công việc chăm sóc gia đình như nuôi dạy và chăm sóc trẻ
con, chuẩn bị thức ăn, giữ gìn nhà cửa, dọn dẹp, giặt giũ, chăm sóc sức khoẻ gia đình…
những công việc này được gọi là công việc tái sản xuất là thiết yếu đối với đời sống con
người, đảm bảo sự bền vững của dân số và lực lượng lao động. Công việc này tiêu tốn
nhiều thời gian nhưng không tạo ra thu nhập, vì vậy ít khi được coi là công việc thật sự,
được làm miễn phí, không được các nhà kinh tế đưa vào các con tính. Đại đa số, công việc
tái sản xuất là trách nhiệm của phụ nữ và trẻ em gái.
Vai trò cộng đồng, thực hiện những hoạt động bao gồm một tổ hợp các sự kiện xã
hội và dịch vụ như hoà giải mâu thuẩn, các nghi lễ (đám tang, đám cuới, liên hoan, cúng
đình …), các hoạt động thúc đẩy cộng đồng, các hoạt động chính trị ở địa phương… Công
việc cộng đồng có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn hoá tinh thần của cộng
đồng. Có lúc nó đòi hỏi sự tham gia tình nguyện, tiêu tốn thời gian và không nhìn thấy
ngay được. Có lúc nó lại được trả công và có thể nhìn thấy được như làm trưởng ban của
một ban nào đó. Công việc này thường do nam giới nắm giữ.
Ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 50,8% dân số và chiếm khoản 50,6% lực lượng lao
động xã hội [1].
Trong suốt chiều dài lịch sử, phụ nữ Việt Nam có vai trò và những đóng góp to lớn
vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, trong công cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm cũng như trong công cuộc phát triển của đất nước, đặc biệt từ sau quá trình đổi mới.
Ngày nay phụ nữ tham gia vào các hoạt động sản xuất, trong các ngành như nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ (may mặt, giầy dép và chế biến thuỷ sản…), giáo dục, y tế, thương mại…
và đã đạt được những thành tựu to lớn trong tất cả các lĩnh vực, đóng góp đáng kể vào tổng
sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam. Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của phụ nữ đã
được ghi nhận trong gia đình, công việc và ngoài xã hội. Như trong Nghị quyết 04NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ
nữ trong tình hình mới, đã xác định: “ Phụ nữ Việt Nam có truyền thống vẻ vang, có những
tiềm năng to lớn, là một động lực quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển, kinh tế,

xã hội. Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, người thầy đầu


tiên của con người. Mục tiêu giải phóng phụ nữ hiện nay là thiết thực cải thiện đời sống
vật chất tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình
đẳng… Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là công tác của phụ nữ, là trách nhiệm của Đảng,
nhà nước, các đoàn thể nhân dân, của toàn xã hội và của từng gia đình”.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những định kiến từ chế độ phong kiến cùng với phong
tục tập quán lạc hậu lâu đời còn tồn tại, cũng như nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam vẫn còn
tồn taị những bất bình giới, phụ nữ và trẻ em có vị thế thấp hơn nam giới; ở nhiều nơi phụ nữ và
trẻ em phải đối mặt với nhiều vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử liên quan đến giới và
bạo hành về giới…Trên thực tế, phụ nữ Việt Nam vẫn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn sau:
Về mặt xã hội, quan niệm “trọng nam khinh nữ” tồn tại ở nhiều nơi trên cả nước,
đặc biệt là vùng nông thôn, tác động mạnh đến chất lượng cuộc sống bởi tình trạng đói
nghèo và phát triển kinh tế chậm ở nông thôn. Đây là những định kiến về giới và sự phân
biệt đối xử đối với phụ nữ và phần nào dẫn đến tình trạng thiếu cơ hội cho phụ nữ, địa vị
thấp kém của phụ nữ và thậm chí cả bạo lực đối với phụ nữ. Đây là sự thách thức trong
cuộc chiến của toàn xã hội để cải thiện mối quan hệ về giới, đảm bảo công bằng giới và
thực hiện việc trao quyền cho phụ nữ.
Trong lĩnh vực giáo dục, theo Luật Giáo dục Việt Nam, phụ nữ và trẻ em gái được
tiếp cận công bằng với các cơ hội học tập và thực tế là hiện nay số lượng trẻ em gái theo
học bậc tiểu học, trung học cơ sở đã bằng và gần bằng số trẻ em trai. Tuy nhiên, vẫn còn
có sự cách biệt về sồ lượng học sinh nữ và nam ở bậc học đại học. Bậc học càng cao, càng
có ít học sinh nữ. Trẻ em gái và phụ nữ thường có ít thời gian cho việc học hơn là trẻ em
trai và nam giới, vì họ phải dành nhiều thời gian cho việc nội trợ và một phần vì các quan
niệm truyền thống, họ có ít cơ hội đi học hơn các anh em trai của mình. Đặc biệt, nếu gia
đình phải đối mặt với những khó khăn về tài chính, trẻ em gái và phụ nữ phải bỏ học trước
để kiếm tiền hổ trợ gia đình. Trong các hoạt động kinh tế, hiện nay phụ nữ Việt Nam phải
đối mặt với những thách thức mới như khả năng cạnh tranh thấp kém của lao động nữ, ít
sơ hội việc làm hơn (đặc biệt là những công việc có thu nhập cao), nguy cơ mất việc cao

hơn so với nam giới.


Trong lĩnh vực gia đình, nam giới thường đưa ra quyết định cuối cùng về sản xuất,
đầu tư, kinh doanh, phân bổ nguồn lực gia đình, hướng phát triển của gia đình và định
hướng cho con cái…Vai trò của phụ nữ trong việc đưa ra quyết định là rất thấp, đặc biệt là
ở nông thôn, vùng sâu vùng xa. Phụ nữ, trong khi vừa phải cáng đáng việc ở cơ quan vừa
phải tiếp tục gánh vác công việc nội trợ nặng nhọc mà không nhận được đồng thù lao nào.
Phụ nữ nông thôn Việt Nam làm việc trung bình 12,5 đến 14 giờ/ngày [37]. Nói cách khác,
phụ nữ phải dành nhiều thời gian làm việc nhà hơn nam giới. Họ có xu hướng gánh vác cả
ba vai trò cùng một lúc: công việc gia đình (nội trợ và chăm sóc con cái) công việc sản
xuất và công việc ngoài xã hội. Đây là sự phân công lao động thiếu công bằng điển hình
đang tồn tại ở Việt Nam. Kết quả họ có rất ít thời gian dành cho nghỉ ngơi, học tập và đào
tạo, các hoạt động xã hội, văn hoá và vui chơi giải trí.
Vì vậy, như phân tích trên vai trò giới là những hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi
ở phụ nữ và nam giới, vai trò giới đa dạng giữa cộng đồng và các nơi trên thế giới, các vai
trò giới thay đổi theo thời gian tương ứng với các điều kiện, hoàn cảnh thay đổi của cộng
đồng và các vai trò giới cũng thay đổi tương ứng với quan niệm luôn thay đổi với việc
chấp nhận hành vi ứng xử. Các vai trò và đặc điểm giới có ảnh hưởng đến mối quan hệ
quyền lực giữa phụ nữ và nam giới ở mọi cấp độ, có thể dẫn đến tình trạng bất bình đẳng
về cơ hội và hưởng thụ thành quả đối với một số nhóm người.
Khi phân tích mối quan hệ giữa vai trò giới với tình trạng bất bình đẳng giới và
công cuộc phát triển thấy rằng: vai trò giới và những mong đợi xã hội đã ăn sâu vào tiềm
thức và trong nhiều trường hợp, còn được gia đình, nhà trường và các tổ chức tôn giáo,
đoàn thể xã hội và các cơ quan nhà nước khắc sâu thêm. Trong khi đó vai trò giới và
những mong đợi về mặt xã hội có thể mang lại những cơ hội, địa vị và chất luợng cuộc
sống khác nhau cho trẻ em trai và trẻ em gái, phụ nữ và nam giới. Nhìn chung, bất bình
đẳng giới làm cho trẻ em gái và phụ nữ có địa vị bất bình đẳng, phụ thuộc hoặc yếu thế so
với trẻ em trai và nam giới, cản trở họ được hưởng thụ đầy đủ các quyền con người cơ bản
của mình và bất bình đẳng giới cũng là nguyên nhân của nạn đói nghèo, cản trở công cuộc

giảm nghèo cũng như quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội bền vững.
1.1.1.3. Bình đẳng giới


Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc điểm giống và khác
nhau giữa nam giới và nữ giới, biểu đạt sự đối xử như nhau của xã hội đối với nam giới và
nữ giới, là trạng thái xã hội trong đó nam giới và nữ giới có vị trí như nhau, có các cơ hội
như nhau để phát triển đầy đủ tiềm năng của mình, sử dụng nó cho sự phát triển của xã
hội và được hưởng lợi từ kết quả của sự phát triển đó.
Thực chất bình đẳng giới chính là nữ giới và nam giới cùng có điều kiện bình đẳng
để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để
tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá trình phát triển; được
hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi
lĩnh vực của xã hội.
Bình đẳng giới không chỉ đơn giản là nam giới và phụ nữ hay em trai và em gái có
số lượng tham gia như nhau trong mọi hoạt động mà bình đẳng giới có nghĩa là nam giới
và nữ giới được hưởng các vị thế xã hội ngang nhau. Bình đẳng giới không có nghĩa là
nam giới và nữ giới là giống nhau mà có nghĩa là sự tương đồng và khác biệt của họ được
thừa nhận và được coi trọng như nhau; có nghĩa là nam giới và nữ giới được tạo những điều
kiện ngang nhau để phát huy đầy đủ các tiềm năng của bản thân và có cơ hội để tham gia đóng
góp và hưởng lợi như nhau từ các hoạt động phát triển của cộng đồng trên mọi mặt kinh tế,
chính trị, văn hoá và xã hội; điều quan trọng, bình đẳng giới có nghĩa là nam giới và nữ giới
được thụ hưởng các thành quả một cách bình đẳng.
Cần phân tích rõ vị trí, vai trò và tác dụng của bình đẳng giới trong xây dựng con
người và phát triển kinh tế-xã hội, để ngày càng quan tâm hơn, nhận thức rõ hơn những
nội dung về bình đẳng giới, mọi người dù là nam giới hay phụ nữ, với tư cách cá nhân đều
có quyền bình đẳng và cần được tạo cơ hội để phát huy tiềm năng sẳn có của mình, có
quyền thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển chung như:
- Tiếp cận và sử dụng các nguồn lực (tài chính, đất đai, thời gian, cơ hội…)
- Tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến việc sử dụng nguồn lực

- Tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…
- Thụ hưởng những thành tựu của sự phát triển.


Vấn đề đặt ra là gỡ bỏ những rào cản về pháp lý, chính trị, kinh tế, văn hoá và xã
hội, khiến cho một trong hai giới (nam hoặc nữ) không được thực hiện quyền, hưởng lợi
ích nói trên, trong đó các định kiến truyền thống về vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của
nam giới và phụ nữ là nguyên nhân cội rễ dẫn đến những rào cản này [59].
1.1.1.4. Khái niệm pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng nói chung là nhu cầu của mọi thành viên trong đời sồng xã hội. Song nhu
cầu không phải là một “cái” luôn luôn được đáp ứng và con người có thể đạt được mà chỉ
có những nhu cầu nào được nâng lên thành “quyền” thì con người mới có thể yêu cầu đáp ứng
và đạt được điều mình mong muốn. Công cụ, phương tiện để biến nhu cầu thành quyền chính
là pháp luật do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện theo một trình tự luật định nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ bình đẳng giới nói riêng. Nói cách khác, quyền
bình đẳng của nam giới và nữ giới sẽ được hiện thực hoá khi chúng được thể chế hoá trong
pháp luật và bảo đảm cho các qui định của pháp luật về quyền bình đẳng của nam giới và nữ
giới được thực hiện trong thực tế.
Bình đẳng giới là một dạng của bình đẳng xã hội nói chung, nó cũng cần có sự điều
chỉnh của pháp luật, nhằm thiết lập quyền bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, cũng như
điều chỉnh những những lĩnh vực, những nơi mà phụ nữ đang thiệt thòi, đang có vị trí thấp
kém so với nam giới do nhiều nguyên nhân khác nhau bắt nguồn từ đời sống xã hội, nhằm
đáp ứng yêu cầu của công cuộc đấu tranh cho bình đẳng giới ở Việt Nam và góp phần thúc
đẩy công cuộc đầu tranh cho bình đẳng giới trên thế giới.
Phụ nữ với tư cách là công dân cũng có đầy đủ những quyền như công dân. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân lịch sử, xã hội và văn hoá, trên thực tế, những định kiến coi
thường phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng nặng nề trong đời sống xã hội. Hiến pháp và pháp luật
ghi nhận quyền bình đẳng nam nữ và phụ nữ cũng có những quyền như nam giới, nhưng
do những định kiến của xã hội nên phụ nữ còn gặp nhiều trở ngại, khó khăn khi tham gia
vào các hoạt động chính trị, hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động xã hội. Chính vì

vậy, ngoài những qui định chung về quyền con người, quyền công dân, pháp luật còn có quy
định riêng dành cho phụ nữ, đảm bảo cho phụ nữ có đủ điều kiện phát triển bắt kịp nam giới
(xuất phát điểm của phụ nữ rất thấp so với nam giới)


Như vậy, phụ nữ hoàn toàn có quyền tự do thực hiện quyền bình đẳng của mình
cùng với nam giới. Nhưng việc thực hiện quyền đó chỉ có hiệu lực và hiệu quả khi nó được
đặt dưới sự bảo vệ của pháp luật và phù hợp với pháp luật. Do định kiến coi thường phụ nữ
còn nặng nề nên để bảo đảm cho phụ nữ thực hiện được quyền bình đẳng của mình trong
thực tế, Nhà nước phải ban hành nhiều qui định trong pháp luật, trong đó có cả những chế
tài nghiêm khắc xử lý những hành vi vi phạm quyền bình đẳng của phụ nữ. Như vậy, pháp
luật không chỉ ghi nhận, cụ thể hoá quyền bình đẳng của phụ nữ mà còn qui định những
thiết chế bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm pháp luật về bình đẳng giới như sau:
Pháp luật về bình đẳng giới là hệ thống các qui phạm pháp luật do nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành một trong những vấn đề toàn cầu và được
mọi cộng đồng quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực tiễn cho thấy, phụ nữ được bình đẳng
cùng với nam giới tham gia vào mọi hoạt động của đời sống, đồng thời cùng được thừa
hưởng mọi thành quả của tiến bộ xã hội, đó chính là biểu hiện sinh động năng lực làm chủ
xã hội của một lực lượng lao động quan trọng, chiếm hơn nữa nhân loại toàn cầu. Chỉ trên
cơ sở bình đẳng mới đảm bảo cho mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện.
Trên thực tế, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp
không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội.
Xem xét vấn đề bình đẳng giới giữa nam và nữ trong mối tương quan với các vấn
đề chính trị-xã hội khác, chúng ta có thể rút ra các đặc điểm của pháp luật về bình đẳng
giới như sau:
- Thứ nhất, pháp luật bình đẳng giới bao gồm các qui định của pháp luật về quyền

công dân nói chung và các qui định trực tiếp quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới.
Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ được pháp luật ghi nhận và bảo vệ với tư
cách là quyền công dân, phụ nữ cũng là công dân và phụ nữ có những quyền của một công
dân, được thừa nhận và tham gia vào mọi hoạt động trong đời sống cộng đồng xã hội. Bên


cạnh đó, để khẳng định quyền bình đẳng của phụ nữ, Hiến pháp và những văn bản qui
phạm pháp luật liên quan đến quyền bình đẳng của phụ nữ còn có những qui định riêng về
quyền bình đẳng của phụ nữ. Hiến pháp 1959 qui định:
Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới
về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, gia đình.
Cùng làm việc như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam giới. Nhà
nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau
khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương [39].
Những qui định như vậy, đã hình thành nên một hệ thống các qui phạm pháp luật qui định
trực tiếp quyền bình đẳng nói chung và các quyền khác của phụ nữ.
- Thứ hai, pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới là tổng hợp nhiều
qui phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau.
Nhiệm vụ của pháp luật là xác lập cơ sở pháp lý và tạo cơ sở để bảo vệ quyền bình
đẳng của phụ nữ với nam giới. Vịêc xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ không chỉ
được qui định tại Hiến pháp mà còn được qui định trong nhiều văn bản qui phạm pháp luật
khác nhau như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Bộ
luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Khiếu nại tố cáo, Bộ luật Lao
động, Luật Bình đẳng giới…Đặc biệt, trong những văn bản pháp luật này đều có những qui
định riêng về quyền của phụ nữ nhằm mục đích bảo vệ và bảo đảm việc thực hiện quyền bình
đẳng của phụ nữ. Ngoài hệ thống quyền con người thống nhất, việc thực hiện quyền này là cơ
sở là tiền đề cho việc bảo đảm thực hiện các quyền khác. Chính vì vậy, việc bảo đảm thực
hiện quyền bình đẳng của phụ nữ không chỉ căn cứ vào những qui phạm pháp luật riêng qui
định về quyền bình đẳng của phụ nữ, mà còn liên quan đến nhiều qui phạm pháp luật thuộc
các lĩnh vực khác nhau. Nói cách khác, pháp luật về bình đẳng giới là tổng hợp của nhiều qui

phạm pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau nhằm bảo vệ và bảo đảm quyền bình đẳng của
phụ nữ với nam giới được thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
- Thứ ba, pháp luật về bình đẳng giới là sự kết hợp hài hoà giữa các qui phạm pháp
luật quốc tế và pháp luật quốc gia.


Thúc đẫy và bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới không chỉ là mối
quan tâm và trách nhiệm của riêng một quốc gia nào, mà nó đã trở thành nghĩa vụ và trách
nhiệm chung của cả cộng đồng quốc tế. Cộng đồng quốc tế đã thông qua nhiều văn kiện
pháp lý qui định về quyền bình đẳng của phụ nữ. Những văn kiện đó thể hiện tư tưởng tiến
bộ của nhân loại về giải phóng phụ nữ, bảo đảm sự bình đẳng và nâng cao địa vị của người
phụ nữ.
Trong các văn kiện pháp lý quốc tế qui định trực tiếp hoặc gián tiếp về quyền bình
đẳng của phụ nữ, Việt Nam đã gia nhập và phê chuẩn hai công ước quan trọng nhất có liên
quan là: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 và Công ước Liên
hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979.
Trong quá trình xây dựng pháp luật, Nhà nước luôn xem xét khả năng thể chế hoá những
qui định tiến bộ của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây cũng là một
phần trong trách nhiệm lập pháp của quốc gia khi gia nhập và phê chuẩn các công ước này.
Bên cạnh đó, Khi xây dựng pháp luật, chúng ta cũng dựa trên truyền thống văn hoá và
hoàn cảnh đặc thù của Việt Nam để điều chỉnh và thông qua những qui phạm pháp luật
phù hợp. Chính vì thế, pháp luật Việt Nam thể hiện tư tưởng tiến bộ, có tính thuyết phục,
phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Các qui phạm pháp
luật về bình đẳng giới trong hệ thống pháp luật Việt Nam thể hiện rõ tư tưởng trên, trong
đó đặc biệt nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng không phân biệt đối xử.
1.1.3. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ,
công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận đươc sự quan tâm chung của cộng
đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước châu Á, những hậu quả
nặng nề của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng

nhiều trong đời sống xã hội. Ngày nay, phụ nữ chiếm phân nữa dân số cả nước, đang ngày
càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa
đất nước. Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt nam hiện nay đã trở thành một chế định quan trọng
và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta, là cơ sở để thể chế hoá trong
các văn bản pháp luật, từ cao nhất là Hiến pháp, đến các luật chuyên ngành. Trong các bản


Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ lịch sử, nội dung bình đẳng giới đã được mở rộng một
cách toàn diện hơn đồng thời nhiều nội dung được cụ thể hoá trong các văn bản qui phạm
pháp luật dưới Hiến pháp như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Lao động năm 1994 sửa
đổi, bổ sung 2002; Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997; Luật giáo dục năm 1998; Bộ
luật Hình sự năm 1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và hàng trăm văn bản khác.
Vấn đề bình đẳng giới, càng có ý nghĩa quan trọng khi nước ta đang bước vào giai đoạn
mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên
nhiều lĩnh vực.
Nói đến nội dung của pháp luật về bình đẳng giới là đề cập đến các qui phạm pháp
luật cụ thể hướng đến mục tiêu xác lập và bảo vệ năng lực và tư cách pháp lý bình đẳng
giữa nam giới và phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội cụ thể gồm những lĩnh vực
cơ bản sau:
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và y tế
- Bình đẳng giới trong gia đình [21].
Nhìn từ hệ thống pháp luật quốc tế, những nội dung liên quan trực tiếp, gián tiếp
đến bình đẳng giới có thể thấy trong nhiều văn bản, trong đó tiêu biểu là Tuyên ngôn thế
giới về quyền con người (UDHR) năm 1948, Công ước Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình
thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) năm 1979. Công ước CEDAW có ý nghĩa

quan trọng đối với việc hiện thực hoá các quyền con người của phụ nữ, công ước này xác
định cách thức, biện pháp nhằm loại trừ những sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong hưởng
thụ các quyền con người. Mục đích của công ước CEDAW là trao cho phụ nữ những
quyền con người đã được thừa nhận nhưng trên thực tế họ chưa được hưởng bởi những
phân biệt đối xử trong thực tế [63].


Ở Việt Nam, quyền bình đẳng của phụ nữ với tính cách là quyền công dân sớm
được xác lập bằng pháp luật cùng với sự ra đời của Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946,
ngay từ lần đầu tiên đó, phụ nữ đã được công nhận có địa vị công dân bình đẳng so với đàn
ông:
“Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà.
Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”(Điều 1) “Tất cả công dân Việt Nam
đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá” (Điều 6).
“Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia
chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều 7).
“Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9).
Quyền bình đẳng nam nữ trong bầu cử, ứng cử đã trở thành qui tắc xuyên suốt trong
các bản Hiến pháp Việt Nam từ 1946 đến nay: Công dân, không phân biệt dân tộc, nam,
nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở
lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có thể được bầu vào Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp, trừ những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tuớc các quyền đó.
Phù hợp với tinh thần chung của các Công ước quốc tế Việt Nam tham gia ký kết,
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam có những qui định xác lập quyền bình đẳng của phụ nữ
và nam giới trong việc tham gia xây dựng và thực hiện các chính sách của Nhà nước, tham
gia các chức vụ của nhà nước và thực hiện chức năng công cộng ở mọi cấp. Cụ thể, Hiến
pháp 1992 sửa đổi nêu rõ: “ công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà
nước…” (Điều 53).

Như vậy, quyền bình đẳng của phụ nữ và nam giới có một cơ sở pháp lý khá đầy đủ
và toàn diện, từ việc xác lập đến bảo vệ bằng pháp luật. Pháp luật Việt Nam có những qui
định riêng, nhưng đồng thời cũng rất hài hòa với pháp luật quốc tế trong việc khẳng định
quyền bình đẳng của phụ nữ, đây là quyền quan trọng cần được bảo vệ trên cơ sở bình
đẳng, không phân biệt đối xử cùng với trách nhiệm quốc gia và cả cộng đồng quốc tế, vì
dân chủ và sự tiến bộ của phụ nữ.


Nhìn tổng thể, nhiều nội dung bình đẳng giới đã được qui định khá chi tiết, phong
phú trong các văn bản qui phạm pháp luật ở nước ta, đồng thời Việt Nam được đánh gía là
một trong những quốc gia có chính sách bình đẳng giới tiến bộ so với nhiều quốc gia trên
thế giới. Chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước vừa tạo điều kiện thuận lợi để
phụ nữ vươn lên, vừa đòi hỏi phụ nữ phải năng động, linh hoạt hơn trong việc nâng cao
trình độ chuyên môn, làm chủ kỹ thuật hiện đại tham gia tích cực vào hoạt động sản xuất
và xây dựng xã hội, đổi mới đất nước. Tuy nhiên, các nội dung của pháp luật về bình đẳng
giới đưa ra chủ yếu còn mang tính cục bộ, rải rác thiếu tính hệ thống theo một nguyên tắc
chung. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra chưa được rà soát kỹ, như việc đánh giá lại
các văn bản pháp luật hiện hành, trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ những chính sách
liên quan về giới để có những dự báo có tính khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện
pháp luật về bình đẳng giới.
1.1.4. Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới
Vai trò của pháp luật về bình đẳng giới thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là phương tiện thể chế hoá chính
sách bình đẳng giới của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong lịch sử xã hội loài người từ khi nhà nước xuất hiện, pháp luật chính là công
cụ thể chế hoá đường lối, chủ trương và chính sách của giai cấp cầm quyền. Ở Việt Nam,
nền tảng của giai cấp cầm quyền xã hội là liên minh giai cấp công nhân, nông dân và đội
ngũ trí thức đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay,
Đảng luôn dành sự quan tâm cho phụ nữ, bảo vệ các lợi ích chính đáng của phụ nữ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong luận cương chính trị đầu tiên của Đảng, tư

tưởng giải phóng phụ nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ đã được ghi nhận, trở thành tuyên
ngôn đầu tiên về quyền bình đẳng nam nữ, phụ nữ được công nhận ngang quyền với nam
giới. Tiếp đó, Đảng còn ban hành nhiều chỉ thị và nghị quyết có tính chất định hướng và
chỉ đạo nhằm bảo đảm cho phụ nữ ngang quyền với nam giới như: Nghị quyết số 153/NQTW, 10/01/1967 về “công tác cán bộ nữ”; Chỉ thị số 44/CT-TW, 07/6/1984, về “ một số
vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”; Nghị quyết 04/NQ-TW của bộ chính trị về “
tăng cường và đổi mới công tác vận động nữ trong tình hình mới”; Nghị quyết 04-NQ/TW


ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “ đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ
trong tình hình mới”; Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 29/9/1993 củ Ban Bí thư Trung ương
Đảng về “thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về đổi mới, tăng cườngcông tác vận động
phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thỉ 37/CT-TW16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương về
“một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”; tiếp theo là nghị quyết Đại hội
IX của Đảng công sản Việt Nam v.v…Mọi văn bản đều nhất quán một quan điểm “thực
hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo nghề nghiệp, nâng cao
trình độ học vấn, có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ
quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp…” [15, tr.126].
Tư tưởng trên đã trở thành nguyên tắc chung và được thể chế hoá trong Hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước. Hay nói cách khác, pháp luật làm cho các chính sách có hiệu
lực thực thi và bắt buộc chung trên qui mô toàn xã hội. Pháp luật bình đẳng giới còn là
phương tiện để Đảng kiểm tra đường lối chính sách của mình về bình đẳng giới và về
quyền của phụ nữ trong thực tiễn đời sống xã hội. Ngay từ khi ra đời, Nhà nước dân chủ
đầu tiên ở Đông Nam Châu Á đã ghi nhận trong pháp luật quyền của phụ nữ và nam giới.
Tuy nhiên, một thực tế không thể không thừa nhận là pháp luật của chúng ta chưa thể chế
đầy đủ, cụ thể và thiếu những thiết chế đảm bảo thực hiện trên thực tế đường lối chủ
trương chính sách của Đảng về bình đẳng giới nói chung về quyền phụ nữ nói riêng. Điều
này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện bình đẳng giới trên thực tế.
- Thứ hai, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lý đấu tranh thực
hiện bình đẳng giới giữa phụ nữ và nam giới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các gía trị xã hội và bảo đảm

công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặt biệt quan trọng trong việc xác lập và bảo vệ các
quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Pháp luật là hệ thống các qui định trong đó nêu
ra các qui tắc xử sự chung cho phép hoặc bắt buộc tất cả các chủ thể pháp luật. Hay nói
cách khác, tất cả các chủ thể pháp luật gồm các cơ quan nhà nước; mọi cán bộ, công chức,
viên chức; các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội; các tổ chức xã hội; các tổ
chức xã hội-nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế; đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và mọi
công dân có trách nhiệm thực hiện các qui định của pháp luật. Hiến pháp 1992 của nước


Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ: “ Công dân nam, nữ có quyền ngang nhau về
mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xã hội”. Luật Dân sự Việt Nam
2005 tại điều 5 qui định: “Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy
lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế,…Để đối xử
không bình đẳng nhau” và đây chính là nguyên tắc có giá trị áp dụng đối với tất cả các chế
định, các qui phạm pháp luật dân sự, các quan hệ pháp luật dân sự. Luật Bình đẳng giới
qui định tại điều 4: “Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội
như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế-xã hội và phát triển nguồn lực, tiến tới
bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác hổ trợ giữa
nam và nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”
Ngoài ra, pháp luật còn có những qui định về hình thức, biện pháp xử lý hành vi
phạm bình đẳng giới như: Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định các biện pháp chế tài đối với
các tội xâm phạm quyền bầu cử, ứng cử nói chung và tội xâm phạm quyền bình đẳng của
phụ nữ tại điều 126 và 130. Điều 130 qui định: “…phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm đối với những người dùng vũ lực hoặc
có hành vi nghiêm trọng xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ, trong đó có quyền tham
gia vào hoạt động chính trị”. Điều 119 qui định: “Người nào mua bán phụ nữ thì bị phạt
tù từ hai năm đến bảy năm…”
- Thứ ba là, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam là cơ sở pháp lý để nâng cao địa
vị thấp kém hiện thời của phụ nữ
Có thể nói, nhờ pháp luật có những qui định xác lập và bảo vệ quyền bình đẳng của

phụ nữ mà phụ nữ có những cơ sở pháp lý cần thiết để đấu tranh cho việc cải thiện và nâng
cao vị thế thấp kém hiện thời của mình.
Pháp luật về bình đẳng giới không chỉ xác lập địa vị bình đẳng của phụ nữ trong đời
sống xã hội mà còn là những qui tắc xử sự được sử dụng như thước đo chuẩn mực chung,
đồng thời có tính chất bắt buộc đối với mọi thành viên trong xã hội nhằm thực hiện bảo vệ
quyền bình đẳng của phụ nữ với nam giới. Chính vì lẽ đó, pháp luật về bình đẳng giới
được sử dụng như cơ sở dẫn chiếu đối với những hành vi trái pháp luật vi phạm quyền
bình đẳng giới, bên cạnh đó, những qui định của pháp luật bình đẳng giới có vai trò quan


trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chính đáng của họ mà pháp luật đã ghi
nhận. Hơn nữa, pháp luật bình đẳng giới còn là cơ sở pháp lý chắc chắn để phụ nữ đấu
tranh với những hành vi sai trái, phân biệt đối xử với phụ nữ, những định kiến lạc hậu cản
trở việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ so với nam giới. Nếu không có những qui
định của pháp luật về bình đẳng nam nữ thì những định kiến “hẹp hòi”, “trọng nam khinh
nữ” đang còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội, phụ nữ sẽ gặp nhiều trở ngại, khó khăn
trong việc tham gia vào các hoạt chung của công động đồng xã hội đặc biệt là tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia ứng cử vào các chức danh lãnh đạo và vào quá
trình hoạch định chính sách trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, pháp luật về
bình đẳng giới có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm, bảo vệ và thực hiện quyền bình
đẳng của phụ nữ với nam giới nhằm cải thiện và nâng cao vị thế thấp kém hiện thời của
phụ nữ so với nam giới.
- Thứ tư, pháp lụât bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả
quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
Bảo đảm quyền bình đẳng giới giữa nam và nữ chính là bảo đảm quyền con người
đã được pháp luật qui định và bảo vệ. Trong hệ thống quyền con người, về cơ bản, phụ nữ
cũng được hưởng các cơ hội bình đẳng như nam giới nhưng để có sự bình đẳng thực chất,
phụ nữ phải được bảo đảm thực hiện các quyền đó. Nói cách khác, họ phải được tham gia
trực tiếp và gián tiếp vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội; tham gia vào quá trình kinh tế,
xã hội của đất nước. Do đó, quyền bình đẳng của phụ nữ đối với nam giới là nền tảng, có

tính quyết định việc thực hiện quyền kinh tế xã hội và văn hoá.
Trong khoa học nghiên cứu về bình đẳng giới, những nguyên tắc về bình đẳng giới
được thừa nhận là:
Bình đẳng giới tỷ lệ thuận với phát triển kinh tế, xã hội trong nông nghiệp
và nông thôn; bình đẳng giới nhất quán với quan điểm phát triển trên cơ sở tạo
quyền; bình đẳng giới là biểu hiện của công bằng trong phát triển kinh tế, xã hội
và phát triển con người; phụ nữ và nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai là những
đối tác bình đẳng trong quá trình phát triển của quốc gia [10].


Quá trình phát triển kinh tế Việt Nam những năm vừa qua, là một thực tiễn sinh
động khẳng định vai trò của pháp luật, các văn bản pháp luật của nhà nước Việt Nam trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội đã và đang từng bước tuân thủ và thể hiện rõ nguyên tắc
bình đẳng nam nữ và tôn trọng quyền của phụ nữ. Từ đó, có sự nhìn nhận, đánh giá đúng
vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong nền kinh tế-xã hội. Đổi mới kinh tế đã tạo cơ hội
cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động có năng suất cao hơn và tăng thu nhập, giảm bớt
gánh nặng gia đình cho phụ nữ, phụ nữ có nhiều điều kiện tham gia hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội. Ngoài ra, phụ nữ đuợc tiếp thêm động lực vượt lên những khó
khăn, thử thách của cơ chế thị trường, nữ công nhân, viên chức nổ lực lao động, tích cực
học tập nâng cao trình độ văn hoá tay nghề dưới nhiều hình thức đáp ứng yêu cầu của công
nghệ mới và cơ chế mới. Trong một số lĩnh vực khác, nhiều phụ nữ được phong hàm giáo
sư, phó giao sư, có học vị tiến sĩ, nhiều đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do phụ
nữ làm chủ nhiệm, tỷ lệ phụ nữ giữa các chức vụ lãnh đạo cũng có xu hướng tăng dần. Tuy
vậy, tỷ lệ cán bộ nữ giữ các chức vụ lãnh đạo tại các khu vực ra quyết định, hoạch định
chính sách, giữ các chức vụ quản lý ở các cấp, các ngành còn thấp.
- Thứ năm, pháp luật bình đẳng giới ở Việt Nam bảo đảm thực hiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, phát huy tối đa quyền dân chủ của phụ nữ và nam giới, bảo đảm công bằng
xã hội
Khi nghiên cứu vấn đề bình đẳng giới, không thể không nhìn từ gốc độ pháp luật.
Việc bảo đảm bình đẳng giới bằng pháp luật chính là cơ sở pháp lý để xác lập địa vị pháp

lý bình đẳng cho nam giới và nữ giới, bởi thông qua đó, phụ nữ và nam giới mới được
tham gia vào các quá trình ra quyết định một cách bình đẳng đối với những vấn đề gắn liền
với những lợi ích thiết thân của họ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đó hạn chế và
tiến tới xoá bỏ hoàn toàn những phân biệt đối xử về giới mà phụ nữ thường là những nạn
nhân. Tuy nhiên, bình đẳng ở đây phải là bình đẳng về thực chất và chỉ có bình đẳng về
thực chất mới là cơ sở để bảo đảm bền vững địa vị pháp lý bình đẳng của nữ giới so với
nam giới. Đây là, mối quan hệ biện chứng giữa bình đẳng và pháp luật. Biểu hiện của bình
đẳng giới về thực chất là, phụ nữ và nam giới xác lập được địa vị pháp lý của mình, được
tham gia một cách dân chủ vào mọi hoạt động của đời sống chính trị-xã hội. Ngược lại,


×