Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

LUẬN văn vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của c mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.51 KB, 113 trang )

LUẬN VĂN:

Vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của
C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho
các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình


Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế nước ta đã có nhiều
khởi sắc đáng phấn khởi. Kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng khá cao; cơ cấu
kinh tế đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH); đời sống
của người lao động từng bước được cải thiện... nhân dân ngày càng tin tưởng hơn vào công
cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Các doanh nghiệp (DN) nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào những thành
quả đó. Tuy nhiên trong quá trình đổi mới và phát triển, các DN cũng đang vấp phải nhiều
vấn đề khó khăn, lúng túng đòi hỏi phải có sự lý giải, hướng dẫn của lý luận để tháo gỡ
những khó khăn đó trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là việc vận dụng lý luận
hàng hoá sức lao động (HHSLĐ) của C.Mác như thế nào để đảm bảo nguồn nhân lực cho
các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Kế thừa có sáng tạo những quan điểm của các nhà kinh tế tư sản cổ điển về lý luận
lao động, C.Mác đã nghiên cứu, xây dựng lý luận HHSLĐ. Qua phân tích lý luận HHSLĐ,
C.Mác đã vạch rõ bản chất, mục đích của nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN).
Đồng thời khám phá ra quy luật chi phối sự vận động, phát triển của CNTB.
Như vậy, ở đây sẽ nảy sinh vấn đề là, lý luận HHSLĐ được C.Mác xây dựng trong
nền kinh tế thị trường TBCN, trong lúc đó chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà nền kinh tế này có sự khác biệt về chất so với
nền kinh tế thị trường TBCN. Tuy nhiên, chúng ta có thể vận dụng lý luận HHSLĐ vào quá
trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, bởi vì nước ta đang trong
thời kỳ quá độ lên CNXH không qua chế độ TBCN... Và cũng vì thế, việc vận dụng lý luận


HHSLĐ để đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN nâng cao sức cạnh tranh có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn rất sâu sắc đối với nước ta trong bối cảnh hiện nay.
Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm gần đây, mặc dù các DN đã có đóng góp
không nhỏ vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động,
nhưng năng lực cạnh tranh của các DN ở Quảng Bình hiện còn rất thấp kém. Nhiều DN,
nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) kinh doanh thua lỗ triền miên, đời sống của


người lao động còn nhiều khó khăn, vất vả. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này,
nhưng nguyên nhân quan trọng hàng đầu vẫn thuộc về nguồn nhân lực của các DN. Bởi do:
"Cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, nhiều ngành kinh tế quan trọng còn thiếu công nhân kỹ thuật,
thiếu lao động có tay nghề cao, lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật được đào tạo giữa các
ngành chưa cân đối, tình trạng sử dụng lao động chưa đúng ngành nghề đào tạo còn phổ
biến " [43].
Vì vậy, việc vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho
các DN kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao, góp phần đưa Quảng
Bình "đến năm 2010 thoát nghèo, cùng cả nước ra khỏi tình trạng kém phát triển " [43]
đang trở thành vấn đề cấp bách. Đó là lý do tác giả lựa chọn đề tài: " Vận dụng lý luận
hàng hoỏ sức lao động của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh
nghiệp ở tỉnh Quảng Bỡnh " làm luận văn thạc sĩ Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đến nay, nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn về kinh tế thị trường đã được nhận thức đầy đủ và đúng đắn hơn. Kinh tế
thị trường, trong đó HH SLĐ là sản phẩm của lịch sử, tồn tại một cách khách quan trong quá
trình phát triển của nền sản xuất xã hội, mà ngày nay chúng ta thường gọi là nền kinh tế thị
trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN. Liên quan đến nội dung này đã có nhiều bài viết,
như:
- Nguyễn Quang Hiển (1995), Thị trường sức lao động - Thực trạng và giải pháp,
Nxb Thống kê, Hà Nội.

- Lê Minh Vụ (1993), "Suy nghĩ về hàng hoá sức lao động trong thời kỳ quá độ ở
Việt Nam", Tạp chí Quốc phòng toàn dân, (số 9), tr.29-32.
- Đỗ Hoàng (1990), "Trong thành phần kinh tế XHCN sức lao động có là hàng hoá
không?", Tạp chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-37.
- GS,TS Đỗ Thế Tùng, Một số điểm cơ bản trong lý luận của C.Mác về tiền công và
việc vận dụng vào cải cách tiền lương ở nước ta hiện nay, (Học viện chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh).


- Tống Văn Đường (1993), "Tiền công trong thị trường sức lao động hiện nay", Tạp
chí Lao động và xã hội, (số 2), tr.13-14.
- Phạm Văn Chiến (1990), "Bàn về điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động", Tạp
chí Giáo dục lý luận, (số 7), tr.33-34.
GS,TS Đỗ Thế Tùng, Bàn về cái gọi là "Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam làm
kinh tế tư nhân", (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
Bên cạnh đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn diện về yếu tố con
người và vai trò của nguồn nhân lực ở tầm vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.
Nhưng các bài viết vận dụng lý luận hàng hoá SLĐ vào việc đảm bảo nguồn nhân lực nói
chung và nguồn nhân lực cho các DN nói riêng thì rất hạn hữu.
ở tỉnh Quảng Bình, một số ngành, đơn vị đã có các đề án liên quan đến phát triển
nguồn nhân lực phục vụ công tác chuyên ngành, như: Đề án đào tạo, đào tạo lại đội ngũ
giáo viên; Đề án thành lập trường Cao đẳng kinh tế - kỹ thuật; Đề án giáo dục miền núi; Đề
án phổ cập THCS của Sở Giáo dục- Đào tạo; Quy hoạch mạng lưới đào tạo và thành lập
trường dạy nghề của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội; Đề án khảo sát thực trạng và các
giải pháp xây dựng đội ngũ công chức tỉnh Quảng Bình của Sở Nội vụ...
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đề cập đến nội dung Vận dụng lý luận HH SLĐ của
C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Bình. Do
vậy, tác giả muốn nghiên cứu vấn đề này như một đề tài có tính chất khám phá, chuyên sâu
và có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cơ bản về hàng hoá SLĐ có liên quan
của C.Mác và thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình, luận văn đề xuất
các giải pháp cơ bản vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các DN trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và
xu thế toàn cầu hoá, phát triển nền kinh tế tri thức.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:


- Phân tích những nội dung cơ bản có liên quan và ý nghĩa của lý luận HHSLĐ của
C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Phân tích thực trạng nguồn nhân lực của các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian
qua (từ 2001- 2005 năm) cũng như vai trò của nó và những vấn đề cấp bách đặt ra.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng ý luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo
nguồn nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu lý luận HHSLĐ của C.Mác có
liên quan đến việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN nói chung và vận dụng lý luận này vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các
DN của tỉnh Quảng Bình nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về lý luận: Luận văn tập trung tìm hiểu những nội dung có liên quan cần vận dụng
trong lý luận HHSLĐ của C.Mác phù hợp với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở
Quảng Bình kinh doanh có lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế- xã hội cao.
Về thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực ở 10 DNNN
(trong tổng số 27 DNNN), 20 công ty cổ phần(trong tổng số 87 công ty cổ phần) và 20 DN
tư nhân (trong tổng số 786 DN tư nhân) ở thành phố Đồng Hới và các huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình trong thời gian từ 2001-2005. Từ đó, làm rõ những vấn đề còn hạn chế của
nguồn nhân lực ở các DN này, qua đó xác định những quan điểm, giải pháp cơ bản để tháo

gỡ dựa trên cơ sở vận dụng lý luận HHSLĐ của C.Mác.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được trình bày trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể
hiện trong các văn kiện Đại hội, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương và nghị quyết
của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIV... Ngoài ra luận văn còn sử dụng các tài
liệu tham khảo có liên quan đến đề tài đã được công bố trên các sách, báo, tạp chí.
- Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic kết hợp lịch sử, phương pháp phân


tích, tổng hợp, phương pháp phân tích đối chiếu...để từ đó làm rõ thực trạng nguồn nhân lực
của các DN ở tỉnh Quảng Bình, qua đó xác định sự cần thiết cũng như giải pháp vận dụng lý
luận HHSLĐ của C.Mác vào việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: Luận văn góp phần làm rõ thêm những nội dung cần vận dụng trong lý
luận HHLĐ của C.Mác đối với việc đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN. Cũng qua đó góp
phần lý giải một số vấn đề quan hệ giữa lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Về thực tiễn: Luận văn đáp ứng yêu cầu đòi hỏi cấp bách về việc đảm bảo nguồn
nhân lực cho các DN ở tỉnh Quảng Bình hiện nay nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của các DN ở địa phương trong tình hình mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương, 8 tiết:
Chương 1
Những nội dung cơ bản cần vận dụng
trong lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác
và những vấn đề đặt ra


1.1. Những nội dung cơ bản cần vận dụng trong lý luận hàng hoá sức lao động
của C.Mác nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp
Trước C.Mác chưa có một nhà kinh tế học nào có sự phân rõ ranh giới giữa hai phạm
trù " lao động và sức lao động". Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao động và SLĐ, C.Mác đã
trở thành người đầu tiên trình bày một cách khoa học lý luận về HHSLĐ. Ông đã từng bước
hoàn thiện lý luận này qua nhiều tác phẩm khác nhau và lý luận này đạt đến đỉnh cao trong
bộ Tư bản. Trong tác phẩm này, C.Mác đã thể hiện quan điểm của mình: "người công nhân
bán sức lao động" Ông viết: "Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu
sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán


sức lao động của mình ở trên thị trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường
tận hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là sức lao động" [23, tr.255].
Lý luận HHSLĐ là cơ sở giúp C.Mác xây dựng và phát triển học thuyết giá trị thặng
dư, một học thuyết vạch rõ nguồn gốc và bản chất bóc lột của CNTB và chứng minh sứ
mạng lịch sử của giai cấp công nhân đối với tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài
người.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN vẫn tuân theo những quy luật chung của nền kinh tế thị trường, do đó một bộ phận SLĐ
trở thành hàng hoá, SLĐ trở thành HHSLĐ.
Từ góc độ thực tiễn nguồn nhân lực của các DN ở Quảng Bình, với khả năng nhất
định của mình, tác giả luận văn sẽ tập trung tìm hiểu một số nội dung có liên quan của lý
luận HHSLĐ nhằm đảm bảo nguồn nhân lực cho các DN ở địa phương trong tình hình mới.
1.1.1. Điều kiện xuất hiện hàng hoá sức lao động
Theo C.Mác: Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất
và tinh thần tồn tại trong một cơ thể của một con người đang sống, và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.
Như vậy, SLĐ bao gồm cả lao động cơ bắp và lao động trí óc, cả thể lực và trí lực
chứ không chỉ có lao động thể lực.

Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ
nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống... và có thể phân biệt con người với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sản xuất của mình... như thế là
con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình" [26, tr.29]. Như vậy
SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động, là nhân tố cơ bản và đầu tiên trong mọi
hoạt động xã hội. Tuy nhiên, do bản chất kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau nên việc đánh giá, quan tâm đến nhân tố con người cũng rất khác nhau.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, từ khi có giai cấp, việc quan tâm đến
nhân tố con người từ đời sống vật chất, tinh thần, đến giáo dục, đào tạo, luôn gắn chặt với
quá trình "sử dụng sức lao động của người khác theo một quan hệ người bóc lột người để
tiến hành sản xuất". Nhưng xuất phát từ tiền đề lịch sử nào để chủ sở hữu TLSX có thể sử
dụng SLĐ của người khác? Theo C.Mác "Nếu công nhân dùng toàn bộ thời gian của mình


để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân và cho nòi giống của mình, thì
anh ta không còn thời gian nào để lao động không công cho người khác. Nếu không có một
năng suất nào đó của lao động thì sẽ không có một thời gian rỗi như thế cho người lao động;
nếu không có một thời gian dôi ra như thế, thì cũng không có nhà tư bản, vả lại không có
nhà chủ nô, nam tước phong kiến, nói tóm lại không có giai cấp đại sở hữu" [22, tr.722].
Trong quá trình sản xuất vật chất, năng suất lao động tăng lên do sự phát triển của
phân công lao động và lực lượng sản xuất (LLSX). Và phân công lao động càng phát triển
thì năng suất lao động càng tăng. Mối quan hệ biện chứng này đã tạo cơ sở cho yêu cầu
khách quan và tạo điều kiện vật chất cho phép sử dụng thêm nhiều SLĐ của người khác.
Tuy nhiên, quan hệ người bóc lột người xuất hiện trong quá trình sử dụng SLĐ cần phải có
sự xuất hiện của chế độ tư hữu về TLSX. Bởi vì theo C.Mác "Người nào không có sở hữu
nào khác ngoài sức lao động của mình ra trong mọi trạng thái xã hội và văn hoá, đều sẽ nhất
định làm nô lệ cho những kẻ khác nắm trong tay những điều kiện vật chất của lao động"
[27, tr.27]. Với con người "trần như nhộng", chỉ có SLĐ và không có TLSX ở trong tay thì
chỉ có thể lao động và do đó chỉ sinh sống khi được những kẻ đại chủ sở hữu TLSX bóc lột
lao động thặng dư.

Quyền sở hữu SLĐ và quyền sử dụng SLĐ có sự khác nhau cả về hai mặt định tính
và định lượng. Quyền sở hữu SLĐ cho phép người lao động tự mình quyết định cuộc đời
mình qua việc xác định phương hướng, cách thức sử dụng SLĐ của mình như thế nào. Còn
quyền sử dụng SLĐ cho phép người lao động tìm ra cách thức kết hợp SLĐ với TLSX để
vận dụng SLĐ bản thân trong quá trình sản xuất tạo ra giá trị sử dụng.
Theo C.Mác, SLĐ tồn tại trong cơ thể sống của người lao động và chỉ trở thành hàng
hoá khi chính bản thân người có SLĐ đem bán trên thị trường. Thì người đó phải có khả
năng chi phối được SLĐ đó, do đó "người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của
mình [21, tr.251]. Và như vậy, về mặt hình thức pháp lý người sở hữu SLĐ mới được bình
đẳng với người sở hữu tư bản" thuận mua vừa bán".
"Như vậy, người ta có thể nói đến một cơ sở tự nhiên của giá trị thặng dư nhưng với
một ý nghĩa hết sức chung là: Trong tự nhiên không hề có một trở ngại tuyệt đối nào người
này đem số lao động cần thiết cho sự sinh tồn của bản thân mình trút bỏ khỏi vai mình và
đặt lên vai người khác. Cũng giống như trong tự nhiên không có một trở ngại tuyệt đối nào
ngăn cản thịt của người này trở thành thức ăn của người khác..." [28, tr.1]. Trong mọi xã


hội, lao động đều là yếu tố cơ bản của sản xuất, nhưng SLĐ chỉ trở thành hàng hoá khi có
hai điều kiện sau:
Một là: Người chủ SLĐ "phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó
người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình. Anh ta và
người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách là những người chủ
hàng hoá bình đẳng với nhau..."; "Muốn duy trì quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao
giờ cũng chỉ bán sức lao động đó trong một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt
hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong một lần thì... anh ta trở thành người nô lệ, từ chỗ là người
chủ hàng hoá anh ta sẽ trở thành một hàng hoá" [29, tr.252]. Như vậy, người công nhân làm
thuê chỉ bán quyền sử dụng SLĐ trong một thời hạn nhất định, chứ không bán quyền sở hữu
SLĐ của mình, SLĐ của người công nhân là hàng hoá chứ không phải bản thân người công
nhân là hàng hoá. Trước sau, người công nhân vẫn là chủ sở hữu hàng hoá - SLĐ của mình, do
đó "khi bán sức lao động, anh ta vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy" [30, tr.254].

Hai là: "Người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán những hàng hoá
trong đó lao động của anh ta được vật hoá, mà trái lại, anh ta buộc phải đem bán, với tư
cách hàng hoá, chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong cơ thể sống của anh thôi" [29,
tr.252].
Người công nhân muốn bán những hàng hoá khác với SLĐ của mình thì người chủ
SLĐ phải có TLSX, tư liệu sinh hoạt để tự kết hợp với SLĐ của mình nhằm làm ra những
hàng hoá khác ấy. Nếu họ hoàn toàn không có những vật cần thiết ấy để thực hiện SLĐ của
mình, nói cách khác là trần như nhộng, thì phải bán chính SLĐ ấy. Tuy nhiên, nếu chỉ có
TLSX và tư liệu sinh hoạt nhưng chỉ đủ để thực hiện SLĐ của mình trong một ngày hay
trong một năm chẳng hạn, thì trong những ngày còn lại nếu muốn có thu nhập, tất yếu phải
đi làm thuê, tức là phải đi bán SLĐ, mặc dù "không trần như nhộng"...
Trong thời đại ngày nay, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, hai điều
kiện cho sự ra đời của HHSLĐ vẫn còn nguyên giá trị của nó. Tuy nhiên ở điều kiện thứ hai
là người có SLĐ nhưng không có TLSX, tư liệu tiêu dùng buộc phải bán SLĐ kiếm sống đã
có sự biểu hiện mới. Đó là khi đời sống của công nhân lên cao, họ có tích luỹ và mua được
cổ phiếu của Công ty cổ phần (CP) và như vậy họ trở thành người chủ một phần vốn của
công ty, chủ một phần TLSX và lao động thặng dư của họ được bồi hoàn lại, những người
lao động này không phải không có những TLSX, do vậy SLĐ của họ có tính chất hàng hoá,


chứ không phải HHSLĐ theo đúng nguyên nghĩa mà C.Mác đã định nghĩa. Trường hợp này
hiện hữu trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong các thành phần này,
người lao động đều là người làm chủ tập thể TLSX, vì vậy SLĐ của họ không phải là
HHSLĐ. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự cống hiến của người lao động
vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị
HHSLĐ. Do vậy, SLĐ của người lao động trong kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải
được coi là HHSLĐ để tính toán tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của toàn xã hội.
Bởi vì, đã là tiền lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị HHSLĐ.
Nhưng có điểm khác biệt đó là trong khu vực kinh tế nhà nước phần bồi hoàn cho lao động
thặng dư được coi trọng và có xu hướng tăng lên còn trong khu vực kinh tế tư nhân, do quan hệ

người bóc lột người lao động vẫn còn tồn tại nên phần lao động thặng dư của người lao động
vẫn bị người sử dụng lao động bóc lột trong khuôn khổ pháp luật.
1.1.2. Các thuộc tính của hàng hoá sức lao động
Là một hàng hoá, SLĐ cũng có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của của HHSLĐ là công dụng của nó, cần thiết cho nhu cầu của
người mua và sử dụng nó mà trước hết là khả năng tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá
trị của bản thân nó. Đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư và là chìa khoá để giải đáp mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản. Quá trình sử dụng SLĐ làm thuê cũng là quá trình
làm tăng giá trị.
Giá trị sử dụng của SLĐ của người công nhân là tính có ích cho chủ sở hữu tư bản.
Nhà tư bản cần có SLĐ của người công nhân kết hợp với TLSX của mình để tạo ra các giá
trị sử dụng, tạo ra hàng hoá. Người lao động bán SLĐ bằng cách lao động theo yêu cầu của
người mua. Nhà tư bản tiêu dùng SLĐ là nhằm sử dụng tính có ích của SLĐ. Tính có ích
của SLĐ không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà còn: "Cái có ý nghĩa quyết định
là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó, là cái đặc tính của nó làm một nguồn sinh ra
giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó" [29]. Người
công nhân bán SLĐ thực hiện giá trị trao đổi của SLĐ và nhượng lại giá trị sử dụng của
SLĐ đó. Họ sẽ không thể nhận được giá trị trao đổi mà không chuyển nhượng giá trị sử
dụng. Người mua đã trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ ấy trong một
ngày là thuộc quyền của người chủ tiền và nhượng lại giá trị trao đổi của SLĐ. Theo C.Mác:
Chi phí hàng ngày để duy trì SLĐ và sự tiêu phí SLĐ ấy trong một ngày đó là hai đại lượng


hoàn toàn khác nhau; Đại lượng thứ nhất quyết định giá trị trao đổi của nó, đại lượng thứ hai
tạo thành giá trị sử dụng của nó. Điều này cũng có nghĩa là giá trị của SLĐ là giá trị được
tạo ra trong quá trình sử dụng lao động là hai đại lượng khác nhau. Và chính nhà tư bản đã
nhằm vào sự chênh lệch về giá trị đó khi mua SLĐ, đây cũng là tính có ích thật sự của SLĐ
đối với các nhà tư bản. Tăng năng suất lao động là nguyên nhân của sự chênh lệch giữa hai
đại lượng này. Khi năng suất lao động xã hội đạt đến một mức nhất định nào đó thì chỉ cần
một phần ngày lao động, người công nhân có thể sản xuất ra những giá trị mới tương đương

với giá trị kết tinh trong hàng hoá tư liệu tiêu dùng nuôi sống bản thân anh ta và gia đình
anh ta. Người chủ sở hữu TLSX trả giá trị hàng ngày của SLĐ, vì vậy việc tiêu dùng SLĐ
trong ngày lao động là thuộc quyền của nhà tư bản và như thế, đương nhiên giá trị mới do
việc tiêu dùng SLĐ ấy tạo ra cũng thuộc về nhà tư bản. Nhà tư bản chỉ dùng một phần giá
trị mới trả cho giá trị SLĐ và phần giá trị mới dư ra ngoài giá trị SLĐ ấy bị nhà tư bản
chiếm không được gọi là giá trị thặng dư.
Tuy nhiên, tính có ích của SLĐ được thực hiện tức sẽ tạo ra được giá trị lớn hơn giá
trị bản thân nó khi SLĐ phải hoạt động trong những "điều kiện bình thường". Đó là: Bảo
đảm tính chất bình thường của những yếu tố vật chất của lao động như tư liệu lao động,
nguyên, nhiên, vật liệu đạt trình độ phổ biến bình thường. Bản thân SLĐ cũng phải là một
SLĐ bình thường, nghĩa là trong ngành chuyên môn mà SLĐ ấy được sử dụng, nó phải có
một trình độ trung bình về mặt kỹ năng, sự nhanh nhẹn. Hay nói cách khác, muốn nâng cao
giá trị sử dụng của SLĐ thì phải đầu tư cho người công nhân, họ phải được đào tạo, huấn
luyện những kiến thức nhất định về chuyên môn, nghiệp vụ. Mặt khác, để đảm bảo tính có
ích của SLĐ, nguyên liệu và tư liệu lao động phải được tiêu dùng một cách hợp lý, nếu bị
tiêu phí một cách bất hợp lý thì chúng sẽ không được tính đến và không tham gia vào việc
hình thành giá trị sản phẩm. HHSLĐ là một loại hàng hoá đặc biệt vì giá trị sử dụng của nó
là một giá trị sử dụng độc đáo, trong quá trình sử dụng nó sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị
bản thân nó. Là một loại hàng hoá đặc biệt trong nền sản xuất hàng hoá TBCN nên nó được
mua bán theo một giá cả nhất định, đó là tiền công.
1.1.3. Sự chuyển hoá giá trị sức lao động thành tiền công
Trong nền sản xuất TBCN, giá trị SLĐ được thể hiện ra thành tiền công và điều này
đã đưa đến sự ngộ nhận lượng tiền đó được trả cho một lượng lao động nhất định. Nhưng
thật ra người công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Lao động là " quá trình tiêu dùng


sức lao động... là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất
giữa họ và tự nhiên [29, tr.265-266]. SLĐ là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần
tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng

mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Như vậy SLĐ và lao động có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, SLĐ là khả năng lao động, lao động là sự thực hiện SLĐ trong hiện thực;
nó là sự kết hợp SLĐ với TLSX để tạo ra sản phẩm. Lao động không phải là hàng hoá và
công nhân không bán lao động mà bán SLĐ. Sức lao động của công nhân là hàng hoá và giá
trị của HHSLĐ được thể hiện ra trên bề mặt xã hội dưới hình thức tiền công. Tuy nhiên,
chính sự chuyển hoá của giá trị thành hình thức tiền công đã đưa đến sự ngộ nhận về quan
hệ tự do bình đẳng trong quan hệ mua bán SLĐ giữa chủ sở hữu tiền và người công nhân.
Thực tế, đó là một quan hệ bất bình đẳng giữa nhà tư bản và công nhân làm thuê; vì người
công nhân tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân SLĐ của mình khi được nhà tư bản
sử dụng trong quá trình sản xuất; ngoài ra người công nhân làm thuê luôn phải ứng trước
SLĐ cho nhà tư bản khi nhận được tiền công.
Tiền công có hai hình thức cơ bản: đó là tiền công tính theo thời gian và tiền công
tính theo sản phẩm.
Tiền công tính theo thời gian là sự biểu hiện bằng tiền giá trị hàng ngày, hàng tuần...
của SLĐ. Theo C.Mác: "nếu số lượng lao động hàng ngày hay hàng tuần... đã cho sẵn thì
tiền công ngày hay tiền công tuần phụ thuộc vào giá cả sức lao động, bản thân giá cả này lại
biến đổi cùng với giá trị sức lao động hay cùng với sự chênh lệch của giá cả sức lao động so
với giá trị của nó. Ngược lại, nếu giá cả sức lao động đã cho sẵn thì tiền công ngày hay tiền
công tuần phụ thuộc vào số lượng lao động hàng ngày hay tuần" [29, tr.769]. Khi tiền công
ngày hay tuần tăng thì giá cả SLĐ có thể không thay đổi về danh nghĩa, nhưng nó có thể tụt
xuống dưới mức bình thường của nó. Điều này xảy ra khi giá cả của giờ lao động không
thay đổi nhưng ngày lao động kéo dài quá mức bình thường của nó. Giá cả SLĐ thấp trong
thời gian gọi là bình thường đã bắt buộc người công nhân nếu kiếm được một số tiền công
nói chung tương đối đầy đủ thì phải làm thêm ngoài giờ để được trả công cao hơn. Nhưng
sự hạn chế bằng pháp luật quy định thời gian làm việc trong ngày đã giúp bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho người lao động.


Còn tiền công tính theo sản phẩm là hình thức chuyển hoá của tiền công tính theo
thời gian; hình thức này càng làm cho người ta tin rằng "giá cả của lao động không phải do

phân số giữa giá trị hàng ngày của sức lao động và ngày lao động với một số giờ nhất định
mà là do năng lực công tác của người sản xuất quyết định" [29, tr.777].
Trong thực tế, tiền công tính theo sản phẩm không trực tiếp biểu hiện một quan hệ
giá trị nào cả; với hình thức này người ta không đo giá trị của một đơn vị hàng hoá bằng
thời gian lao động nhập vào hàng hoá đó, mà trái lại hoạt động do người công nhân tiêu phí
lại được đo bằng số lượng hàng hoá do anh ta sản xuất ra... Tiền công tính theo sản phẩm
làm cho chất lượng của lao động được kiểm tra bởi chính ngay sản phẩm của lao động.
Người công nhân làm thuê muốn cho giá cả SLĐ được tính theo sản phẩm được trả đầy đủ
thì phải làm cho sản phẩm có một chất lượng trung bình. Với hình thức này nhà tư bản tiết
kiệm được chi phí quản lý vì chất lượng và cường độ lao động đã được hình thức tiền công
theo sản phẩm kiểm soát. Tiền công tính theo sản phẩm có tính chất ưu việt là thước đo
chính xác để đo cường độ lao động và năng suất lao động. Về cường độ lao động, hình thức
tiền công này kích thích người công nhân muốn có được nhiều tiền công thì phải có nhiều
sản phẩm với chất lượng đúng quy định.
Về năng suất lao động, nếu năng suất lao động tăng lên và các điều kiện khác không
đổi thì tiền công tính theo sản phẩm sẽ giảm, hay: "Tiền công tính theo sản phẩm giảm
xuống theo cùng tỷ lệ tăng lên của số sản phẩm đã sản xuất ra trong cùng một thời gian"
[29, tr.787]. Tiền công theo sản phẩm tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa những người
lao động với nhau do có sự khác nhau về sức khoẻ; trí tuệ, chuyên môn... Nhờ đó mà góp
phần phát triển cá tính, tính độc lập tự chủ, cũng như thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các công
nhân với nhau... Điều này làm cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn.
Trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả SLĐ, cho nên dù tiền công trả theo thời gian
hay theo sản phẩm thì người lao động cũng chỉ nhận được sự trả công cho lao động cần
thiết, còn phần lao động thặng dư thì bị nhà tư bản chiếm đoạn.
1.1.4. Thị trường sức lao động trong nền kinh tế hàng hoá
Người lao động bán SLĐ cho nhà tư bản nhưng không từ bỏ quyền sở hữu SLĐ của
mình, chính vì vậy thực chất của quan hệ mua bán HHSLĐ giữa nhà tư bản và công nhân là
mua bán quyền sử dụng SLĐ trong một thời gian nhất định. Nơi diễn ra quan hệ mua bán



SLĐ này gọi là thị trường sức lao động (TTSLĐ), thị trường lao động hay thị trường việc
làm.
Như đã định nghĩa, SLĐ là toàn bộ thể lực, trí lực, năng lực chuyên môn, phẩm chất
đạo đức tồn tại, phát triển trong một cơ thể sống và được thể hiện ra trong hoạt động lao
động sản xuất của con người. Như vậy, SLĐ theo nghĩa trên là một yếu tố vừa có tính tự
nhiên, vừa có tính xã hội, điều này có nghĩa là SLĐ vừa mang yếu tố di truyền, vừa chịu ảnh
hưởng của quá trình đào tạo, giáo dục và tự đào tạo. Vì thế, nếu người sử dụng lao động
càng chú trọng đến yếu tố xã hội của SLĐ, tức bồi dưỡng nguồn nhân lực thì càng nhanh
chóng thu hút được quá trình lao động với hiệu quả ngày càng cao.
SLĐ khi đã hội tụ những điều kiện cần thiết (đạt đến một giá trị nhất định) thì sẽ trở
thành HHSLĐ. Hàng hoá SLĐ chính là SLĐ của người lao động phục vụ những nhu cầu
SXKD của người chủ lao động theo một hợp đồng thoả thuận và có thời hạn. SLĐ tồn tại
trong cơ thể sống và chỉ thể hiện ra trong quá trình lao động sản xuất, trong quá trình kết
hợp với TLSX để tạo ra một lượng sản phẩm nhất định, hoặc trong hoạt động dịch vụ để tạo
ra những giá trị sử dụng nhất định. Người lao động muốn thể hiện SLĐ của mình, tức muốn thể
hiện thể lực, trí lực, năng lực chuyên môn và phẩm chất đạo đức của mình thì phải thông qua
hoạt động lao động nghĩa là phải có việc làm.
Việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm: Làm các công việc được trả
công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật; công việc tự làm để thu lợi nhuận cho bản
thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó.
Sức lao động, lao động và việc làm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. SLĐ là một
trong những yếu tố của lao động; lao động là sự tiêu dùng SLĐ, nhưng SLĐ phải được thể
hiện qua lao động. Vì thế, muốn đánh giá SLĐ của một người phải dựa vào hoạt động lao
động và kết quả lao động của người đó. Ngược lại, để có một người lao động làm việc có
hiệu quả, trước tiên anh phải có một SLĐ theo yêu cầu của người chủ sử dụng lao động.
Hay nói cách khác muốn hoạt động lao động, người lao động phải có khả năng lao động,
phải có năng lực lao động, năng lực chuyên môn; tất cả đều được thể hiện qua lao động cụ
thể của người lao động. Mà lao động cụ thể là lao động có ích với những sản phẩm nhất
định của ngành nghề chuyên môn nhất định. Nếu không được đào tạo với những ngành nghề



chuyên môn nhất định thì người lao động khó lòng thực hiện tốt công việc của mình theo
khả năng. Hơn nữa họ cũng khó lòng tìm được việc làm.
Việc làm là hình thức sản xuất xã hội của SLĐ. Không có việc làm thì SLĐ không
thể tồn tại về mặt xã hội, mà chỉ tồn tại về mặt sinh học. Khi có một nghề chuyên môn, SLĐ
có điều kiện tồn tại cả về mặt sinh học và cả mặt xã hội. Khi người lao động có việc làm, họ
vừa nâng cao tay nghề, lại vừa hoàn thiện được SLĐ của mình và nhờ đó công việc sẽ đạt
kết quả cao hơn. Khi người lao động và người sử dụng lao động ký kết với nhau về việc
làm, cả hai đều căn cứ vào yêu cầu của hoạt động lao động. Thực ra, hoạt động lao động là
biểu hiện bề mặt xã hội của SLĐ. Chính SLĐ đóng vai trò quyết định đối với hiệu quả của
hoạt động lao động của việc làm. Vì công việc làm hay yêu cầu của người sử dụng lao động
chỉ thực hiện được khi người lao động có SLĐ phù hợp (có sức khoẻ, kỹ năng, kỹ xảo, ý
thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức...) Nhưng kết quả của lao động cũng tác động trở
lại đối với sự tồn tại và phát triển của SLĐ. Ví dụ, nếu anh có kỹ năng thành thạo sửa chữa
máy móc đưa đến hiệu quả thì anh sẽ được thưởng và có cơ hội được đi đào tạo nâng cao
tay nghề, và vị trí công việc của anh sẽ bền vững hơn.
Như vậy, thực chất việc mua bán giữa người lao động và người sử dụng lao động là
mua bán quyền sử dụng SLĐ phù hợp với yêu cầu của việc làm, không mua bán bản thân
SLĐ vì đó là cơ thể sống của người lao động và đương nhiên cũng không mua bán được lao
động. Như chúng ta biết, hoạt động lao động SXHH của người lao động có tính chất hai mặt
là lao động cụ thể và lao động trừu tượng, cả hai cùng thể hiện trong việc làm chứ không
phải chỉ có lao động cụ thể mới biểu hiện trong việc làm. Như vậy, nói mua bán trên thị
trường không phải là lao động trừu tượng mà là lao động cụ thể, là lao động thể hiện thành
việc làm thì đã nhìn nhận sự việc một cách phiến diện không thừa nhận lý luận tính chất hai
mặt của LĐSX của C.Mác. Từ mối quan hệ của các khái niệm SLĐ, lao động và việc làm ta
thấy rằng các yếu tố này thể hiện trên thị trường chỉ cùng một mối quan hệ: mua bán quyền
sử dụng SLĐ giữa người lao động và người chủ lao động.
Những ai bán quyền sử dụng SLĐ của mình cho người khác thì đó là người lao
động(người làm thuê). Nhưng nếu SLĐ của người làm thuê được sử dụng trong quá trình

lao động sản xuất để đem lại một giá trị lớn hơn giá trị bản thân SLĐ, và cá nhân người lao
động không có quyền chi phối phần chênh lệch thì những người làm thuê này thuộc về giai
cấp công nhân. Còn những ai mua quyền sử dụng SLĐ của người khác thì đó là người sử


dụng lao động. Những người này chiếm đoạn không bồi hoàn phần chênh lệch giữa giá trị
mới và giá trị SLĐ thì thuộc về giai cấp tư sản. Còn người sử dụng nào mà sử dụng phần giá
trị chênh lệch (C.Mác gọi là giá trị thặng dư) vào những công việc chung của xã hội thì đó
chính là các tổ chức kinh tế tập thể hoặc các doanh nghiệp nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, do điều kiện
thực tế, mọi thành viên đều trở thành người lao động cùng làm chủ tập thể, tuy vậy bên cạnh
đó vẫn còn một bộ phận thành viên trong xã hội phải bán SLĐ cho một bộ phận thành viên
khác... Quan hệ mua bán SLĐ giữa người lao động và người sử dụng SLĐ diễn ra trên
TTSLĐ.
TTSLĐ là nơi diễn ra mua bán HHSLĐ giữa người sử dụng lao động và người lao
động, là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về HHSLĐ. Sự biến động cung cầu về HHSLĐ luôn
gắn bó chặt chẽ với chu kỳ phát triển của nền kinh tế.
Trên thị trường SLĐ, quan hệ lao động giữa nhà tư bản và công nhân được thực hiện
theo một hợp đồng, trong đó người bán phải ứng trước việc sử dụng SLĐ cho người mua
trước khi nhận tiền lương "người lao động đều ứng trước giá trị sử dụng của sức lao động
của mình cho nhà tư bản, anh ta để cho người mua tiêu dùng sức lao động của mình trước
khi nhận được giá cả của nó" [29, tr.260-261]. Điều này phù hợp với quy luật: "Sản xuất
hàng hoá càng phát triển thành nền sản xuất TBCN theo đúng những quy luật bên trong của
bản thân nó, thì các quy luật sở hữu của bản thân nền sản xuất hàng hoá lại càng biến thành
những quy luật chiếm hữu tư bản chủ nghĩa [29, tr.828]. Về hình thức hợp đồng lao động
giữa công nhân và nhà tư bản, nhìn bề ngoài có vẻ thuận mua vừa bán nhưng bên trong chứa
đựng quan hệ bóc lột. Bởi vì, khi còn là tư cách "chủ hàng đối diện với chủ hàng" thì "cái
giao kèo theo đó anh ta bán sức lao động của mình cho nhà tư bản đã chứng minh bằng giấy
trắng mực đen rằng anh ta tự do định đoạn bản thân mình" [29, tr.439]. Nhưng khi mua bán
xong rồi anh ta sẽ không còn tự do nữa. Bởi, thời gian đó anh ta tự do bán SLĐ của mình là

thời gian anh ta buộc phải bán SLĐ đó, và trong thực tế "khi nó còn có thể bóp nặn được
một mớ thịt, một đường gân, một giọt máu". Vì thế, để chống lại sự bóc lột, công nhân phải
hợp nhất lại "với tư cách là một giai cấp, họ buộc nhà nước phải ban hành một đạo luật, để
làm một chướng ngại mạnh mẽ ngăn cản ngay chính bản thân họ, thông qua một hợp đồng
tự nguyện với tư bản, tự bán mình và bán nòi giống mình vào chỗ chết chóc và nô lệ" [29,
tr.439-440]. Tuy nhiên, trong thời kỳ phát sinh có tính chất lịch sử của nền sản xuất TBCN


thì giai cấp tư sản đang cần đến quyền lực nhà nước, và đã dùng quyền lực nhà nước để
"điều hoà" tiền công, nghĩa là bắt buộc tiền công ở trong những giới hạn thích hợp cho việc
bòn rút giá tị thặng dư của người công nhân.
Trên thị trường SLĐ, chứa đựng quan hệ cạnh tranh giữa người bán SLĐ và người
thuê lao động. Điều này được thể hiện ở mức độ cung cầu giữa SLĐ trên thị trường. Lao
động quá mức của bộ phận có việc làm trong giai cấp công nhân làm tăng thêm hàng ngũ
đội quân trù bị của giai cấp công nhân. Vì vậy, áp lực của đội quân trù bị càng tăng lên
mạnh mẽ đối với công nhân có việc làm buộc họ lao động quá mức và phục tùng mọi mệnh
lệnh của chủ sở hữu. Do đó, tạo ra một cuộc cạnh tranh buộc bộ phận này của giai cấp công
nhân thất nghiệp, một bộ phận khác giữa lao động quá mức và ngược lại đã trở thành một
thủ đoạn làm giàu của các nhà tư bản cá biệt và đồng thời thúc đẩy nhanh việc sản xuất ra
"đội quân công nghiệp trù bị" theo một quy mô tương ứng với sự tiến triển của tích luỹ xã
hội.
Sự cạnh tranh giành công việc giữa công nhân với nhau "khiến cho nhà tư bản có thể
giảm giá cả sức lao động xuống, điều này giúp cho nhà tư bản có thể kéo dài thời gian lao
động hơn nữa" [29, tr.774]. Nhưng với thời gian, khả năng sử dụng số lượng lao động
không công bất bình thường, tức vượt quá mức trung bình xã hội trở thành công cụ cạnh
tranh giữa các nhà tư bản với nhau. Và chính sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, giữa
công nhân với nhà tư bản đi dần vào tình trạng tha hoá lao động.
1.1.5. Sự tha hoá lao động trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa
Trong chế độ TBCN các phương pháp bóc lột giá trị thặng dư đều dựa vào SLĐ của
người công nhân. Điều này làm cho người lao động trở nên què quặt, biến họ thành con

người bộ phận, hạ thấp nhân cách, bắt công nhân phụ thuộc vào máy móc, làm cho lao động
của họ mất hết nội dung bằng cách biến nó thành một cực hình... "Người lao động trong quá
trình lao động phải phục tùng một sự chuyên chế nhỏ nhen, đáng ghét nhất, biến toàn bộ
cuộc đời của người lao động thành thời gian lao động" [29, tr.394]. Và đương nhiên các nhà
tư bản cũng không bao giờ quan tâm đến sức khoẻ và tuổi thọ của người công nhân, nếu xã
hội không cưỡng bách nó phải quan tâm đến. Quan hệ sản xuất TBCN đã đặt công nhân vào
tình trạng bị động, tách rời các điều kiện thực tế của bản thân họ và cả các TLSX. Theo
C.Mác: giá trị TLSX tăng lên hay giảm xuống cũng chẳng liên quan gì mấy đến mối quan


hệ của công nhân với nhà tư bản, bởi vì những TLSX ấy cũng đồng thời là phương tiện bóc
lột lao động.
Sự tha hoá của lao động trong nền sản xuất hàng hoá TBCN xuất phát từ chế độ tư
hữu về TLSX. Chính chế độ tư hữu về TLSX đã làm cho lao động vật hoá mà người công
nhân đem SLĐ sống của mình đổi lấy đã trở thành một lực lượng không những đối lập với
chính bản thân anh ta, mà còn thậm chí thống trị anh ta, thống trị anh ta chính nhờ hoạt
động của anh ta.
Sự tha hoá lao động ở đây xảy ra trong các mối quan hệ: Một là, quan hệ của công
nhân với sản phẩm lao động như một vật xa lạ và thống trị anh ta, bởi vì sản phẩm anh ta
làm ra không phải do chính anh ta định đoạt... Hai là, quan hệ của công nhân đối với hoạt
động xa lạ không thuộc về anh ta, vì anh ta không tự nguyện thể hiện sự năng động, sáng
tạo trong hoạt động kinh doanh. Tha hoá lao động làm cho người công nhân, chức năng hoạt
động lao động của họ trở thành xa lạ ngay chính với họ.
Như vậy, muốn giải phóng SLĐ, xoá bỏ tình trạng tha hoá lao động, làm cho người
lao động quan tâm đến bản thân mình, đến hoạt động sáng tạo và kết quả lao động của chính
mình thì phải xoá bỏ chế độ tư hữu TBCN về TLSX. Hình thức công ty cổ phần (CP) sẽ góp
phần giải quyết việc đó.
Trong các công ty CP sẽ xuất hiện sự tập trung xã hội về TLSX và SLĐ, điều này
làm cho tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân, do đó những xí nghiệp tập thể sẽ đối lập
với xí nghiệp tư nhân. Theo C.Mác: "sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong

những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [29, tr.667]. Với sự
phát triển của phương thức sản xuất TBCN đã biến nhà tư bản từ chỗ là người điều khiển
sản xuất trở thành chủ sở hữu thuần tuý, thành những nhà tư bản tiền tệ thuần tuý. Và do đó,
lợi tức mà họ có được chỉ giản đơn với tư cách là một số tiền thù lao trả cho quyền sở hữu
tư bản. Như vậy, quyền sở hữu tư bản bây giờ đã hoàn toàn tách rời với chức năng của tư
bản trong quá trình tái sản xuất thực tế. Hay nói cách khác, lợi nhuận chỉ biểu hiện ra là sự
chiếm hữu lao động thặng dư của người khác, là kết quả của sự chuyển hoá TLSX thành tư
bản, nghĩa là tình trạng TLSX tách rời những người thật sự sản xuất với tư cách là sở hữu
của người khác, đó là các chủ sở hữu tư bản. Trong trường hợp này giám đốc cũng chỉ là
người làm thuê cho chủ sở hữu... Trong các công ty CP, chức năng tư bản tách rời quyền sở
hữu tư bản, vì thế tư bản cũng vậy, nó hoàn toàn tách rời với quyền sở hữu về TLSX và về


lao động thặng dư. Theo C.Mác đó là sự phát triển cao nhất của nền sản xuất TBCN, là
điểm quá độ tất nhiên để tư bản chuyển thành sở hữu của những người sản xuất với tư cách
là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp. Những nhà máy có tính chất liên hiệp với tính
chất hợp tác đó sẽ phát triển đến một giai đoạn nhất định nào đó sẽ có một sự thay đổi tương
thích... Công nhân trong các loại nhà máy đó "thành nhà tư bản đối với chính bản thân
mình"... nghĩa là họ có thể dùng tư liệu sản xuất để bóc lột lao động của chính họ. Những
nhà máy hợp tác đó là tiền đề cho một phương thức sản xuất mới thay thế phương thức sản
xuất cũ.
Qua những nội dung cơ bản trong lý luận HHSLĐ của C.Mác, thấy rằng đây là lý
luận nền tảng cho học thuyết bóc lột của ông. Theo quan điểm của C.Mác, thì lao động là
nguồn gốc quan trọng nhất tạo ra mọi của cải vật chất. Khi đến một giai đoạn phát triển nhất
định nào đó của xã hội loài người, nhờ phân công lao động, tăng năng suất lao động, lao
động của con người vượt khỏi giới hạn tất yếu sản xuất ra những sản phẩm cần thiết tái sản
xuất SLĐ của mình để hình thành lao động thặng dư tạo ra sản phẩm thặng dư.
Trong lý luận HHLĐ của mình, C.Mác đã trình bày nguồn gốc, điều kiện xuất hiện
HHSLĐ; làm rõ hai thuộc tính của HHSLĐ, đặc biệt làm rõ giá trị sử dụng độc đáo của
HHSLĐ; đó là khả năng tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó khi được sử dụng

vào trong quá trình sản xuất. Do bản chất của sản xuất hàng hoá TBCN là bóc lột lao động
nên đã làm cho người công nhân rơi vào tình trạng tha hoá lao động. Và để xoá bỏ tình trạng
tha hoá người lao động, giải phóng sức lao động, xoá bỏ dần quan hệ người bóc lột người,
theo C.Mác có con đường trung gian vừa giúp người lao động gắn bó với quá trình sản xuất,
có ý thức làm chủ, năng động sản xuất... đó chính là xây dựng và phát triển các công ty CP
và thực hiện chế độ tín dụng.
1.2. Thực tiễn vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động đảm bảo nguồn nhân lực
ở nước ta trong thời gian qua
Mục tiêu của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng ta lãnh đạo là " đưa con
người từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do", là xây dựng mọt xã hội mới tiến bộ,
công bằng, văn minh - xã hội XHCN, một xã hội trong đó người lao động phải được giải
phóng khỏi nạn người bóc lột người và họ thực sự trở thành người làm chủ đất nước. Và
cũng do vậy, khi chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta
xác định đây là một quá trình khó khăn, lâu dài.


Chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá (KTHH) nhiều thành phần, Đảng ta xác
định người lao động là vốn quý nhất. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, các nhóm nguồn lực
cơ bản cho sự phát triển, đó là nguồn lực vốn; nguồn lực lao động; nguồn lực tài nguyên
thiên nhiên và nguồn lực khoa học -công nghệ thì nguồn lực lao động vẫn được xác định là
yếu tố quyết định nhất cho sự phát triển. "Sử dụng một cách chủ động, thích đáng thị
trường, giá cả tiền lương, tín dụng để nâng cao chất lượng của kế hoạch, làm cho việc xây
dựng và thực hiện kế hoạch được tốt hơn và trong một chừng mực nhất định bổ sung cho kế
hoạch" [7]. Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước bắt tay vào xây dựng CNXH, Đảng ta đã
thừa nhận sự tồn tại và phát triển của nền SXHH, đã nhận ra sự tương quan giữa kế hoạch
và thị trường, tuy nhiên vẫn chú trọng nhiều hơn đến yếu tố kế hoạch, yếu tố năng suất lao
động mà chưa chú ý nhiều đến yếu tố thị trường. Thực tế từ những năm 1980 trở đi, với sự
phát triển SXHH đã cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của thị trường, nhất là giá cả đến việc
tính toán tiền lương, nên chúng ta vẫn tiếp tục cải tiến tiền lương. Nhưng vì chưa xác định
được vai trò của thị trường trong nền SXHH nên vấn đề tiền lương cũng chưa thoát khỏi

tính chất bao cấp. Do vậy, người lao động chưa nhận được tiền lương phản ánh đúng với giá
trị SLĐ. Như vậy, với việc cải cách tiền lương, là yếu tố khởi điểm cho một cách nhìn đúng
đắn về hàng hoá sức lao động.
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 - 1986, quan điểm về
SLĐ đã được nhận thức lại một cách đúng đắn hơn. Trong thời kỳ lịch sử này, Đảng ta đã
thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa SLĐ và việc làm: " Trong xã hội ta, còn nhiều người có sức lao
động chưa có việc làm và chưa sử dụng hết thời gian lao động. Khả năng thu hút lao động của
khu vực nhà nước trong những năm trước mắt còn có hạn. Cũng không thể đưa tất cả những
người làm ăn cá thể vào các tổ chức kinh tế tập thể trong một thời gian ngắn" [8]. Từ nhận định
như vậy, Đảng ta chỉ ra phương hướng giải quyết mối quan hệ giữa SLĐ và việc làm, đó là
nhà nước đã có chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm bằng cách khuyến khích
phát triển kinh tế gia đình, khai thác tiềm năng của các thành phần kinh tế khác ngoài thành
phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Điều đó cũng có nghĩa, Đảng ta đã thừa nhận nền
SXHH nhiều thành phần và tất yếu là thừa nhận sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế
dựa trên sự biến động của giá cả thị trường. Sự đổi mới tư duy về kinh tế thể hiện ở chỗ xoá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng một cơ chế quản lý kinh tế mới mà tính kế
hoạch được coi trọng nhưng sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, tiền tệ... Thực chất của cơ


chế quản lý kinh tế mới là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh
XHCN. Trong nền SXHH, các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất đều phải được hạch
toán đầy đủ vào chi phí sản xuất. Do vậy, yếu tố SLĐ, yếu tố cơ bản và đóng vai trò quan
trọng trong nền SXHH cần phải được coi là hàng hoá.
Thực tiễn của quá trình phát triển nền SXHH cùng với sự mở rộng của các
loại thị trường đã định hình dần trong nền KTHH nhiều thành phần theo định hướng XHCN
ở nước ta. Và lần đầu tiên trong nhận thức lý luận của mình, thể hiện trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đảng ta thừa nhận có thị trường lao động
trong nền kinh tế quốc dân và điều đó cũng có nghĩa đã thừa nhận có sự tồn tại của HHSLĐ.
Nhờ việc hình thành một thị trường khá đồng bộ và thông suốt trong cả nước, người
lao động ở nước ta được giải phóng khỏi sự ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát

huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, chủ động hơn trong
việc tìm kiếm việc làm, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Về mặt quản lý nhà nước, trong thời kỳ chuyển đổi ban đầu, Nhà nước ta đã chú
trọng hơn đến việc điều hành nền kinh tế nói chung và quan hệ lao động nói riêng bằng
pháp luật. Sau Đại hội VI của Đảng, nhiều văn bản pháp luật quan trọng trong các lĩnh vực
dân sự, kinh tế, lao động được ban hành, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế
thị trường. Trong đó, các văn bản pháp luật thừa nhận quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu
vốn, tư liệu sản xuất và tài sản hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Với việc thừa nhận quyền
tự do kinh doanh là việc thừa nhận quyền tự do tuyển chọn và sử dụng lao động phù hợp với
yêu cầu SXKD của từng doanh nghiệp (DN) đã tạo điều kiện cho DN được tự chủ hơn trong
SXKD, tạo công ăn việc làm cho người lao động và làm nghĩa vụ đối với nhà nước. Như
vậy Nhà nước ta đã gián tiếp thừa nhận quyền tự do bán SLĐ. Điều này được thể hiện trong
các văn bản pháp lý sau: Quyết định 217/HĐBT ngày 14/11/1987 của Hội đồng Bộ
trưởng(nay là chính phủ) cho phép các xí nghiệp quốc doanh chuyển dần từ chế độ tuyển
dụng biên chế nhà nước sang chế độ hợp đồng lao động. Giám đốc có quyền chấm dứt hợp
đồng lao động hoặc cho thôi việc nếu người lao động vi phạm hợp đồng đã ký. Pháp lệnh
"Hợp đồng lao động" ngày 30/8/1990 đã thừa nhận phương thức tuyển chọn và sử dụng lao
động mới phù hợp với nền kinh tế thị trường, trong đó đề cao sự thoả thuận về lợi ích của
người lao động và người sử dụng lao động. Hiến pháp năm 1992 của nước ta thừa nhận
quyền tự do SXKD của công dân, qua đó tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ thuê mướn lao động


được phát triển. Sau đó, Bộ Luật lao động ban hành ngày 5/7/1994 đã cụ thể hoá các quy
định của Hiến pháp năm 1992 về lao động và quản lý lao động. Bộ luật lao động bảo vệ lợi
ích của người lao động và người sử dụng lao động, thể hiện ở chỗ đã giúp cho quan hệ thuê
mướn lao động (thực chất là SLĐ) được đặt dưới sự quản lý của nhà nước.
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, dù hoạt động
trong thành phần kinh tế nào thì người lao động cũng là thành viên của một xã hội đang xây
dựng chế độ sở hữu công cộng về TLSX chủ yếu. Hay nói cách khác người lao động là
người đồng sở hữu với nhà nước về TLSX. Ngoài ra, người lao động ở nước ta vẫn có

quyền sở hữu tài sản, có quyền mua cổ phần công ty, doanh nghiệp khi có điều kiện.
Trong thời đại khoa học, công nghệ phát triển, công nhân còn sở hữu một vốn quý đó
là trí tuệ, điều mà C.Mác đã dự báo khi nói về vai trò của lao động trí óc trong nền kinh tế
khi mà khoa học sẽ trở thành LLSX trực tiếp.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay người lao động không hẳn
mất hết TLSX, mà còn có những quyền nhất định. Ngoài ra, điều kiện người lao động được
tự do thân thể có quyền bán SLĐ trong quan hệ bình đẳng với người sử dụng lao động. Hiến
pháp năm 1992 và Bộ Luật lao động thừa nhận: Mọi công dân có quyền tự do kinh doanh
theo quy định của pháp luật. Mọi công dân được tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có
quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật. Hiến pháp đã
tạo điều kiện cho người sử dụng lao động được tự do thuê lao động và người lao động được
tự do di chuyển để tìm việc làm phù hợp. Luật lao động cũng cho phép mọi người đều có
quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ
chuyên môn, nghề nghiệp. Bộ luật lao động đã xác lập quan hệ bình đẳng, hợp tác, tôn trọng
quyền và lợi ích hợp pháp giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển SXHH cần phải có một nguồn nhân
lực phù hợp, điều đó đã thúc đẩy các điều kiện xuất hiện HHSLĐ ở nước ta trong thời kỳ
đổi mới và lý luận HHSLĐ của Mác cũng được vận dụng để thúc đẩy sự ra đời của thị
trường SLĐ ở nước ta hiện nay.
Một trong những biểu hiện đó được thể hiện ở chính sách giáo dục đào tạo, chính
sách khoa học, công nghệ, hệ thống thông tin việc làm. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần đã thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển, qua đó làm thay đổi chính sách giáo dục,


đào tạo. Chính sách đổi mới nền kinh tế đã tác động đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo và sự đa
dạng hoá các loại trường lớp đã cho phép hình thành các loại trường bán công, dân lập và
nhiều trường dạy nghề tư nhân... Ngoài hình thức giáo dục chính quy, ở nước ta đã xuất
hiện các hình thức không chính quy như đào tạo từ xa, đào tạo tại chức ban ngày, ban đêm,
du học tại chỗ, du học tự túc và tương lai không xa sẽ đào tạo qua mạng ở những bậc học
cao hơn nữa.

Cùng với chính sách giáo dục - đào tạo, Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng
chính sách khoa học, công nghệ. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoáVIII) đã ra nghị quyết 02/HNTW (ngày 24/12/1996) "về định hướng chiến lược phát
triển khoa học công nghệ trong thời kỳ CNH,HĐH đến năm 2000" và gần 4 năm sau Luật
khoa học và công nghệ đã được Quốc hội khoá X, họp kỳ thứ 7 thông qua ngày 9/6/2000.
Tuy nhiên, với thực trạng Việt Nam đang thiếu những cán bộ, chuyên gia đầu đàn
nên việc đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ cao sau đại học phù hợp với hoàn cảnh Việt
Nam đang là một đòi hỏi cấp bách và phải được ưu tiên đầu tư, nhất là trong thơi kỳ CNH,
HĐH và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức.
Cùng với các chính sách trên, chính sách đào tạo nghề cũng được nhà nước quan
tâm. Hệ thống đào tạo nghề ngày càng mở rộng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường. Từ khi tái thành lập Tổng Cục dạy nghề vào cuối năm 1998, đến nay đã hình thành
nhiều hệ thống cơ sở dạy nghề rộng khắp trong cả nước. Nhiều trường dạy nghề được trang
bị thiết bị dạy học hiện đại, đội ngũ giảng viên ngày càng đông về số lượng và nâng cao về
chất lượng. Đến nay hầu hết các tỉnh, thành phố đã thành lập bộ phận quản lý đào tạo nghề.
Tuy vậy, trong nền kinh tế thị trường đang phát triển hiện nay, yêu cầu chất lượng
đào tạo nghề rất cao, trong lúc đó ngành đào tạo nghề chưa đáp ứng được. Nhiều DN cho
rằng chất lượng đào tạo tay nghề của công nhân còn kém, chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ
SXKD. Nguyên nhân do thiếu sự kết hợp giữa cơ sở đào tạo và DN. Cơ sở đào tạo không
nắm được nhu cầu từ các nhà DN; trong lúc đó bản thân các nhà DN cũng chưa thực sự đầu
tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực của đơn vị mình. Trong thực tế, để một DN phát triển
không chỉ đơn thuần là đầu tư trang thiết bị hiện đại, mà quan trọng hơn là cần phải đầu tư
chất xám, nâng cao tay nghề cho công nhân, đặc biệt là kỹ năng và tính chuyên nghiệp của
người lao động.


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chính sách giáo dục- đào tạo, khoa học, công
nghệ và chính sách đào tạo nghề của chúng ta cần phải phối hợp nhịp nhàng để tạo ra một
cơ cấu nhân lực hợp lý nhằm đáp ứng được yêu cầu của CNH,HĐH. Hiện nay, cơ cấu nhân
lực về trình độ, nghề nghiệp của ta còn mất cân đối nghiêm trọng. Bởi do hệ thống giáo dục

đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngày càng tăng về số lượng và quy mô đào tạo,
còn số lượng trường và quy mô đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề bậc 3/7
ngày càng giảm. Tình hình đó làm cho cơ cấu lao động ngày càng bất hợp lý như người ta
thường nói là thầy nhiều hơn thợ. ở các nước đang phát triển cơ cấu nguồn nhân lực thông
thường là 1 đại học- 4 trung học chuyên nghiệp - 15 công nhân kỹ thuật. Nhưng ở nước ta
thì tỷ lệ này thấp hơn nhiều làm cho cơ cấu nhân lực trong nền kinh tế mất cân đối nghiêm
trọng (năm 2000: cơ cấu nhân lực về trình độ, nghề nghiệp thể hiện: Đại học và trên đại
học: 1 người; trung học chuyên nghiệp 4 người và công nhân kỹ thuật: 10 người [10]. Với
nguồn cung về lực lượng lao động bất cập như vậy, để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
CNH,HĐH đất nước cần phải thực hiện tốt chính sách giáo dục- đào tạo; qua đó đảm bảo số
lượng, chất lượng HHSLĐ ngày càng phù hợp với nhu cầu lao động.
Cung và cầu về HHSLĐ phải gặp gỡ nhau trên thị trường SLĐ. Để tạo được sự gặp
gỡ này cần phải thông qua hệ thống thông tin lao động việc làm.
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì
hệ thống thông tin lao động việc làm cũng từng bước hình thành và ngày càng có vai trò
quan trọng. Hệ thống thông tin lao động việc làm là phương tiện thông tin phổ biến, hiện
đại làm cầu nối giữa cung và cầu về HHSLĐ, giữa người sử dụng SLĐ và người lao động
trong nền kinh tế thị trường. Đó là sự phối hợp hoạt động thông tin giữa các Trung tâm (TT)
dịch vụ việc làm với các DN, các cơ quan chức năng của Chính phủ với nhu cầu của người
lao động nhằm làm cho cung cầu về nguồn nhân lực tương thích nhau đến mức cao nhất có
thể có và giảm tỷ lệ thất nghiệp đến mức thấp nhất có thể được.
Trong thời gian qua, ở nước ta các TT dịch vụ việc làm đã tự phát xuất hiện theo yêu
cầu của nền kinh tế thị trường. TT dịch vụ việc làm là một đơn vị sự nghiệp có chức năng
cơ bản là tư vấn, cung cấp thông tin cho người sử dụng lao động và người có nhu cầu lao
động về xu hướng học nghề, về việc làm, về khả năng tuyển dụng, về nguồn nhân lực đáp
ứng theo yêu cầu. Ngoài ra, cũng cung cấp thông tin cho các đơn vị hành chính sự nghiệp,
các cơ quan quản lý nhà nước về lao động... Để định hướng cho sự phát triển loại hình này,


Chính phủ đã ra Thông tư số 72/CP ngày 31/10/1995 "Quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Bộ luật Lao động về việc làm". Tuy nhiên, thực trạng phát triển các
TT dịch vụ việc làm vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần phải quan tâm.
Với sự xuất hiện phong phú, đa dạng các loại hình dịch vụ việc làm đã có tác dụng
tích cực đối với sự phát triển kinh tế. Đó là các TT dịch vụ việc làm và tư vấn dạy nghề,
giới thiệu việc làm và cung ứng lao động cho nhiều DN; Chuyển giao công nghệ cho hàng
chục vạn nông dân. Hoạt động dịch vụ việc làm ở nước ta đã góp phần thúc đẩy thị trường
lao động phát triển, làm cho cơ cấu kinh tế dần dần chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH,
nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo, góp phần đáp ứng nhu cầu lao động cho các khu công
nghiệp, khu chế xuất, các DN và các nhu cầu lao động khác.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các TT dịch vụ việc làm cũng có những hạn chế nhất định:
Bởi do nhiều TT dịch vụ việc làm ra đời trên cùng một địa bàn, lại thiếu sự quy hoạch sắp
xếp hợp lý nên sự phối hợp hỗ trợ nhau rất hạn chế, ngược lại tạo nên sự cạnh tranh không
lành mạnh. Tình trạng thành lập và hoạt động không đúng luật về dịch vụ việc làm vẫn còn
tồn tại và là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay cần phải giải quyết để làm lành mạnh
hoá thị trường dịch vụ việc làm. Do vậy, Bộ LĐ-T B &X H đã ra Thông tư số 08/LĐ-T B&
X H /TT ngày 10/3/1997 để "Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của TT dịch vụ việc làm
theo Nghị định 72/CP của Chính phủ".
Cùng với các TT dịch vụ việc làm, các hình thức phong phú nhằm nối kết cung và
cầu về HHSLĐ cũng xuất hiện, nhiều hội chợ việc làm, diễn đàn việc làm trên một số tờ
báo do sự phối hợp với các DN với việc cung cấp thông tin cho cả người lao động lẫn người
sử dụng lao động đã đưa lại những kết quả nhất định.
Hệ thống thông tin lao động và việc làm với nhiều hình thức phong phú đã giúp
người lao động và người sử dụng lao động gặp gỡ nhau. Cả hai sẽ bình đẳng với nhau trong
ký kết hợp đồng lao động. Và cơ sở chủ yếu cho sự bình đẳng này chính là giá cả SLĐ.
Giá cả SLĐ là biểu hiện bằng tiền của giá trị SLĐ, đó chính là tiền lương mà người
sử dụng lao động trả cho người lao động. Điều này được Đảng ta vận dụng để tăng năng lực
sản xuất, xây dựng nguồn nhân lực cho nền kinh tế.
Về cải cách tiền lương, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần 8(khoá V năm 1985)
đã nêu rõ: Tiền lương thực tế phải thật sự đảm bảo cho người ăn lương sống chủ yếu bằng
tiền lương, tái sản xuất được SLĐ và phù hợp với khả năng của nền kinh tế quốc dân. Tiền



×