Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

LUẬN văn một số giải pháp thực hiện chuyển dịch CCKT tại thị xã uông bí, tỉnh quảng ninh giai đoạn 2005 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (873.88 KB, 88 trang )

LUẬN VĂN:
Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch
CCKT tại thị xã ng Bí, tỉnh Quảng Ninh
giai đoạn 2005-2010


Lời mở đầu

Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thực hiện CHN- HĐH đất nước.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định, thực hiện CNH- HĐH là con đường hiệu quả nhất để đưa
Việt Nam thoát khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế xã hội cũng như phát triển đất nước lên một
tầm cao mới. Và một trong những nội dung quan trọng của q trình CNH- HĐH đó là việc
tiến hành xây dựng một CCKT hợp lý trên phạm vi cả nước và ở mỗi địa phương. Cùng chung
tinh thần với cả nước, tỉnh Quảng Ninh cũng xác định những nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
của tỉnh đến năm 2010 trong đó có nhấn mạnh đến việc xây dựng một CCKT hồn thiện và có
hiệu quả cao. Đây được coi là một đòi hỏi tất yếu trong bối cảnh hội nhập và phát triển hiện
nay.
Xuất phát từ xu thế chung và những địi hỏi thực tế của q trình phát triển đất nước,
đồng thời quán triệt tinh thần chỉ đạo của TW cũng như của tỉnh Quảng Ninh, Thị xã Uông Bí
cũng xem việc thực hiện chuyển dịch CCKT là một nhiệm vụ quan trọng trong tiến trình phát
triển kinh tế của thị xã. Từ lâu, thị xã ng Bí đã giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển
kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ninh. Trong những năm qua, thực hiện đường lối đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế của Đảng, thị xã ng Bí đã phát huy thế mạnh, khắc phục những khó khăn,
thách thức để thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. CCKT công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ
chuyển dịch theo hướng: giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Đây
là sự chuyển biến phù hợp với xu hướng vận động có tính qui luật của q trình chuyển dịch
CCKT đã từng diễn ra ở các nước trên thế giới. Tuy vậy, cho đến nay, tốc độ chuyển dịch
CCKT của thị xã diễn ra còn chậm, chưa tương xứng với các nguồn lực hiện có, các tiềm năng
trong vùng chưa được khai thác hợp lý, kinh tế xã hội giữa nông thôn và thành thị, giữa người
giàu và người nghèo có khoảng cách ngày càng lớn, tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao. Điều
này được thể hiện không chỉ ở GTSX, qui mô, tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, trình độ


trang bị kỹ thuật- cơng nghệ, chất lượng của nguồn lao động... mà còn ở cả trình độ tổ chức


quản lý sản xuất. Những yếu kém trên trong thực tế đã trở thành các lực cản làm chậm đáng kể
quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của thị xã. Chính vì vậy, khai thác nguồn lực,
đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH để đáp ứng được những yêu
cầu đặt ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 đã trở thành vấn đề
kinh tế rất bức xúc đối với thị xã ng Bí. Xuất phát từ thực tế đó, tơi chọn nghiên cứu đề tài “
Một số giải pháp thực hiện chuyển dịch CCKT tại thị xã ng Bí, tỉnh Quảng Ninh giai
đoạn 2005-2010”.
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã ng Bí, tỉnh
Quảng Ninh.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã ng Bí.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp chuyển dịch CCKT tại thị xã ng Bí, tỉnh Quảng
Ninh.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là từ việc nêu lên những vấn đề lý luận về CCKT và
chuyển dịch CCKT, tiến hành phân tích và đánh giá thực trạng quá trình chuyển dịch CCKT
giai đoạn 2001- 2004 của thị xã ng Bí, đưa ra được những phương hướng và giải pháp cho
quá trình chuyển dịch CCKT của thị xã thời gian tới, nhằm mục đích cuối cùng là thúc đẩy
kinh tế thị xã phát triển toàn diện và bền vững, đời sống nhân dân được nâng lên.


Chương 1: Sự cần thiết phải đẩy mạnh chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã ng Bí,
tỉnh Quảng Ninh.
I. Những vấn đề lý luận về CCKT và chuyển dịch CCKT.
1. CCKT và các nhân tố ảnh hưởng.
1.1. Khái niệm CCKT.
1.1.1. Thế nào là cơ cấu?
Nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh tế của các học giả, các nhà nghiên cứu cũng như

trong nhiều tài liệu đã được công bố về lĩnh vực kinh tế, nhất là khi đề cập đến vấn đề chuyển
dịch CCKT, đã có khơng ít các cách tiếp cận khác nhau về khái niệm CCKT. Hầu hết, các cách
tiếp cận này đều bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu” hay còn gọi là “kết cấu”. Theo triết học khái
niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ cơ bản, tương
đối ổn định giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống trong một thời gian nhất định. Có thể
hiểu, cơ cấu được biểu hiện như là tập hợp những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác
nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu
cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống.
1.1.2. Khái niệm về CCKT.
Cơ cấu của một nền kinh tế quốc dân hay còn gọi là kết cấu kinh tế vĩ mô là tổng thể các
bộ phận hợp thành nền kinh tế và mối quan hệ tác động qua lại giữa các bộ phận hợp thành đó.
Khi đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống, CCKT có thể được
hiểu một cách đầy đủ và khái quát nhất, đó là: CCKT là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu
tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác
qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ
thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, CCKT là một
phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội.
1.1.3. Các loại CCKT.


Dưới các góc độ khác nhau, CCKT được phân thành nhiều loại:
Cơ cấu ngành- xét dưới giác độ phân công lao động.
Cơ cấu vùng- xét dưới giác độ hoạt động kinh tế xã hội theo lãnh thổ.
Cơ cấu thành phần kinh tế- xét hoạt động kinh tế theo quan hệ sở hữu.
Cơ cấu đối ngoại- xét trình độ mở cửa và hội nhập của nền kinh tế.
Cơ cấu tích luỹ- xét tiềm năng để phát triển kinh tế...
Nhưng trong giới hạn nghiên cứu, đề tài chỉ đi xem xét 3 loại cơ cấu kinh tế mang tính chất
tổng hợp nhất của nền kinh tế bao gồm:
1.1.3.1. Cơ cấu ngành kinh tế.
Cơ cấu ngành kinh tế là tổ hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối

liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình
độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân
tích cơ cấu ngành của một quốc gia, người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (KV) chính:
Nhóm ngành nơng nghiệp: bao gồm các ngành nơng, lâm, ngư nghiệp.
Nhóm ngành cơng nghiệp: bao gồm các ngành cơng nghiệp và xây dựng.
Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, bưu điện, du lịch...
Trong q trình hoạt động sản xuất, các ngành có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy
lẫn nhau cùng phát triển. Nơng nghiệp u cầu cần có sự tác động của công nghiệp đối với tất
cả các yếu tố đầu vào cũng như tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Cơng nghiệp cung cấp cho nơng
nghiệp phân bón hố học, thuốc trừ sâu, các cơng cụ sản xuất, máy móc, thiết bị phục vụ cho
việc cơ giới hoá sản xuất. Sản phẩm nông nghiệp qua chế biến sẽ được nâng cao chất lượng và
hiệu quả. Ngược lại, nông nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, thức phẩm
cho công nhân lao động, cho mở rộng hoạt động sản xuất cơng nghiệp và nó cịn là thị trường
lớn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Để những sản phẩm của hai ngành này đi vào tiêu dùng cho
sản xuất hoặc tiêu dùng cho đời sống phải qua phân phối và trao đổi. Những chức năng này do
hoạt động dịch vụ đảm nhận. Các hoạt động dịch vụ như thương mại, vận tải, thông tin, ngân
hàng, bảo hiểm... đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được liên tục. Như vậy, sự tác động qua
lại giữa các ngành tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.


Xét một cách toàn diện, cơ cấu ngành là bộ phận rất quan trọng trong CCKT. Sự biến
động của nó có ý nghĩa quyết định đến sự biến động của nền kinh tế. Do vậy, khi đi nghiên cứu
đề tài này, luận văn sẽ đi trọng tâm phân tích, đánh giá cơ cấu ngành kinh tế và sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
1.1.3.2. Cơ cấu lãnh thổ.
a/ Khái niệm kinh tế lãnh thổ.
Kinh tế lãnh thổ là một tổng thể kinh tế tồn tại và hoạt động trên phạm vi lãnh thổ
khơng phân biệt thuộc hình thức sở hữu nào, ngành nào và cấp nào quản lý. Kinh tế lãnh thổ là
kinh tế toàn diện (bao gồm các ngành, các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và đời sống xã hội), là

một phần tử của nền kinh tế quốc dân, một khâu trong phân công lao động xã hội.
b/ Khái niệm cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu lãnh thổ hợp lý.
Cơ cấu lãnh thổ là cơ cấu không gian của các yếu tố tài nguyên thiên nhiên, cơ sở sản
xuất, phục vụ sản xuất và mối liên hệ về chất, tỷ lệ về lượng giữa các yếu tố, bảo đảm sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực trên lãnh thổ với tốc độ tăng trưởng cao, nhằm tăng khả năng cạnh
tranh của các loại hàng hoá và dịch vụ trên một đơn vị lãnh thổ nhất định. Như vậy, nếu cơ cấu
ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân cơng lao động xã hội và chun mơn hóa sản xuất
thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian
địa lý.
Cơ cấu lãnh thổ hợp lý là cơ cấu có sự phát triển hài hồ, phù hợp giữa yếu tố sản xuất
và tài nguyên thiên nhiên, sản xuất và phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, nhu cầu sản
xuất và nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sản xuất, nhu cầu nâng cao mức sống
của dân cư và phát triển kết cấu hạ tầng xã hội phục vụ đời sống dân cư, cân bằng giữa nhu cầu
sản xuất và nhu cầu thị trường...
1.1.3.3. Cơ cấu thành phần kinh tế.
Nếu như phân cơng lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ
thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Trên cơ sở chế độ sở hữu về
tư liệu sản xuất, các thành phần kinh tế cơ bản ở nước ta hiện nay bao gồm: kinh tế nhà nước,
kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi. Các thành phần kinh tế cùng song song tồn tại, hỗ trợ lẫn nhau phát triển. Chủ


trương của Đảng và Nhà nước hiện nay là tập trung xây dựng một cơ cấu thành phần kinh tế
hợp lý. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với
chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân cơng
lao động xã hội... Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến
cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối
quan hệ giữa các loại cơ cấu trong nền kinh tế.
Ba bộ phận cơ bản hợp thành CCKT là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế,
cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan

trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên
phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh
thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế
lãnh thổ.
1.2. Tính chất của CCKT.
1.2.1. Tính hệ thống.
Thời kỳ đầu, khi phân cơng lao động xã hội và trình độ sản xuất chưa phát triển, tất
nhiên là có một sự gắn bó tự nhiên, khơng tách rời nhau giữa các ngành, các thành phần kinh tế
và các vùng lãnh thổ. Sau đó, khi lực lượng sản xuất dần phát triển, trình độ của sản xuất đã đạt
đến mức cao hơn thì dần dẫn đến sự phân chia nền kinh tế thành các ngành cụ thể, cơ cấu sở
hữu cũng như cơ cấu lãnh thổ được hình thành một cách rõ nét hơn, nền kinh tế đã bao gồm
nhiều bộ phận khác nhau hợp lại. Trong suốt quá trình phát triển, các bộ phận cấu thành nền
kinh tế ln có sự gắn kết và phụ thuộc vào nhau, bộ phận này hỗ trợ bộ phận kia, cùng tạo tiền
đề cho nhau phát triển. Điều đáng nhấn mạnh ở đây là các bộ phận cấu thành đó ln vận động
và phát triển trong cùng một hệ thống. Mọi tác động của con người nhằm điều chỉnh xu hướng
phát triển cũng như mối quan hệ tỷ lệ giữa các bộ phận trong hệ thống đó cũng phải ln tn
theo những qui tắc nhất định, đảm bảo cho sự phát triển cân đối và bền vững của hệ thống.
1.2.2. Tính khách quan.
Mọi sự vật, hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói riêng đều tồn tại theo những cấu
trúc nhất định, vận động phát triển theo những qui luật khách quan. Vì thế, một CCKT hợp lý
của nền kinh tế phải phản ánh được sự vận động của các qui luật khách quan. Vai trò chủ quan


của con người trong việc xây dựng, hình thành CCKT hợp lý chính là phản ánh đúng các qui
luật khách quan, phân tích và đánh giá đúng các qui luật khách quan đó. Mọi ý định nóng vội,
chủ quan hay bảo thủ trong việc thay đổi CCKT đều mang lại tác động xấu đối với sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.

1.2.3. Tính kế thừa.
CCKT bao giờ cũng mang tính lịch sử, kế thừa nhất định. Điều kiện cụ thể về tự nhiên,

kinh tế xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế thị trường chi phối
đến sự chuyển dịch CCKT. Quá trình biến đổi của CCKT ở các nước khác nhau về qui mô lãnh
thổ, nguồn tài nguyên thiên nhiên và trình độ hoạch định chính sách của chính phủ, sức mạnh
kinh tế của các nước, tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp. ở mỗi địa phương có điều
kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phong tục tập qn, văn hố, xã hội,
trình độ phát triển của quan hệ kinh tế thị trường khác nhau sẽ tạo ra sự khác nhau về quá trình
hình thành và biến đổi của CCKT.
1.2.4. Tính hiệu quả.
Tính hiệu quả của CCKT thể hiện ở chính sự phát triển theo cả bề rộng lẫn bề sâu của
CCKT. Trên các mặt của đời sống kinh tế xã hội, tính hiệu quả của CCKT được thể hiện ở sự
tăng trưởng kinh tế cao, thu nhập bình quân đầu người và hệ thống phúc lợi xã hội được cải
thiện, các ngành, các thành phần kinh tế phát triển theo đúng hướng, hợp qui luật, những tiềm
năng, thế mạnh của mỗi vùng được khai thác hiệu quả, đảm bảo một sự phát triển cân đối và
bền vững. Có thể nói, tính hiệu quả là một đặc tính rất quan trọng của CCKT, nếu thiếu nó,
CCKT khơng bao giờ đạt đến sự hợp lý.
1.2.5. Tính định hướng.
CCKT ln mang trong mình tính khách quan, tự bản thân nó cũng là sự phản ánh các
qui luật khách quan trong quá trình vận động và phát triển. Những tác động chủ quan từ phía
con người dựa trên những qui luật khách quan đó sẽ làm cho CCKT phát triển hợp lý hơn, theo
đúng sự định hướng của các chính sách phát triển trong từng thời kỳ. Một CCKT phát triển
không theo đúng những chiến lược, định hướng đã được vạch ra sẽ phải cần đến những sự điều
chỉnh để tránh bị chệch hướng. Mặt khác, tuỳ vào mỗi giai đoạn phát triển, các mục tiêu kinh tế


xã hội được đề ra và mọi sự vận động, thay đổi của CCKT cũng phải hướng tới việc đạt được
các mục tiêu đó. Bản thân CCKT đã mang tính định hướng nhưng chính CCKT cũng ln là sự
theo đuổi định hướng. Các nhà hoạch định chính sách ln cần phải dựa vào CCKT hiện tại để
đề ra các sách lược phát triển cho tương lai và các chính sách này hoặc sẽ tạo ra một CCKT
mới, hoặc sẽ chỉ là sự giữ vững CCKT hiện có.


1.3. Mối quan hệ giữa CCKT với CNH- HĐH.
CNH- HĐH là tất yếu khách quan đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển như ở
Việt Nam. Đó cũng là một trong những công việc cần thiết trong thời kỳ quá độ mà Đảng và
Nhà nước đã quán triệt chỉ đạo. Mục tiêu của CNH- HĐH là xây dựng nước ta thành một nước
cơng nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, CCKT hợp lý. Bản thân CNH- HĐH cũng
được coi là một q trình chuyển dịch CCKT. Chính trong quá trình này, việc xác lập CCKT
hợp lý diễn ra dần dần gắn với các giai đoạn của CNH- HĐH và mỗi bước phát triển của cơ sở
vật chất kỹ thuật. Đó là sự thay đổi CCKT từ tình trạng lạc hậu, mất cân đối, hiệu quả kém sang
một CCKT hợp lý, đa dạng, cân đối, năng động và có hiệu quả cao, gắn với từng bước trưởng
thành của cơ sở vật chất kỹ thuật do CNH- HĐH tạo ra.
Sự chuyển dịch CCKT phản ánh sự thay đổi về chất của nền kinh tế theo hướng CNHHĐH, tạo tiền đề vật chất cho sự tăng trưởng ổn định của nền kinh tế.
2. Chuyển dịch CCKT.
2.1. Khái niệm về chuyển dịch CCKT.
2.1.1. Chuyển dịch CCKT là gì?
CCKT ln thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành CCKT khơng
cố định. Đó có thể là sự thay đổi về số lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ
giữa các ngành, các vùng, các thành phần do sự xuất hiện hoặc biến mất của một số ngành và
tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành CCKT là không đồng đều.
Sự thay đổi của CCKT từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi
trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch CCKT.
Đây không phải đơn thuần là sự thay đổi về lượng, mà cả về chất trong nội bộ cơ cấu.
Việc chuyển dịch CCKT phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển


dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới, tiên tiến,
hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp
hơn. Như vậy, chuyển dịch CCKT về thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của
nó, đó là: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế, nhằm hướng sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển.


2.1.2 Các tiêu thức đánh giá quá trình chuyển dịch CCKT.
_ Mức độ chuyển dịch CCKT:
n

 Sit .Sit 
0

1

i 1

cos  =
n

( 0    90 0 )

n



2
2
 Si t 0 . Si t1 
i 1
 i 1


trong đó: Si(t) là tỷ trọng ngành i tại thời điểm t .
 là góc hợp bởi hai véctơ cơ cấu Si t 0  và Si t1  . Nếu góc  càng lớn thì chuyển dịch cơ cấu


càng nhiều và ngược lại. Khi góc  =0 (cos  =1), hai cơ cấu đồng nhất, không có sự chuyển
dịch. Khi góc  =

90 0 ( cos  =0), các vectơ cơ cấu là trực giao với nhau. Tỷ số n=


phản
90 0

ánh tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
_ Tính hợp lý của CCKT: Một CCKT hợp lý là một CCKT phù hợp với quá trình phân công
lao động và hợp tác ở các phạm vi hẹp lẫn phạm vi rộng. Sự hợp lý thể hiện ở mối quan hệ chặt
chẽ giữa quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với nâng cao hiệu quả kinh tế của các ngành,
vùng, thành phần và nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương.
_ Tính hiệu quả của CCKT: Một CCJT có tính hiệu quả là một CCKT kết hợp được hài hoà và
sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả nhất, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhịp độ
tăng trưởng cao và ổn định, thu nhập và đời sống của dân cư được cải thiện.
_ Tính ổn định của CCKT: Q trình chuyển dịch CCKT sẽ làm biến đổi CCKT hiện có sang
một CCKT mới phù hợp hơn. Sự đánh giá quá trình chuyển dịch có thể được xem xét dưới khía
cạnh tính ổn định của CCKT đó. Một CCKT ổn định là một CCKT phát triển cân đối và bền
vững, khơng có những đột biến lớn, đảm bảo được sự phù hợp giữa nguồn lực và các mục tiêu
phát triển.


_ Tính mục tiêu của CCKT: Bất kỳ một CCKT nào cũng ln mang tính mục tiêu trong từng
giai đoạn phát triển nhất định. Sự thành cơng của q trình chuyển dịch CCKT cũng đồng
nghĩa với việc xây dựng được một CCKT đạt được những mục tiêu đã định về tỷ trọng, về tốc
độ phát triển giữa các ngành, vùng và thành phần kinh tế.
2.2. Tính qui luật của quá trình chuyển dịch CCKT.


-

Đặc trưng của CCKT là ln ln vận động và biến đổi. Sự biến đổi ấy rất đa dạng giữa
các nước, các địa phương có điều kiện kinh tế xã hội và trình độ khác nhau. Có thể khái quát
quá trình vận động của CCKT ở nước ta theo một số qui luật phổ biến sau:
Thứ nhất, đó là sự vận động từ một nền kinh tế tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hoá.
Thứ hai là sự vận động theo hướng tỷ trọng công nghiệp ngày càng tăng, tỷ trọng nông
nghiệp giảm tương đối (nhưng tăng tuyệt đối), phần dịch vụ tăng nhanh hơn trong tỷ trọng tổng
sản phẩm quốc dân.
Thứ ba là cơ cấu sản xuất thay đổi theo hướng chuyển từ ngành sản xuất các sản phẩm
sử dụng nhiều lao động sang ngành sản xuất sản phẩm chứa hàm lượng cao về vốn và khoa học
công nghệ.
Thứ tư là cơ cấu sản phẩm thay đổi theo hướng sản phẩm chế biến tăng, sản phẩm thô
giảm.
Thứ năm, CCKT chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH.
Thứ sáu, xu hướng biến đổi từ CCKT khép kín trong phạm vi quốc gia, thậm chí trong
từng từng địa phương sang CCKT mở trong phạm vi quốc tế và trong cả nước.
2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến q trình chuyển dịch CCKT.
2.3.1. Nhóm nhân tố khách quan.
2.3.1.1. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên.
Các nhân tố về điều kiện tự nhiên có thể kể đến đó là: dự trữ tài ngun, khống sản,
nguồn nước, đất đai, nguồn năng lượng, khí hậu và địa hình... Thiên nhiên vừa là điều kiện
chung của sản xuất xã hội, vừa là tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. ảnh hưởng của điều kiện
tự nhiên đối với việc hình thành CCKT mang tính trực tiếp. Tuy nhiên, trong điều kiện KHKT
phát triển hiện nay, việc đánh giá vai trò các nhân tố điều kiện tự nhiên cần tránh cả hai khuynh
hướng đối lập nhau: hoặc là qúa lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên hoặc xem nhẹ vai trị của nó.


Cả hai khuynh hướng đó đều khơng đúng đắn. Dưới sự thống trị của khoa học công nghệ hiện
đại, tài nguyên thiên nhiên không phải là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển. Ngược lại, nếu

xem nhẹ yếu tố thiên nhiên sẽ không khai thác đầy đủ lợi thế so sánh để thúc đẩy phát triển
kinh tế hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, phá hoại môi trường phát triển
kinh tế lâu dài.
2.3.1.2. Các nhân tố kinh tế xã hội.
a/ Thị trường và trình độ phát triển của kinh tế thị trường.
Sự ra đời và phát triển các mơ hình kinh tế mà nhân loại đã trải qua cho đến nay đã
khẳng định: kinh tế thị trường có tác động to lớn đối với sự phát triển khoa học công nghệ, đối
với sự thay đổi cơ cấu ngành, vùng kinh tế, đối với việc tăng năng suất lao động xã hội, đối với
việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội.
Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, là
điểm tập kết của quan hệ hàng hố đảm bảo sự vận động khơng ngừng của q trình tái sản
xuất xã hội. Do đó, thị trường ln là yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế và đặc biệt nó ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và biến đổi CCKT. Mặt khác, nói đến thị trường là nói đến
nhu cầu của con người cần được thoả mãn thông qua thị trường. Độ thoả mãn nhu cầu của con
người lại phụ thuộc vào việc nền kinh tế xây dựng CCKT và chuyển dịch CCKT như thế nào,
cho phép trả lời được và đúng những câu hỏi mà nhu cầu thị trường đặt ra: sản xuất cho ai? sản
xuất cái gì? và sản xuất bằng cơng nghệ gì? Trình độ phát triển của kinh tế thị trường tỷ lệ
thuận với trình độ phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH của nền kinh tế
quốc dân.
b/ Vốn và đầu tư.
Nhiều nghiên cứu đã đi đến kết luận rằng vốn là nhân tố quan trọng nhất đối với tăng
trưởng. Vốn là một yếu tố sản xuất trong q trình sản xuất. Vốn đóng góp vào tăng trưởng sản
lượng không chỉ một cách trực tiếp như một yếu tố đầu vào mà cịn gián tiếp thơng qua sự cải
tiến kỹ thuật. Thông qua sự cải tiến kỹ thuật thì đầu tư sẽ giúp nâng cao kỹ năng của người lao
động và điều này đến lượt nó sẽ làm tăng năng suất lao động, giúp cho quá trình sản xuất trở
nên hiệu qủa hơn và cuối cùng là làm tăng trưởng kinh tế. Như vậy, vốn là một yếu tố có vai
trị quan trọng trong việc thúc đẩy chuyển dịch CCKT. Nhờ có vốn, cơ cấu sản xuất thay đổi


theo hướng tăng sản lượng, chất lượng những sản phẩm có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao,

tăng năng suất lao động của các ngành, làm cho sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra một cách
tích cực, kéo theo sự chuyển dịch của cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần trong quá trình phát
triển.
c/ Lao động và vốn nhân lực.
Sự tác động của dân số và lao động lên qúa trình hình thành và chuyển dịch CCKT được
xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới...
là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động, là nhân tố thúc đẩy tiến bộ KHKT trong sản
xuất của các ngành kinh tế quốc dân.
Thứ hai, qui mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến qui mơ
và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành
phục vụ tiêu dùng.
Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như trong các
ngành kinh tế khác thường gắn liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương,
một cộng đồng người. Sự phát triển và chuyển hoá các ngành nghề này gắn chặt với đội ngũ
các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế
và được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Trong lĩnh vực này, vai trị của các nghệ nhân,
những lao động có chun mơn sâu và nhiều kinh nghiệm, là rất lớn trong việc phát triển những
ngành nghề thủ cơng truyền thống địi hỏi kỹ thuật tinh tế và tay nghề cao.
Việt Nam có một nguồn dân số và lao động trẻ, dồi dào song nền kinh tế có một điểm
xuất phát thấp (sản xuất nhỏ là chủ yếu), phải chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh, của cơ chế
cũ nên những yếu tố đó tác dụng cả hai mặt thuận lợi và trở ngại trong quá trình hình thành và
chuyển dịch CCKT.
d/ Tiến bộ khoa học- công nghệ.
Tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ diễn ra trên thế giới và trong nước có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự biến đổi CCKT. Trước hết nó làm thay đổi vị trí của các ngành trong
nền kinh tế quốc dân, nó cũng làm thay đổi vị trí của ngun liệu trong q trình lao động. Tiến



bộ khoa học công nghệ (KHCN) không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy
nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng thể nền kinh tế
(làm chuyển dịch CCKT) mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện của một số
ngành công nghệ non trẻ, cơng nghệ tiên tiến, do đó có triển vọng phát triển mạnh trong tương
lai.
Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, tiến bộ KHCN cho phép tạo ra các sản phẩm mới
chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, do đó có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường trong nước
và quốc tế. Kết quả là làm chuyển dịch CCKT nói chung theo hướng xuất khẩu, thay thế nhập
khẩu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới.

2.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan.
Đó có thể là các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, cơ chế quản lý, chiến
lược phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Có thể kể đến một nhân tố chủ quan có tác
động khơng nhỏ đến sự chuyển dịch CCKT là môi trường thể chế. Môi trường thể chế là yếu tố
cơ sở cho quá trình xác định và chuyển dịch CCKT. Môi trường thể chế gắn bó chặt chẽ với thể
chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm, đường lối chính trị nào
sẽ có mơi trường thể chế đó, đến lượt nó, mơi trường thể chế lại ước định các hướng chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và thành
phần kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, ý tưởng và hành vi
của Nhà nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể cũng như sự phát triển của các bộ
phận cấu thành của nền kinh tế. Như vậy sự đồng bộ và tính ổn định của mơi trường thể chế có
ý nghĩa quan trọng đối với q trình hình thành và chuyển dịch CCKT. Việt Nam có một mơi
trường thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rõ ràng và rộng mở, đa phương hoá, đa dạng
hoá các mối quan hệ... là một lợi thế quan trọng trong quá trình chuyển dịch CCKT của nước
ta.
II. Một số Lý thuyết về chuyển dịch CCKT.
1. Mối quan hệ giữa chuyển dịch CCKT với quá trình phát triển kinh tế.


Nói đến q trình phát triển kinh tế, người ta thường quan tâm đến hiệu quả sử dụng các

nguồn lực hiện có, sự gia tăng các nguồn lực sản xuất theo thời gian và cách thức phân phối sản
phẩm và thu nhập cho các nhân tố sản xuất. Còn khi nói đến cơ cấu của một nền kinh tế, ta
thường quan tâm đến các thành phần có ý nghĩa cơ bản, tồn tại lâu dài, làm cơ sở cho những
biến động có tính chất thường xun trong đời sống kinh tế.
Cho tới nay, chưa có một lý thuyết hồn hảo nào có thể mơ tả những mối liên hệ giữa
q trình phát triển và quá trình thay đổi cơ cấu. Tuy nhiên, nhiều cơng trình nghiên cứu đã đưa
ra bằng chứng chắc chắn là có những qui luật phản ánh phương thức thay đổi của CCKT khi
thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Như vậy, cơ sở giúp ta thấy được mối liên hệ giữa quá
trình phát triển kinh tế và thay đổi cơ cấu là cách thức tính tốn GDP theo các biến số kinh tế vĩ
mơ.

1.1. Xét về phía cung.
Chúng ta phải phân tích cơ cấu sản xuất được tính theo các ngành sản xuất. Một kết quả
quan sát cho thấy, khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên thì tỷ trọng trong GDP của ngành
nơng nghiệp giảm cùng với số lao động sử dụng và tỷ trọng của ngành cơng nghiệp, trong đó
chủ yếu là ngành khai khoáng và chế biến tăng lên cùng với số lao động sử dụng. Ngành chế
biến ban đầu có xu hướng tập trung vào sản xuất các mặt hàng tiêu dùng giản đơn như lương
thực, thực phẩm, quần áo, sau này chuyển dần sang sản xuất các mặt hàng tư liệu sản xuất
thuộc ngành công nghiệp nặng và sau cùng là sản xuất các sản phẩm vi điện tử và các sản phẩm
có cơng nghệ cao. Vai trị của ngành dịch vụ có xu hướng tăng lên tương đối rõ rệt. Hàm sản
xuất:
y=(L,K,...) với

y
y
>0,
>0.
L
K


Một khi thu nhập bình quân đầu người tăng lên, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP sẽ
tăng và lao động sử dụng cũng tăng, từ đó tác động trở lại hàm sản xuất tiếp tục làm tăng tổng
sản lượng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ta cần phải chú ý đặc biệt tới một
mảng có tác động khơng nhỏ đến CCKT là hệ thống tài chính. Nhà kinh tế Goldsmith đã thiết
lập được mối liên hệ hình chữ U ngược giữa các quá trình phát triển của nền kinh tế và hệ
thống tài chính. Trong những giai đoạn đầu của phát triển kinh tế hệ thống tài chính phát triển


nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của GDP và của cải, sau đó chững lại ở mức tương
đương rồi giảm dần xuống chậm hơn khi đất nước đạt được một mức thu nhập bình quân đầu
người nhất định. Điều này có nghĩa là khu vực tài chính cũng trải qua một q trình đa dạng
hố sản phẩm giống như các bộ phận khác của cơ cấu sản xuất.
Ngoài các yếu tố trên, ta cũng cần xét thêm một vài khía cạnh khác làm thay đổi CCKT.
Chẳng hạn, khi một nền kinh tế phát triển đến một mức nào đó, nhu cầu về vốn cũng thay đổi
cả về kỹ thuật công nghệ cũng như công nhân lành nghề, tất yếu dẫn đến thay đổi cơ cấu.
1.2. Xét về phía cầu.
Xuất phát từ cơng thức: AD=C+ I+G+ (X- M). Khi mức thu nhập bình quân đầu người
thấp, người dân chi dùng hầu như toàn bộ thu nhập, tiết kiệm hầu như khơng có, tồn bộ nguồn
đầu tư hầu như dựa vào vốn nước ngoài, CCKT phụ thuộc nên việc chủ động ra các chính sách
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế bị hạn chế nhiều. Một khi thu nhập bình quân đầu người tăng
lên, tỷ trọng thu nhập dùng cho ăn uống giảm dần và tỷ lệ tiết kiệm tăng lên, mức chênh lệch
giữa tiết kiệm và đầu tư giảm đi, việc chủ động vạch ra những chính sách thay đổi cơ cấu sản
xuất của nền kinh tế nhằm mục tiêu tăng trưởng đã dần dần có hiệu lực. Các qui luật trên đây
cho thấy rằng khi các loại nhu cầu biến đổi, tương ứng ta cần có sự thay đổi về cơ cấu sản xuất.
Tuy nhiên, một ảnh hưởng mạnh mẽ đến thay đổi cơ cấu là ngoại thương. Nhờ có ngoại
thương, các cơ hội chun mơn hố sẽ được mở ra phần nào làm cho nền kinh tế phát triển
thuận lợi hơn.
Nhìn chung, quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thường được xem xét như là
một quá trình làm thay đổi thu nhập bình quân đầu người. Mặc dù có nhiều thay đổi trong quan
niệm về phát triển và tăng trưởng nhưng chỉ tiêu trên vẫn được coi trọng và làm thước đo cho

sự phát triển về kinh tế. Một xu hướng mang tính qui luật là cùng với sự phát triển của kinh tế,
cũng diễn ra một quá trình thay đổi về CCKT tức là một sự thay đổi tương đối về vai trị mức
đóng góp, tốc độ phát triển của từng thành phần, từng yếu tố riêng cấu thành nên toàn bộ nền
kinh tế. Một trong những CCKT được quan tâm và nghiên cứu nhiều trong mối liên hệ với quá
trình tăng trưởng và phát triển là cơ cấu ngành. Cơ cấu đó về phần mình lại được thể hiện trong
q trình sản xuất, tiêu dùng và ngoại thương. Mối quan hệ giữa vấn đề chuyển đổi cơ cấu xét
theo khía cạnh này với sự phát triển chung của nền kinh tế là có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi


vì gắn với nó là cả một động thái về phân bổ các nguồn lực hạn hẹp của một quốc gia trong
những thời điểm nhất định vào những lĩnh vực hoạt động sản xuất riêng. Điều này có thể giúp
chúng ta phân tích, nhận biết được tính hiệu quả của việc phân bổ nguồn lực, từ đó có thể rút ra
những kết luận tương ứng về khả năng phát triển bền vững của nền kinh tế. Tương tự, cơ cấu
ngành trong quan hệ ngoại thương cũng thể hiện các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh
của một quốc gia trong nền kinh tế tồn cầu. Q trình chuyển dịch cơ cấu là một quá trình tất
yếu gắn liền với sự phát triển kinh tế. Đồng thời nhịp độ phát triển, tính chất bền vững của q
trình tăng trưởng lại phụ thuộc vào khả năng chuyển dịch cơ cấu linh hoạt, phù hợp với những
điều kiện bên ngoài và các lợi thế tương đối của một nền kinh tế.
2. Các mơ hình chuyển dịch CCKT.
2.1. Mơ hình Lewis hay mơ hình thặng dư lao động.
Mơ hình Lewis được xem như là lý thuyết chung về quá trình phát triển của thặng dư lao
động ở các nước đang phát triển trong suốt thập niên 1950 đến những năm đầu thập niên 70.
Trong mơ hình của mình, Lewis xem nền kinh tế chỉ có 2 khu vực: khu vực truyền thống đặc
trưng bởi năng suất lao động biên bằng 0 và khu vực cịn lại là khu vực cơng nghiệp hiện đại có
năng suất lao động cao thu hút thặng dư lao động từ nơng thơn chuyển đến. Có 2 giả định về
khu vực nông nghiệp: thứ nhất là sự tồn tại của thặng dư lao động, hàm ý rằng lao động biên là
bằng 0, thứ hai, mọi lao động nông nghiệp đều có thể được thu hút chuyển sang làm việc ở khu
vực cơng nghiệp. Mơ hình Lewis tập trung nghiên cứu cả 2 quá trình dịch chuyển lao động
cũng như sự gia tăng sản lượng và nguồn nhân lực trong khu vực công nghiệp. Sản lượng gia
tăng do tỷ lệ đầu tư và tích luỹ vốn ngày càng tăng đã thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp

chuyển đến ngày càng nhiều. Do đó, đường cung của lao động nông thôn chuyển đến làm việc
ở khu vực công nghiệp được cho là hoàn toàn co giãn. Mặt khác, với giả định thị trường cạnh
tranh hồn hảo thì đường sản phẩm lao động biên của khu vực công nghiệp chính là đường cầu
của lao động. Bởi vì có sự khác nhau giữa tiền công của 2 khu vực nên những ơng chủ nhà máy
có thể th mướn bao nhiêu lao động nơng nghiệp tuỳ thích mà khơng cần phải tăng tiền cơng.
Với một nguồn vốn cố định thì các ông chủ sẽ tối đa hoá lợi nhuận bằng cách thuê mướn thêm
nhân công cho đến khi sản phẩm biên bằng với tiền cơng thực tế. Tồn bộ lợi nhuận được giả
định là sẽ được tái đầu tư. Như vậy, tổng dự trữ vốn ngày càng tăng và đến lượt nó làm cho


đường tổng sản phẩm tăng lên và kéo theo sự gia tăng của đường sản phẩm biên. Quá trình tăng
trưởng của khu vực công nghiệp cũng như gia tăng lao động trên được giả định là tiếp tục cho
đến khi tồn bộ thặng dư lao động nơng nghiệp bị hút về khu vực công nghiệp và sản phẩm
biên của lao động nơng nghiệp khơng cịn bằng 0 nữa.
2.2. Mơ hình hai khu vực Tân cổ điển.
ý nghĩa của tăng trưởng dân số hay lực lượng lao động trong mơ hình Tân cổ điển hoàn
toàn khác với ý nghĩa của chúng trong mơ hình thặng dư lao động. Một sự gia tăng dân số và
lao động nông nghiệp sẽ làm cho sản lượng nông nghiệp gia tăng và ngược lại. Nghĩa là mơ
hình Tân cổ điển khác với mơ hình thặng dư lao động ở chỗ sản phẩm lao động biên khơng bao
giờ bằng 0. Và tiền cơng thay vì được định giá cao hơn thì sẽ bằng với sản phẩm lao động biên.
Vì vậy, tăng trưởng dân số trong mơ hình Tân cổ điển khơng phải hồn tồn là một hiện tượng
tiêu cực. Nền công nghiệp phát triển thành công, phải có các nỗ lực đồng thời để bảo đảm rằng
nông nghiệp phát triển nhanh đủ để nuôi sống lao động ở cả khu vực công nghiệp và nông
nghiệp ở mức tiêu thụ cơ bản thậm chí phải cao hơn để ngăn ngừa chỉ số giá trở nên khơng có
lợi cho cơng nghiệp. Một khu vực nơng nghiệp trì trệ, nghĩa là khu vực có ít tiến bộ về cơng
nghệ và đầu tư, sẽ làm cho tiền công của công nghiệp thành thị tăng lên nhanh chóng và vì vậy
làm giảm lợi nhuận và những nguồn dành cho phát triển cơng nghiệp. Theo mơ hình Tân cổ
điển này cần thiết phải có một sự cân bằng giữa cơng nghiệp và nơng nghiệp lúc khởi đầu.
2.3. Mơ hình thực tiễn.
Cũng giống như mơ hình Lewis, việc phân tích các cơ chế phát triển của chuyển dịch cơ

cấu tập trung vào quá trình mà qua đó cơng nghiệp đã thay thế nơng nghiệp để trở thành động
lực cho sự tăng trưởng. Tuy nhiên, bên cạnh việc xem gia tăng tiết kiệm và đầu tư như là những
điều kiện cần thì những mơ hình này cũng xem xét đến nhiều sự thay đổi có mối liên hệ qua lại
với nhau trong CCKT liên quan đến mọi chức năng kinh tế bao gồm cả việc chuyển đổi quá
trình sản xuất, những thay đổi trong cấu thành nhu cầu tiêu dùng, thương mại quốc tế, sử dụng
nguồn lực cũng như những thay đổi trong các nhân tố kinh tế xã hội như sự đô thị hố.
Nói chung, các mơ hình chuyển dịch cơ cấu thực tiễn nhấn mạnh đến cả hai loại trở ngại
cho sự phát triển: đó là trở ngại nội sinh và ngoại sinh. Trở ngại nội sinh liên quan đến các trở
ngại kinh tế như tài nguyên sẵn có, dân số... cũng như các trở ngại về mặt thể chế, ví dụ như


chính sách của Nhà nước. Trong khi đó, trở ngại ngoại sinh liên quan đến các vấn đề về công
nghệ, thương mại quốc tế hay là khả năng tiếp cận với các nguồn vốn bên ngoài.
III. Sự cần thiết phải thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã ng Bí.
Qua việc nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận ở các phần trước, ta có thể thấy
rằng, vai trò to lớn của chuyển dịch CCKT trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia,
một địa phương là không thể phủ nhận. Việc xây dựng và hình thành nên một CCKT hợp lý và
hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc tăng trưởng, phát triển kinh tế cũng như
giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng tích cực tại bất cứ địa phương nào. CCKT hợp lý thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cần thiết để hoàn thiện
hơn nữa CCKT trong tương lai. Như vậy, trên phương diện lý thuyết, vai trò cần thiết của
chuyển dịch CCKT trong phát triển kinh tế xã hội đã hồn tồn được khẳng định. Có thể coi
như đó là một lý do thứ nhất để thị xã ng Bí nên và cần thiết phải tiến hành chuyển dịch
CCKT trong điều kiện hiện tại cũng như tương lai.
Và lý do thứ hai để thấy rằng, việc thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã
Uông Bí là cần thiết phải kể đến các quan điểm về phát triển thể hiện trong đường lối chính
sách của quốc gia, của tỉnh Quảng Ninh nói chung và chính quyền thị xã ng Bí nói riêng.
Một cách cụ thể, đó chính là các định hướng phát triển đã được áp dụng trong thời gian qua và
sẽ được tiếp tục áp dụng trong thời gian tới. Trong các định hướng phát triển đó, nhiệm vụ
chuyển dịch CCKT ln được các nhà hoạch định chính sách nhấn mạnh và coi là nhiệm vụ

hàng đầu. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ VII của Đảng đã xác định: “thúc đẩy
sự chuyển dịch CCKT theo hướng CNH- HĐH, coi đây là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan
trọng hàng đầu thời gian tới”. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của TW, tỉnh Quảng Ninh cũng xây
dựng hướng chiến lược phát triển của Tỉnh đến 2010 dựa trên quan điểm tiếp tục chỉ đạo thực
hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn tỉnh một cách toàn diện và hiệu quả. Chiến lược phát triển
của tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001-2010 chỉ ra rằng: “Tập trung xây dựng một CCKT hợp lý,
có hiệu quả cao, trọng tâm là phát triển các lĩnh vực kinh tế có thế mạnh như cơng nghiệp, du
lịch, kinh tế biển, cảng biển, kinh tế cửa khẩu...” Thị xã ng Bí là một thị xã của tỉnh Quảng
Ninh, từ lâu đã giữ một vị trí khơng kém phần quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế
của tỉnh. Đảng bộ và nhân dân thị xã trong nhiều năm qua đã không ngừng thực hiện theo


những đường lối, chính sách của Nhà nước và của tỉnh trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế thị xã. Do đó vấn đề về chuyển dịch CCKT cũng luôn được thị xã coi là một nhiệm vụ
quan trọng xuyên suốt tiến trình phát triển kinh tế những năm qua và trong cả nhiều năm tới.
Việc thực hiện chuyển dịch CCKT được xem như là cách thức để đạt đến sự phát triển một
cách nhanh nhất. Chính vì vậy, đối với từng địa phương cụ thể, việc quán triệt quan điểm chỉ
đạo và linh hoạt tiến hành các bước chuyển dịch căn cứ vào điều kiện khách quan của địa
phương mình là một u cầu cấp thiết, đó không chỉ đơn thuần là việc chấp hành đường lối mà
quan trọng hơn, đó là con đường hữu hiệu để cải thiện bộ mặt nền kinh tế của địa phương
mình. Vì tất cả những điều đó, tiến hành chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã ng Bí là cần
thiết.
Cuối cùng, một lý do thứ ba, không kém phần quan trọng đó là xuất phát từ chính thực
tế phát triển những năm qua của thị xã ng Bí. Q trình phối hợp chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ
chuyển dịch CCKT những năm qua trên địa bàn thị xã ng Bí, mặc dù đã thu được những
thành công nhất định song bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại khơng ít hạn chế và bất cập. CCKT
ngành của thị xã đã chuyển dịch theo hướng: tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ
trọng nông nghiệp, cơ cấu thành phần và cơ cấu lãnh thổ chuyển dịch hợp lý nhưng tốc độ
chuyển dịch nhìn chung cịn chậm, chưa tương xứng với các nguồn lực hiện có. Các tiềm năng
trong vùng chưa được khai thác hợp lý, cụ thể như tiềm năng về du lịch, về đất đai. Đó là một

hạn chế mà thị xã cần có hướng điều chỉnh. Thêm nữa, khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn
và thành thị, giữa người giàu và người nghèo còn gây nhiều bức xúc, tỷ lệ thất nghiệp còn cao.
Những yếu kém trên nếu khơng kịp thời khắc phục thì sẽ trở thành những rào cản bất lợi cho
thị xã trong quá trình hội nhập và phát triển. Vì lẽ đó, thị xã ng Bí cần phải có những chính
sách thích hợp để cải thiện tình hình mà một trong những biện pháp được xem như hiệu quả
nhất là cần phải tiến hành chuyển dịch CCKT một cách toàn diện và phù hợp hơn.
Trên đây là ba lý do cơ bản khiến cho quá trình chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã
ng Bí trở nên cần thiết hơn hết. Trong thời gian tới, thị xã cần có nhiều biện pháp thật hữu
hiệu để chuyển dịch CCKT thực sự trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển toàn
diện kinh tế xã hội của thị xã. Và dưới đây là một mô hình chuyển dịch CCKT thành cơng mà
thị xã ng Bí cần học hỏi:


IV. Kinh nghiệm chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
Thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh là một thị xã công nghiệp khai thác than lớn nhất cả
nước. Trải qua trên 47 năm, thị xã đã không ngừng được cải tạo, phát triển thành đô thị lớn có
tốc độ đơ thị hố nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, CCKT chuyển dịch đúng định hướng,
diện mạo đô thị ngày càng được thay đổi và phát triển. Ngày 6/1/2005, thị xã được Bộ Xây
Dựng công nhận là đô thị loại 3, nâng cấp từ đô thị loại 4. Trên thực tế, thị xã Cẩm Phả có
nhiều nét tương đồng với thị xã ng Bí về các mặt tự nhiên cũng như kinh tế xã hội. Đặc biệt,
trong thời gian tới, thị xã ng Bí cũng tiến hành xây dựng một đề án xin nâng cấp thị xã từ đơ
thị loại 4 lên loại 3. Vì tất cả lẽ đó, đề tài tiến hành nghiên cứu một cách cụ thể về quá trình
chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả, từ đó tìm ra được những mặt thành cơng cũng như
những mặt cịn hạn chế để áp dụng vào điều kiện khách quan của thị xã Uông Bí, phục vụ cho
q trình chuyển dịch CCKT của địa phương.
1. Những thành cơng trong q trình chuyển dịch CCKT tại thị xã Cẩm Phả.
1.1. Về kinh tế.
Thị xã Cẩm Phả là một thị xã cơng nghiệp được hình thành từ khá lâu, do đó CCKT của
thị xã cũng được hình thành tập trung vào các ngành CN- TTCN, thương mại, dịch vụ, du lịch
với tỷ lệ tăng trưởng nhanh. Năm 2003, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã đạt trên 12%/năm,

trong CCKT, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 76,05%, thương mại- dịch vụ chiếm
21,15%, nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 2,8%, thu nhập bình quân đầu người đạt 665 USD/
người/năm. Đến năm 2004, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã đã tăng lên 13,79%/năm, tỷ
trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong CCKT đạt 77,16%, thương mại- dịch vụ- du lịch là
20,26%, nông- lâm- ngư nghiệp là 2,58%, thu nhập bình quân đầu người đạt 757
USD/người/năm. So với nhiều năm trước đó, CCKT hai năm gần đây đã chuyển biến rất nhiều,
tỷ trọng ngành thương mại- dịch vụ- du lịch đã có sự tăng lên rõ rệt, tỷ trọng nông nghiệp cũng
giảm theo từng năm. Sự chuyển biến CCKT ngành của thị xã Cẩm Phả là theo đúng qui luật
phát triển, đúng định hướng chỉ đạo và hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế về tự nhiên, về
nguồn lực của thị xã. Chính nhờ CCKT các ngành của thị xã chuyển dịch một cách tích cực đã
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của thị xã và cải thiện một cách đáng kể đời sống của
nhân dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 3,73% (2002) xuống còn 1,41% (2004).


Sự chuyển dịch CCKT theo hướng tích cực của thị xã Cẩm Phả cịn được thể hiện ở q
trình chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế. Năm 2004 so với năm 2001, khu vực kinh tế trong
nước có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, vai trị của kinh tế ngồi quốc doanh được cải thiện, phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, ngành nghề kinh doanh được đa dạng, thu hút
hàng ngàn lao động, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của thị xã. Khu vực kinh tế đầu
tư nước ngồi có rất nhiều khởi sắc, nguồn vốn đầu tư nước ngoài được thu hút vào thị xã nhiều
hơn, các hình thức hợp tác kinh doanh trên địa bàn được khuyến khích và tạo điều kiện phát
triển. Theo số liệu thống kê của thị xã, năm 1991, thị xã có 79 doanh nghiệp Nhà nước, có 16
doanh nghiệp tư nhân và cơng ty TNHH, 92 HTX tiểu thủ cơng nghiệp. Năm 2004 có 83 doanh
nghiệp Nhà nước, có trên 200 doanh nghiệp tư nhân, cơng ty TNHH và cơng ty cổ phần và có
trên 6800 hộ kinh doanh. Cơ cấu thành phần kinh tế chuyển dịch theo hướng hợp lý đã làm cho
hiệu quả sản xuất tăng cao, tạo điều kiện giải quyết việc làm và cải thiện đời sống cho người
lao động, thúc đẩy kinh tế trên địa bàn thị xã phát triển.
1.2. Về xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đơ thị.
Trong q trình thực hiện chuyển dịch CCKT, thị xã Cẩm Phả không ngừng đầu tư vào
việc xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị bởi đây vốn được coi là cơ sở nền tảng

cho việc phát triển kinh tế hiện tại cũng như tương lai. Đầu tư xây dựng cơ bản tăng bình quân
150%/năm. Tập trung các nguồn vốn và huy động nguồn lực trong nhân dân để cải tạo và xây
dựng hệ thống đường điện, đường giao thơng, hệ thống cấp thốt nước, trạm xá, bệnh viện,
trường học và các cơng trình công cộng đạt hiệu quả cao. Năm 2004, thị xã có 67,9 km đường
giao thơng chính nội thị được trải nhựa và bê tơng hố chiếm 90%, 100% số hộ dân nội thị có
điện sử dụng, khu vực nội thị có 59,2km hệ thống điện chiếu sáng cơng cộng, đạt 87,2%. Hệ
thống nước sinh hoạt được đầu tư xây dựng với công suất 56000m3/ngày đêm, đảm bảo cung
cấp cho trên 85% hộ dân nội thị có nước sạch sinh hoạt và sử dụng. Hệ thống thông tin bưu
điện của thị xã khá hoàn thiện với Tổng đài điện tử trung tâm dung lượng cao và có 4 Tổng đài
khu vực. Đến nay tồn thị xã có trên 29000 máy điện thoại cố định, đạt tỷ lệ 17 máy/100 người
dân.
1.3. Về văn hoá- xã hội.


Thị xã Cẩm Phả có hệ thống giáo dục khá phát triển. Hiện nay thị xã có 3 trường Cơng
nghiệp kỹ thuật, 56 trường từ mầm non đến phổ thông trung học. Đến nay thị xã đã hồn thành
chương trình phổ cập giáo dục THCS.
Mạng lưới y tế thị xã được củng cố với 3 bệnh viện, trên 500 giường bệnh, có 16 trạm y
tế xã, phường, 13 trạm y tế của các cơ quan doanh nghiệp với tổng số y, bác sĩ trên 600 người,
đảm bảo việc chăm sóc sức khoẻ cho cán bộ, công nhân và nhân dân trên địa bàn thị xã.
Cơng tác thực hiện chính sách xã hội được tổ chức tốt, các gia đình chính sách, đối
tượng xã hội được quan tâm giúp đỡ, tích cực trong công tác giải quyết việc làm, thực hiện xố
đói giảm nghèo, đến nay thị xã khơng cịn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo cịn 1,41%.

2. Các biện pháp chuyển dịch CCKT đã được thực hiện tại thị xã Cẩm Phả.
2.1. Về phát triển kinh tế.
Thị xã đã tập trung tạo điều kiện mơi trường thơng thống để các thành phần kinh tế
phát triển, có chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân làm giàu chính đáng, hợp pháp,
thực hiện tốt chính sách đầu tư, có cơ chế về đất đai, thuế, vốn, thị trường, sử dụng lao động,
tích cực mở rộng ngành nghề tiểu thủ cơng nghiệp, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển

kinh tế rừng, kinh tế biển, kinh tế trang trại và du lịch sinh thái vừa góp phần phát triển kinh tế,
vừa giữ vững cảnh quan môi trường.
2.2. Về qui hoạch và phát triển đô thị.
Thị xã đã thực hiện qui hoạch chi tiết các khu trung tâm đô thị, công khai hướng qui
hoạch đô thị để cho các tổ chức và nhân dân tham gia cùng thực hiện, nhằm phát huy sức mạnh
tổng hợp trong xây dựng và phát triển thị xã. Đồng thời, thị xã Cẩm Phả cũng tiến hành khai
thác có hiệu quả các cơ sở hạ tầng sẵn có, tập trung đầu tư và hồn thiện khơng gian kiến trúc
các khu vực trung tâm, thực hiện các dự án theo qui hoạch và chú trọng đầu tư nâng cấp cơ sở
hạ tầng cùng các cơng trình cơng cộng.
Trong q trình thực hiện chuyển dịch CCKT trên địa bàn thị xã Cẩm Phả, bên cạnh
những thành cơng thì cũng cịn tồn tại khơng ít những hạn chế. Thứ nhất, qui hoạch tổng thể
cịn chưa phù hợp với địa hình của thị xã, chưa triệt để phát triển kinh tế biển để khai thác cảnh


quan và phát huy lợi thế kinh tế biển. Thứ hai, mặc dù kinh tế thị xã đã có mức tăng trưởng khá
cao song cần phải phát huy lợi thế mở rộng kinh tế biển, dịch vụ du lịch và sản xuất vật liệu
xây dựng. Thứ ba, khi cơ sở hạ tầng đã được đầu tư xây dựng khá đồng bộ thì cần tiếp tục hồn
chỉnh thêm nhất là về cảnh quan mơi trường. Đó là những hạn chế chính được rút ra từ quá
trình thực hiện chuyển dịch CCKT của thị xã Cẩm Phả mà thị xã ng Bí có thể từ đó rút ra
được những kinh nghiệm cho địa phương mình.
3. Bài học kinh nghiệm từ thực tế của thị xã Cẩm Phả.
Để có thể thực hiện chuyển dịch CCKT thành công trên địa bàn, thị xã Uông Bí cần phải
có sự đánh giá, học hỏi từ kinh nghiệm thực tế của thị xã Cẩm Phả để hoàn thiện các chính sách
phát triển của mình. Cụ thể, đối với điều kiện khách quan của địa phương, thị xã ng Bí nên
có những chính sách thơng thống và cởi mở hơn trong việc phát triển các thành phần kinh tế,
thu hút đầu tư nước ngồi. Bên cạnh đó, thị xã ng Bí cũng cần có sự quan tâm tốt hơn nữa
đối với vấn đề bồi dưỡng nguồn nhân lực, ứng dụng KHKT vào sản xuất, cũng như giải quyết
các vấn đề môi trường, tận dụng lợi thế trong phát triển thương mại- dịch vụ- du lịch. Song
song chú trọng đến các vấn đề kinh tế, thị xã cần phải có những cơ chế đặc thù để giải quyết
các vấn đề xã hội như: xố đói giảm nghèo, phát triển mạng lưới phúc lợi cơng cộng, giữ gìn an

ninh trật tự... Có như vậy, q trình chuyển dịch CCKT của thị xã mới có kết quả như mong
đợi.


Chương 2: Thực trạng chuyển dịch CCKT ở thị xã ng Bí.
I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của thị xã ng Bí, tỉnh Quảng Ninh.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Thị xã ng Bí có vị trí kinh tế đặc biệt, nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía
Bắc: Hà Nội- Hải Phịng- Quảng Ninh; có nguồn than dồi dào, chất lượng tốt là thế mạnh để
phát triển ngành cơng nghiệp khai thác, có điều kiện tự nhiên, khí hậu thích hợp phát triển
ngành nơng- lâm- thuỷ sản theo hướng đa dạng hố cây trồng, vật ni; khu danh thắng Yên
Tử, khu du lịch Hồ Yên Trung, Lựng Xanh, Hang Son nằm trên địa bàn thị xã là những điểm
du lịch nổi tiếng được nhiều người biết đến.
1.1. Vị trí địa lý.
Thị xã ng Bí nằm phía Tây tỉnh Quảng Ninh trên trục quốc lộ 18A, cách Hà Nội
120km, cách Hải Phòng 29km và cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 40km về phía đơng. Phía đơng
giáp huyện n Hưng, phía tây giáp huyện Đơng Triều, phía bắc giáp huyện Sơn Động tỉnh
Bắc Giang, phía nam giáp thành phố Hải Phịng qua sơng Đá Bạc chảy ra sơng Bạch Đằng,
phía đơng giáp huyện Hồnh Bồ. ng Bí nằm ở sườn phía đơng nam vịng cung Đơng Triều,
vị trí này tạo cho ng Bí một điều kiện tự nhiên khác với các vùng lãnh thổ khác.
1.2. Đặc điểm thời tiết, khí hậu, thuỷ văn.
Theo số liệu của cục thống kê Quảng Ninh, điều kiện tự nhiên, khí hậu thị xã ng Bí
năm 2004 được thể hiện qua bảng 1.
Nhiệt độ trung bình năm là 24,40C, nhiệt độ cao nhất tập trung vào tháng 6, 7, 8, nhiệt
độ thấp nhất tập trung vào tháng 12,1,2 năm sau. Lượng mưa trung bình 1672 mm tập trung và
phân bổ theo mùa, đặc biệt vào các tháng 7,8,9. Độ ẩm khơng khí trung bình năm là 83,2%,
thay đổi theo mùa từ cao nhất là 88% đến thấp nhất là 72%. Số giờ nắng bình quân trong năm
là 1730,4 giờ, tập trung vào các tháng 7,8,9, 10.
Nhìn chung, thị xã ng Bí chịu ảnh hưởng của vùng khí hậu Đơng Bắc Bắc bộ khá rõ
nét với đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều về mùa hè, hanh khơ kéo dài về mùa đơng. Với khí hậu

đa dạng như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp theo
hướng đa dạng hố cây trồng, vật ni. Số giờ nắng trung bình năm tương đối cao tạo điều kiện


×