Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Luận văn giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty cổ phẩn NAJIMEX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.33 KB, 50 trang )

Luận văn
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ của công ty cổ
phẩn NAJIMEX

1


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO). Toàn bộ nền kinh tế Việt Nam sẽ có những thay
đổi quan trọng. Đối với nhiều doanh nghiệp, sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị
trường kinh doanh, tăng sản lượng tiêu thụ, tăng quy mô sản xuất tạo được thế
mạnh cho doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn bởi số
lượng tham gia kinh doanh cùng lĩnh vực và các ngành nghề khác có liên quan
sẽ nhiều hơn. Môi trường kinh doanh ngày càng trở nên sôi động và khó dự
báo hơn.
Công ty cổ phần NAJIMEX cũng không nằm ngoài xu thế đó. Mới thành
lập từ tháng 1 năm 2004. Ngành nghề kinh doanh chính là kinh doanh hàng
thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, nguyên liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và dịch vụ
nhà hàng khách sạn. Sau 3 năm hoạt động kinh doanh toàn bộ cán bộ và nhân
viên trong công ty đã không ngừng nỗ lực phát triển hoạt động kinh doanh của
công ty, và thương hiệu sản phẩm thủ công mỹ nghệ của công ty NAJIMEX đã
có vị trí đối với người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Tuy vậy công ty
vẫn sẽ có nhiều khó khăn và thách thức trong môi trường kinh doanh mới, do
hội nhập nền kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh sẽ cao hơn. Do đó em chọn đề
tài làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp là: “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng
thủ công mỹ nghệ của công ty cổ phẩn NAJIMEX”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Đề ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng


thủ công mỹ nghệ của của công ty cổ phần NAJIMEX và đưa ra được một số
gợi ý có ích cho công tác hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
công ty trong tương lai.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Bài viết tập trung nghiên cứu các vấn đề sau:
- Hệ thống hoá lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá và nêu ra sự cần
thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
2


- Phân tích thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ
nghệ của công ty trong những năm qua, từ đó đánh giá ưu nhược điểm trong
việc thúc đẩy xuất khẩu hang thủ công mỹ nghệ của công ty.
- Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
của công ty cổ phần NAJIMEX trong thời gian tới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty có nhiều nhóm hàng,
nhưng bài viết chỉ nghiên cứu hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nhóm hàng thủ
công mỹ nghệ của công ty từ khi mới thành lập cho đến nay.
4. Bố cục bài viết
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, bài thực tập chuyên ngành được
chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá và sự cần thiết
phải thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
Chương II: Thực trạng thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của
công ty giai đoạn 2004 – 2006
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty giai đoạn 2007 -2010

Do còn nhiều hạn chế về kiến thức hiểu biết và thời gian thực hiện nên
bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp

ý kiến và phê bình của cô giáo và các anh chị trong công ty NAJIMEX
Em xin chân thành cám ơn !

3


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VÀ SỰ CẦN
THIẾT PHẢI THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ
CỦA VIỆT NAM

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
1. Khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm xuất khẩu
Xuất khẩu là hoạt động bán hàng hoá hoạc dịch vụ của một quốc gia này
sang quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền tệ làm chức năng thanh toán. Cơ sở
của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả
hàng hoá hữu hình và vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi
hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này này mở rộng phạm vi ra
ngoài biên giới của quốc gia hoạc của thị trường nội địa.
Như vậy, ta thấy xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên
phạm vi quốc tế. Nó không chỉ là những hành vi buôn bán riêng lẻ, mà là cả
một hệ thống các quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức.
Các quốc gia khi tham gia hoạt động buôn bán, giao dịch quốc tế đều
phải tuân theo các thông lệ quốc tế đã quy định.
1.2. Vai trò của xuất khẩu
Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa quan
trọng chiến lược để phát triển kinh tế và tiến hành quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước. Vai trò của xuất khẩu thể hiện ở các mặt:
1.2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn quan trọng để thoả mãn nhu cầu

nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất
Nhập khẩu cũng như vốn đầu tư của một đất nước thường dựa vào 3
nguồn tiền chủ yếu: Viện trợ, đi vay và xuất khẩu. Trong đó xuất khẩu là
nguồn vốn quan trọng nhất để thoả mãn nhu cầu nhập khẩu những tư liệu sản
xuất thiết yếu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Trong thực
4


tiến xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả, vừa
là tiền đề của nhau, đẩy mạnh xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu và có vốn
để tích luỹ đầu tư, tăng nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng xuất khẩu. Cho
nên trong kinh doanh phải luôn kết hợp giữa xuất khẩu và nhập khẩu, kết hợp
trong sản xuất, kết hợp trong mua bán, kết hợp trên thị trường, kết hợp giứa các
mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu.
1.2.2. Đẩy mạnh xuất khẩu được xem là yếu tố quan trọng kích thích sự
tăng trưởng kinh tế
Việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều
ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, phản ứng dây chuyền giúp các
ngành kinh tế khác phát triển theo, kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền
kinh tế phát triển mạnh, có hiệu quả. Sự tác động của xuất khẩu tới sản xuất thể
hiện ở nhiều khía cạnh như: xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát
triển, chẳng hạn như việc phát triển ngành dệt may xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho
việc hình thành và phát triển các ngành sản xuất nguyên liệu: bông, sợi tổng
hợp, thuốc nhuộm…Xuất khẩu còn tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng
các yếu tố đầu vào cho sản xuất qua hoạt động nhập khẩu, từ đó nâng cao năng
lực sản xuất của các quốc gia. Dó đó xuất khẩu là yếu tố quan trọng để kích
thích sự tăng trưởng kinh tế.
1.2.3. Xuất khẩu kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới về quy cách
chất lượng sản phẩm thì một mặt phải đổi mới trang thiết bị công nghệ trong

quá trính sản xuất, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi
những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Ngoài ra, còn phải kể đến sự cạnh tranh
trên thị trường thế giới có tác động tích cực đến sản xuất. Để tồn tại và có thị
phần trên thương trường, các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình. Để nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp
phải chú trọng đến việc tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lí các yếu tố đầu
vào, cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Qua
5


đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng phấn đấu vươn lên hợp lí hóa
và phát triển doanh nghiệp lên tầm cao mới, phù hợp với sự phát triển của thời
đại.
1.2.4. Đẩy mạnh xuất khẩu có tác động thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng sử dụng hiệu quả nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất
nước
Xuất khẩu theo như cách nhìn nhận cổ điển, nó chỉ là việc tiêu thụ
những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu trong nước, trong trường
hợp nền kinh tế còn chậm phát triển và lạc hậu như nước ta, sản xuất về cơ bản
vẫn chưa đủ cho tiêu dùng. Nếu như chờ ở sự thừa ra của sản xuất, tất yếu xuất
khẩu sẽ vẫn chỉ nhỏ bé với tăng trưởng không đáng kể.
Vì vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ cấu kinh
tế. Xuất khẩu chính là nhân tố đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hay
nói cách khác xuất khẩu là động lực của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xuất
khẩu là việc xác định thị trường quốc tế từ đó làm định hướng quan trọng để tổ
chức sản xuất. Chuyên môn hoá ngành nghề, lĩnh vực quan trọng của một quốc
gia Nó có tác động tích cực đến sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, thúc đấy sản
xuất phát triển.
1.2.5. Đẩy mạnh xuất khẩu làm cho sản phẩm sản xuất của quốc gia sẽ
tăng thông qua mở rộng thị trường ra quốc tế, cho phép các quốc gia đang phát

triển thực hiện quy mô lợi thế kinh tế mà có thể bị giới hạn trong thị trường nội
địa
Đối với doanh nghiệp, xuất khẩu tạo ra khả năng tiêu thụ sản phẩm bằng
việc khai thác tốt không những thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế.
Với thị trường trong nước, đôi khi nhu cấu tiêu thụ còn nhỏ chưa tạo ra động
lực cho doanh nghiệp trong việc tăng quy mô, tăng năng lực sản xuất. Với hoạt
động xuất khẩu nó mở ra cho doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa cao
nhờ có thị trường rộng lớn với sức mua cao. Điều này đồng nghĩa với tổng sản
phẩm sản xuất của quốc gia tăng thông qua mở rộng với thị trường quốc tế.
6


Một nền công nghệp mà không có sự cạnh tranh với bên ngoài thường
không tạo động lực cho sự cải tiến. Mở cửa kinh tế, phát triển hướng về xuất
khẩu có thể nuôi dưỡng sự tăng trưởng của xí nghiệp công nghiệp non trẻ, có
khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới bằng việc mở rộng thị trường và
đưa ra những sản phẩm và quy trình sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường
và nhu cầu về các loại sản phẩm khác nhau ở các quốc gia. Điều này cho phép
các quốc gia đang phát triển thực hiện quy mô lợi thế kinh tế mà cho thể bị giới
hạn trong thị trường nội địa.
1.2.6. Đẩy mạnh xuất khẩu có tác dụng tích cực và hiệu quả đến nâng
cao mức sống của nhân dân
Trước hết là để sản xuất hàng xuất khẩu và các dịch vụ liên quan. Nó
tạo ra công ăn việc làm thu hút hàng triệu lao động, mang lại thu nhập không
thấp, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong cả nước. Ngoài ra một phần
kim ngạch xuất khẩu dùng để nhập khẩu những hàng tiêu dùng thiết yếu góp
phần cải tiến mức sống của người dân. Hàng năm, hoạt động xuất khẩu đóng
góp vào tổng thu nhập quốc dân – GDP một lượng không nhỏ, là nhân tố tạo đà
cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
1.2.7. Đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các

nước, nâng cao vị trí và vai trò của nước ta trên trường quốc tế
Với sự hợp tác song phương và đa phương với các quốc gia đã tạo ra cơ
hội lớn cho đất nước phát triển kinh tế bằng các hình thức hợp tác liên kết xuất
khẩu giữa các nước. Một minh chứng rõ nét là nhờ khả năng xuất khẩu dầu thô
và gạo của chúng ta lớn mà nhiều nước muốn thiết lập các mối quan hệ buôn
bán và đầu tư với Việt Nam, đồng thời thiết lập được các mối quan hệ với các
nước về các lĩnh vực khác như: quốc phòng, anh ninh, giao dục…
Tóm lại: Xuất khẩu có vai trò to lớn trong việc phát triển kinh tế của đất
nước bằng việc thông qua mở rộng thị trường, tạo tiền đề cho các doanh nghiệp
tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, từ đó tạo ra mức sống cao hơn

7


của ngươi dân. Xuất khẩu tạo ra cơ hội cho các ngành, các doanh nghiệp kinh
doanh trên thị trường quốc tế.
1.3. Các hình thức xuất khẩu hàng hoá chủ yếu
1.3.1. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức mà một doanh nghiệp bán trực tiếp sản
phầm của mình cho khách hàng ở thị trường mục tiêu. Tức họ trực tiếp tiến
hành các giao dịch với khách hàng ở nước ngoài thông qua các tổ chức của
mình. Hình thức này được áp dụng khi nhà sản xuất đã đủ mạnh để tiến tới tiến
trình thành lập tổ chức bán hàng riêng của mình và kiểm soát được toàn bộ quá
trình xuất khẩu thông qua đại diện bán hàng và nhà phân phối.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp chủ động tự mình khai thác,
tìm kiếm và thâm nhập thị trường, chính vì vậy doanh nghiệp có thể đáp ứng
được đòi hỏi của thị trường, gợi mở và kích nhu cầu. Hơn nữa lợi nhuận thu
được của doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức xuất khẩu khác vì không
tốn các chi phí trung gian. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh
nghiệp có thể tự khẳng định mình trên thị trường quốc tế… từ đó nâng cao uy

tín của mình, dần nâng cao doanh thu cũng như lợi nhuận.
Tuy nhiên, nhược điểm hình thức này là đòi hỏi doanh nghiêp phải có
một lượng vốn lớn để thu mua sản phẩm hoạc sản xuất, phải am hiểu thị trường
quốc tế vì có thể gặp nhiều rủi ro như: không xuất hàng được, khách hàng
chậm trể trong việc thanh toán.
1.3.2. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức mà một doanh nghiệp bán sản phẩm
của mình cho người trung gian và người trung gian sẽ bán sản phẩm cho khách
hàng ở thị trường mục tiêu. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới
tham gia kinh doanh vào thị trường áp dụng.
Hình thức này có ưu điểm là các doanh nghiệp không phải đầu tư nhiều
cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng và các hoạt động xúc tiến

8


thương mại. Hơn nữa, rủi ro cũng hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về
các tổ chức trung gian.
Nhược điểm của hình thức này là doanh nghiệp phải chia sẻ lợi nhuận
cho các tổ chức trung gian vì không liên hệ trực tiếp với khách hàng nước
ngoài. Do vậy việc nắm bắt thông tin về thị trường cũng bị hạn chế, dẫn đến
việc phản ứng chậm với các biến động của thị trường.
1.3.3. Buôn bán đối lưu
Đây là hình thức giao dịch mà xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập
khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng hoá trao đổi có giá trị
tương đương nhau. Có nhiều loại hình buôn bán đối lưu như: Đối lưu thông
thường, mua đối lưu, giao dịch bồi hoàn, chuyển nợ, mua lại sản phẩm.
Phương thức này ít dung đến ngoại tệ cho nên phù hợp với các nước
thiếu ngoại tệ và cũng phù hợp với các nhà xuất khẩu mở rộng thị trường, tăng
doanh số bán hàng. Hơn nữa phương thức này ít chi phí và rủi ro.

Tuy nhiên, phương thức này cũng gây không ít khó khăn cho các nhà
xuất khẩu không chuyên sâu về một mặt hàng và nhà xuất khẩu đôi khi lại trở
thành nhà khai thác thị trường cho bạn hàng vì phương thức này gắn liền xuất
khẩu với nhập khẩu.
1.3.4. Xuất khẩu theo nghị địch thư
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức mà doanh nghiệp tiến hành
xuất khẩu theo chỉ tiêu Nhà nước giao cho về một hoạc một số hàng hóa nhất
định cho chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã kỹ kết giữa hai
chính phủ.
Hình thức này cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi
phí tìm kiếm bạn hàng, rủi ro trong thanh toán.
Tuy nhiên, hình thức này lại không tạo ra tính linh hoạt trong kinh
doanh. Doanh nghiệp phải phụ thuộc vào các chỉ tiêu của nhà nước bàn giao.
1.3.5. Xuất khẩu tại chỗ

9


Đặc điểm của loại hình này là hàng hoá và dịch vụ chưa vượt ra ngoài
biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu. Đó
là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho các đoàn ngoại giao, cho khách du
lịch quốc tế.
Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí
bao bì, đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải… tránh được những rắc rối
hải quan, thu hồi vốn nhanh. Hình thức này phát triển mạnh ở các nước có thế
mạnh về du lịch, thu hút được một lượng lớn du khách đến tham quan và mua
hàng hoá.
Tuy vậy, hình thức này lại không cung cấp được thị trường mục tiêu với
quy mô lớn vì không thể có được lượng khách lớn như xuất khẩu trực tiếp.
1.3.6. Xuất khẩu gia công

Xuất khẩu gia công là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó
một bên ( gọi là bên nhận gia công ) nhập nguyên liệu hoạc bán thành phẩm
của một bên khác ( gọi là bên đặt gia công ) để chế biến thành phẩm, giao lại
cho bên đặt gia công và nhận thù lao ( gọi là chi phí gia công ).
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương
của các nước.
Ưu điểm của hình thức này là: với bên đặt gia công thì phương thức này
giúp họ lợi dụng được giá rẻ về nguyên phụ liệu của nước nhận gia công. Đối
với bên nhận gia công, hình thức này giúp họ giải quyết công ăn việc làm cho
nhân công lao động trong nước hoạc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về
nước mình.
Nhược điểm của hình thức này là: Các doanh nghiệp nhận gia công
thường bị động về vấn đề thị trường, không chủ động tìm kiếm thị trường,
chính vì vậy lợi nhuận đạt được từ hoạt động này rất thấp so với các doanh
nghiệp tham gia vào hoạt động xuất khẩu trực tiếp. Hình thức này phù hợp với
các nước đang phát triển, có nguồn lao động dồi dào, kinh nghiệm sản xuất còn
non yếu, vốn ít.
10


1.3.7. Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu đóng vai trò trung gian
xuất khẩu (bên nhận uỷ thác), làm thay cho các đơn vị sản xuất (bên uỷ thác)
những thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá và được hưởng phần trăm theo
giá trị hàng xuất khẩu đạt được thoả thuận.
Ưu điểm của hình thức này là: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ
vốn vào kinh doanh, tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được
khoản lợi nhuận là hoa hồng xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng xuất khẩu
nên tất cả các chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp
đồng và thức hiện hợp đồng là do công ty uỷ thác xuất khẩu đảm nhiệm dấn

đến giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Nhược điểm của hình thức này là: Hiệu quả kinh doanh thấp vì công ty
uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên không bảo đảm tính
chủ động trong kinh doanh, thị trường và khách hàng bị thu hẹp, lợi nhuận bị
chia sẻ. Vì vậy hình thức này chỉ áp dụng khi thật cần thiết. Đó là khi thâm
nhập vào thị trường mới, khi tập quán đòi hỏi phải bán hàng thông qua trung
gian hay khi mặt hàng đòi hỏi sự chăm sóc đặc biệt.
1.3.8. Tái xuất khẩu
Tái xuất khẩu là việc xuất khẩu trở lại ra nước ngoài những hàng hoá
trước đây đã nhập khẩu thông qua chế biến ở nước tái xuất.
Tái xuất có thể thực hiện bằng một trong hai hình thức sau:
Tái xuất theo đúng nghĩa của nó: Trong hình thức này hàng hoá đi từ
nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi lại được xuất khẩu từ nước tái xuất sang
nước nhập khẩu. Ngược chiều với sự vận động của hàng hoá là sự vận động
của tiền, nước tái suất trả tiền nước xuất khẩu và thu tiền nước nhập khẩu.
Chuyển khẩu: Trong đó hàng hoá từ nước xuất khẩu trực tiếp sang nước
nhập khẩu, nước tái xuất trả tiền cho nước xuất khẩu và thu tiền của nước nhập
khẩu.

11


Mục đích của việc thực hiện giao dịch tái xuất là mua rẻ hàng hoá ở
nước này bán đắt hàng hoá ở nước khác và thu về ngoại tệ lớn hơn ban đầu.
Hình thức này được áp dụng khi doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ tái
xuất khẩu phải có kinh nghiệm kinh doanh, am hiểu về thị trường và giá cả, có
nhiều bạn hàng ở nước ngoài, có những nhân viên giỏi về nghiệp vụ thanh
toán.
Tóm lại: Có nhiều hình thức xuất khẩu, mỗi hình thức đều có ưu điểm
và nhược điểm. Trên đây là một số loại hình xuất khẩu điển hình thường thấy

trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Trong đó mặt hàng của ngành thủ công
mỹ nghệ cũng thường hoạt động theo các hình thức xuất khẩu này. Đặc biệt
xuất khẩu gián tiếp, xuất khẩu tại chỗ, xuất khẩu gia công là các hình thức xuất
khẩu thường được sử dụng đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
2.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
2.1.1. Nhân tố chính trị
Chính trị là tổng thể các quan đểm, các phương pháp hoạt động thực tế
của Đảng, của Nhà nước, của giai cấp. Nó bao gồm cả các yếu tố khách quan
và chủ quan. Chính trị có thể kích thích cũng như có thể cản phá quá trình quốc
tế hoá các hoạt động kinh doanh phát triển theo hướng nhất định. Ví dụ, đường
lối chính sách sai sẽ dẫn đến bế tắc về kinh tế thậm chí đổ vỡ cả hệ thống chính
trị. Sự bất ổn có thể ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh nên buộc đối tác
phải tạm ngừng kinh doanh và đánh giá lại các cơ hội kinh doanh trên thị
trường để phân bố lại nguồn lực vào thị trường có độ an toàn cao hơn.
2.1.2. Nhân tố văn hoá
Văn hoá là phạm trù chỉ các giá trị tín ngưỡng, luật lệ và thể chế do một
nhóm người lập nên. Văn hoá phản ánh thẩm mỹ, giá trị và thái độ, phong tục
và tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục, môi trường
vật chất và môi trường tự nhiên. Các hoạt động kinh doanh quốc tế thường bị
cản trở bởi sự khác nhau về văn hoá giữa các quốc gia, các dân tộc. Nhiều hợp
12


đồng không thực hiện được do sự chống đối của người dân của quốc gia nhập
khẩu khi mà một số yếu tố thuộc sản phẩm không phù hợp với phong tục, tập
quán của người dân. Một sản phẩm sản xuất ra muốn xuất khẩu được thì phải
phù hợp với sở thích tiêu dùng địa phương, nơi nhà kinh doanh xuất khẩu
hàng. Muốn đạt được điều này, nhà sản xuất và nhà xuất khẩu phải có kiến
thức và am hiểu về văn hoá của khách hàng.

2.1.3. Nhân tố kinh tế - xã hội
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung của hoạt động kinh tế. Nó phụ
thuộc rất nhiều vào tiềm lực sản xuất trong nước. Nếu một quốc gia có nền
kinh tế xã hội ổn định và phát triển bên vững thì sẽ thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu và ngược lại, nếu một quốc gia có nền kinh tế bất ổn sẽ làm cho hoạt
động xuất khẩu bị đình trệ.
Những bất ổn về kinh tế - xã hội ở quốc gia xuất khẩu cũng như ở quốc
gia nhập khẩu sẽ làm tăng mức độ rủi ro cho các nhà xuất khẩu vì hiện tượng
này làm cho các ngành xuất khẩu không thể dự đoán được chính xác các thay
đổi về môi trường bên ngoài như: Thị trường cung ứng vật liệu, mức tăng giảm
nhu cầu thị trường, chi phí sản xuất… Từ đó nhà xuất khẩu không đua ra được
các biện pháp chống đỡ. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc các nước đang phát
triển như Việt Nam thường rất lúng túng khi mà nền kinh tế - xã hội thay đổi
không theo đúng quy luật bởi khả năng chịu đựng rủi ro của họ rất thấp, và
thường thì họ chọn phương án “an toàn”. Như vậy sự bất ổn về kinh tế - xã hội
của một quốc gia sẽ là nguyên nhân làm cho năng lực sản xuất và hoạt động
xuất khẩu bị giảm sút.
Cơ sở hạ tầng cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của
một quốc gia. Thông thường một quốc gia có kết kấu hạ tầng hiện đại thì sẽ
làm cho hoạt động xuất khẩu được thuận lợi hơn vì các kết cấu hạ tầng liên
quan đến số lượng và chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Quy mô nhà xưởng sẽ
quyết định đến số lượng sản phẩm, hạ tầng kỹ thuật sẽ tác động đến chất lượng
sản phẩm bởi sản phẩm được sử lý trên dây chuyền kỹ thuật hiện đại sẽ làm
13


cho chất lượng sản phẩm đồng đều. Sản phẩm được bảo quản cẩn thận và đúng
yêu cầu kỹ thuật cộng thêm việc vận chuyển bảo đảm sẽ làm giảm số lượng sản
phẩm loại do bị hỏng và kém phẩm chất.
2.1.4. Định hướng xuất khẩu của Chính phủ và các công cụ thuế quan

của Nhà nước
2.1.4.1. Thuế quan
Một trong những nhân tố tác động đến xuất khẩu trước hết phải kể đến
thuế quan - thuế xuất nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu
đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu khi qua lĩnh vực thuế quan của một quốc
gia.
Đối với các hàng hóa xuất khẩu, một số loại mặt hàng sẽ phải chịu hai
loại thuế: thuế xuất khẩu do chính quốc gia sở tại đánh thuế và thứ hai là thuế
nhập khẩu ở thị trường mà hàng hoá xuất khẩu được đưa vào. Loại thuế thứ
nhất sẽ ít ảnh hưởng tới xuất khẩu, bởi lẽ các quốc gia đa phần đều khuyến
khích xuất khẩu, vì vậy hàng hoá xuất khẩu sẽ được ưu tiên và chỉ bị đánh thuế
với tỷ lệ nhỏ, thậm chí được miễm thuế. Rào cản lớn nhất mà hàng xuất khẩu
phải chịu là thuế nhập khẩu của một quốc gia, nơi có thị trường mục tiêu. Thuế
nhập khẩu yêu cầu người nhập khẩu hàng hoá phải trả một tỷ lệ thanh toán cụ
thể theo giá cả trong nước. Qua đó nó làm tăng chi phí của hàng hoá nhập
khẩu. Để đảm bảo có lợi nhuận trong trường hợp này, các thương nhân, doanh
nghiệp buộc phải nâng cao giá bán hàng hoá. Khi giá hàng hoá được bán ở
mức cao hơn sẽ có tác động làm giảm mức tiêu thụ nội địa theo đúng quy luật
cung cầu: giá cao dẫn đến cầu giảm tất yếu khi đó ảnh hưởng đến xuất khẩu ở
thị trường nguồn.
Giả sử cung hàng hóa trên thị trường đều do nhập khẩu (đường cung
SS) cung ứng. DD là đường cầu nội địa. Bây giờ ta sẽ xem xét sự ảnh hưởng
của thuế nhập khẩu đến hoạt động xuất khẩu.
Khi chưa có thuế quan, giả thiết thị trường đang ở điểm cân bằng E, với
mức sản lượng cân bằng Qe và mức giá cân bằng Pe. Khi mức thuế nhập khẩu
14


được áp dụng, giá cả hàng hoá tăng lên từ Pe đến P1 dẫn đến nhu cầu về hàng
hoá giảm đi từ Qe đến Q1. Theo đúng quy luật cung cầu, giá cả tăng dẫn đến

nhu cầu giảm. Khi nhu cầu giảm từ Qe đến Q1, nếu cung hàng hoá không kịp
thời điều chỉnh nó sẽ tạo ra một lượng dư thừa bằng hiệu Qe-Q1. Để thích ứng
với điều này buộc phải giảm nhập khẩu và chỉ nhập khẩu tới mức sản lượng Q1
nghĩa là giảm hơn nhiều khi chưa có thuế. Sự sụt giảm nhập khẩu này sẽ kéo
theo việc giảm lượng xuất khẩu tại thị trường nguồn.

D
S

B

A

P1
C

E

PE
D

S

Q3

Q2

Q1

QE


Hình 1: Sự ảnh hưởng của thuế quan đến hoạt động xuất khẩu
2.1.4.2. Các biện pháp phi thuế quan
- Hạn ngạch
Hạn ngạch được hiểu là quy định của nhà nước về số lượng (hay giá trị)
của một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu
từ một thị trường nhất định thông qua hình thức cấp phép (Quota xuất – nhập
khẩu). Hạn ngạch thường là những quy định hạn chế về mặt số lượng đối với

15


những mặt hàng dễ đo đếm, kiểm kê và có gía trị lớn. Nó thường không được
áp dụng hoặc hạn chế đối với những mặt hàng khó đo đếm, kiểm kê.
- Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa bản tệ (hay nội tệ) so với các
ngoại tệ khác đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do.
Tỷ giá hối đoái là loại giá quan trọng nhất, chi phối những loại giá khác
và có tác động trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu
sự tác động trực tiếp và nhạy cảm nhất trước sự biến động của tỷ giá hối đoái.
Bởi vì, nó là loại giá quốc tế, tỷ giá hối đoái dùng để tính toán, thanh toán cho
hàng hoá , dịch vụ xuất nhập khẩu.
Tỷ giá hối đoái gồm hai loại: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối
đoái thực tế.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ lệ mà tại đó một người đổi đồng tiền
của quốc gia này lấy một đồng tiền của quốc gia khác. Một nước có đồng tiền
mạnh có khả năng tạo ra sức mua lớn hơn, nhờ khả năng thu được nhiều ngoại
tệ hơn khi quy đổi đồng nội tệ của mình, và như vậy có lợi thế trong việc nhập
khẩu. Tuy nhiên đối với xuất khẩu thì ngược lại, hàng hoá xuất khẩu của các
quốc gia này thường kém khả năng cạnh tranh về giá so với các hàng hoá ở các

quốc gia khác. Tuy nhiên thước đo chính xác nhất để đánh giá lợi thế cạnh
tranh cho hàng xuất nhập khẩu phải được nhìn nhận thông qua loại tỷ giá hối
đoái thứ hai là tỷ giá hối đoái thực tế.
Tỷ giá hối đoái thực tế là tỷ lệ mà tại đó một người trao đổi dịch vụ,
hàng hoá nước này lấy dịch vụ, hàng hoá nước khác.
Tỷ giá hối đoái thực tế được tính bằng công thức:
Tỷ giá hối đoái thực tế = ( tỷ giá hối đoái danh nghĩa × chỉ số giá quốc
tế)/chỉ số giá cả trong nước
Tỷ giá hối đoái thực tế có hai mục đích: một là để điều chỉnh tác động
của mức lạm phát và hai là phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng

16


cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu của nền kinh tế một quốc
gia.
Như vậy khi tỷ giá hối đoái thực tế của một quốc gia thấp, lượng hàng
hoá dịch vụ trao đổi được từ nước khác sẽ ít hay lượng hàng hoá nhập khẩu sẽ
bị hạn chế đồng thời thuận lợi cho xuất khẩu. Và ngược lại khi tỷ giá hối đoái
thực tế của một quốc gia cao sẽ kích thích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu.
- Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật
Đây là các quy định về tiêu chuẩn vệ sinh, đo lường, an toàn lao động,
bao bì đóng gói, đặc biệt là các tiêu chuẩn vệ sinh về môi trường sinh thái.
Những quy định này thường xuất phát từ các đòi hỏi thực tế của đời sống xã
hội và phản ánh trình độ phát triển đạt được của nền văn minh nhân loại.
Những trên thực tế người ta sử dụng tiêu chuẩn này thành công cụ cạnh tranh
có lợi cho nước chủ nhà trong các quan hệ thương mại quốc tế. Theo điều tra
thống kê, hiện nay trên thế giới có hơn 1/3 lượng hàng hoá buôn bán quốc tế
gặp phải những trở ngại do quá nhiều tiêu chuẩn kỹ thuật được đặt ra. Một liên
minh điển hình trong việc đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật là Liên minh Châu Âu

EU. Để được xuất khẩu và bán hàng trên thị trường này một yêu cầu đầu tiên là
hàng hoá đó phải đáp ứng được các tiêu chuẩn do EU đặt ra. Đây gần như là
yêu cầu khắt khe nhất khi xuất khẩu hàng hoá sang EU.
- Trợ cấp xuất khẩu
Đây là những biện pháp của nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất
hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhằm tăng nhanh
số lượng hàng và trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp mà chính phủ áp dụng như trợ
cấp trực tiếp hoặc cho vay với tỷ lệ lãi suất thấp, miễn thuế cho các nhà xuất
khẩu trong nước. Chính phủ cũng có thể thực hiện một khoản vay ưu đã đối
với các bạn hàng nước ngoài, để phía nhập khẩu có điều kiện thu mua các sản
phẩm do nước mình sản xuất ra một cách nhanh và hợp lí nhất. Đây chính là
chế độ ưu đãi dành cho đối tác, để khuyến khích xuất khẩu của nước mình.
17


Biện pháp này thường được các nước công nghiệp phát triển áp dụng dưới
danh nghĩa khoản tín dụng, viện trợ cho các nước đang phát triển vay. Trợ cấp
xuất khẩu là đòn bẩy kinh tế có tác dụng tích cực dến việc phát triển xuất khẩu
- Hàng rào phi thuế quan
Đây là những quy định hành chính phân biệt đối xử nhằm chống lại
hàng hoá nước ngoài và ủng hộ sản xuất nội địa. Hàng rào phi thuế quan được
coi là những khác biệt trong những quy định hoặc tập quán của các quốc gia
làm cản trở lưu thông tự do của các hàng hoá dịch vụ và các yếu tố sản xuất
đối với các nước.
Nhà nước dùng các biện pháp như tuyên truyền quảng cáo, khuyên
người tiêu dùng chỉ nên sử dụng hàng hoá nội địa, hạn chế dùng hàng hoá nhập
khẩu.
Để xuất khẩu hàng hoá vào các nước có hàng rào phi thuế quan đòi hỏi
hàng xuất khẩu phải đáp ứng được các nhu cầu đặt ra như mẫu mã chủng loại,

an toàn vệ sinh, phù hợp với các tiêu chuẩn đặt ra. Đây là những đòi hỏi bắt
buộc đối với hàng xuất khẩu. Tuy nhiên việc đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu
này không phải là dễ, chính điều này làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng là một trong những hình
thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan. Hình thức này thường đựơc áp dụng
cho các nước có khối lượng xuất khẩu quá lớn về mặt hàng nào đó, nhất là đối
với những mặt hàng có sức cạnh tranh cao có xu hướng mở rộng nhanh thị
phần trên thị trường của nước bị thâm nhập.
2.2. Các nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp
2.1.1. Năng lực quản trị của ban lãnh đạo
Đây là một bộ phận đầu não của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến
lược kinh doanh cho doanh nghiệp, để đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển
công ty, đồng thời giám sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra.
Đồng thời họ cũng là người gánh vác trách nhiệm kinh doanh trực tiếp trước cơ
quan Nhà nước trực thuộc địa phương nơi mà doanh nghiệp đó có trụ sở chính.
18


Ví vậy, trình độ năng lực quản lý của ban lãnh đạo có ảnh hương trực tiếp tới
toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp.
2.1.2. Cơ cấu tố chức bộ máy hoạt động của doanh nghiệp
Một cơ cấu hợp lý sẽ loại trừ các “nhiếu” trong sự truyền tải thông tin từ
ban lãnh đạo tới các thành viên trong công ty. Cơ cấu tổ chức này có thể sửa
đổi, bổ sung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí. Đồng thời cơ cấu
tổ chức cũng ảnh hưởng tới việc ra quyết định, giúp ban lãnh đạo đưa ra những
quyết định, khách quan hợp lý.
Như vậy, cơ cấu tổ chức không những ảnh hưởng tới quá trình ra quyết
định kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.3. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp
Con người có vị trí trung tâm và có vai trò quyết định sự thành công hay

thất bại của doanh nghiệp. Vì vậy mọi chính sách và biện pháp được áp dụng
trong doanh nghiệp phải hướng vào mục tiêu cơ bản là vì sự phát triển của bản
thân người lao động và doanh nghiệp. Lao động trong donh nghiệp thương mại
có vị trí và đặc điểm rất quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp:
Thứ nhất: Nguồn nhân lực là một trong ba yếu tố cơ bản, hơn thê nữa là
yếu tố quyết định các hoạt động của doanh nghiệp. Nếu không có con người
với những trình độ chuyên môn, kỹ thuật nghiệp vụ nhất định thì bộ máy doanh
nghiệp không thể vận hành được. Các yếu tố vốn, tài sản chỉ là các điều kiện
cần thiết để quá trình hoạt động của doanh nghiệp có thể được thực hiện.
Thứ hai: Lao động là yếu tố sáng tạo ra giá trị mới. Việc nâng cao năng
xuất lao động là nguyên nhân cơ bản, quyết định hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Quy mô lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp
phụ thuộc rất lớn vào việc quản trị lực lượng lao động của doanh nghiệp.
Thứ ba: Hiệu quả trong doanh nghiệp thương mại cũng chịu ảnh hưởng
giới hạn bởi các yếu tố về thời gian làm việc, thể lực, trí lực và các yếu tố tâm
sinh lý.
19


Hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động lưu thông hàng hoá. Vì vậy
không những lĩnh vực sản xuất vật chất đòi hỏi phải hao phí sức lao động mà
hoạt động xuất khẩu lưu thông hàng hoá cũng đòi hỏi phải hao phí sức lao
động để thực hiện việc lưu thông hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực
tiêu dùng. Các Mác nói: “hàng hoá không thể tự mình đi tới thị trường được,
cũng không thể tự mình trao đổi với nhau được”. Lưu thông hàng hoá là một
khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, do đó đòi hỏi bộ phận lao động trong
lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu ngày càng gia tăng và chuyên nghiệp. Do vậy
có thể thấy tậm quan trọng của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp. Là nhân tố
quyết định tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, quy trình hoạt động của

các doanh nghiệp xuất khẩu.
2.1.4. Nguồn vốn kinh doanh
Trong các doanh nghiệp thương mại, vốn kinh doanh có vai trò quan
trọng quyết đinh việc ra đời, hoạt động, phát triển và giải thể doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại là thể hiện bằng tiền của
toàn bộ tài sản doanh nghiệp dùng trong kinh doanh bao gồm: Tài sản bằng
hiện vật như nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, quầy hàng, hàng hoá… Tiền, ngoại
tệ, vàng, bạc, đã quý… Thương hiệu, bằng bản quyền sở hữu công nghiệp, sở
hữu trí tuệ…
Muốn thành lập doanh nghiệp thương mại cần phải có vốn pháp định,
vốn điều lệ hoạc vốn đăng ký kinh doanh.
Muốn tiến hành các hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có
vốn kinh doanh để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ như mua, bán, dự trữ
hàng hoá, vận chuyển, xếp dỡ…
Muốn phát triển kinh doanh, mở rông thị trường và khách hàng, doanh
nghiệp cần phải có nguồn hàng đủ lớn, phải mở rộng mạng lưới thu mua, bán
hàng cũng như có đội ngũ đông đảo cán bộ công nhân viên thực hiện các
nghiệp vụ kinh doanh.

20


Nếu trong một thời hạn đủ dài, doanh nghiệp thu không bù đắp nổi chi
phí, doanh nghiệp không có đủ doanh thu để trả lương cho người lao động,
không có tiền để trả lãi vay tiền ngân hàng và trả các khoản nợ quá hạn, tức là
vốn ngắn hạn của doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nợ. Doanh
nghiệp mất khả năng tín dụng tức là doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Vì vậy, nguồn vốn kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong việc sử dụng
tối ưu các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại trong hoạt động kinh doanh
xuất khẩu.

2.1.5. Các yếu tố thuộc về sản phẩm
- Sản phẩm
Trước đây các doanh nghiệp thường sản xuất cái gì mà minh có và theo
đơn đặt hàng, chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước. Cùng với sự thay đổi của thời
gian, nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường. Muốn được tồn tại và phát
triển doanh nghiệp cần phải quán triệt việc sản xuất cái gì người mua cần. Hoạt
động xuất khẩu cũng đòi hỏi như vậy, không thể sản xuất những gì mà mình
sản xuất được, mà phải sản xuất những mặt hàng mà thị trường cần. Xuất khẩu
có thể phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ khi sản phẩm xuất khẩu đáp ứng được
nhu cầu mong muốn của khách hàng.
- Quyết định về giá
Hoạt động kinh doanh xuất khẩu chỉ có thể được tiến hành khi đã có sự
nghiên cứu về thị trường: nghiên cứu hàng hoá, bạn hàng đối tác, phương thức
giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng. Do đó, vấn đề là phải có khả năng phân
tích và giải quyết các thủ tục hành chính trong hoạt động xuất khẩu. Đồng thời
doanh nghiệp vẫn cần có một đội ngũ cán bộ có khả năng kinh ngiệp trong việc
thu gom, đóng gói, bảo quản hàng hoá, kết hợp với đội ngũ cán bộ thị trường
để tìm kiếm bạn hàng, đưa ra mức giá phù hợp với xu thế tiêu dùng và mức độ
canh tranh của doanh nghiệp.
- Lựa chọn kênh phân phối phù hợp

21


Việc lựa chọn kênh phân phối phù hợp với từng thị trường, từng khách
hàng tiềm năng cũng là một trong những giải pháp thúc dẩy xuất khẩu của
doanh nghiệp. Với mỗi thị trường khác nhau thị đặc điểm của các kênh phân
phối cũng khác nhau. Kênh phân phối phù hợp sẽ giúp cho sản phẩm đến tay
người tiêu dùng một cách nhanh chónh nhất, dễ dàng nhất. Điều đó góp phần
làm cho sản phẩm trên thị trường nước ngoài được tiêu thụ thuận lợi, thúc đẩy

xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp ngày càng tăng thêm.
- Thực hiện các biện pháp khuếch trương, quảng cáo sản phẩm
Các doanh nghiệp sẽ thực hiện các biện pháp khuếch trương, quảng cáo
sản phẩm nhằm thu hút sự chú ý của người tiêu dùng nước ngoài, thuyết phục
họ về những lợi ích, sự hấp dẫn và những thuận lợi của sản phẩm. Tuy nhiên,
khi thực hiện chức năng này ở thị trường khác nhau cũng cần có chú ý đến
những đặc điểm khác biệt ở những thị trường khác nhau đó.
Tóm lại: Có nhiều cách phân loại các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu bao gồm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan; Các nhân
tố ảnh hưởng trực tiếp và các nhân tố ảnh hưởng gián tiếp; Các nhân tố thuộc
môi trường vĩ mô và các nhân tố thuộc môi trường vi mô…Nhưng thông
thường các nhà kinh tế thương phân loại thành các nhân tố thuộc bên ngoài
doanh nghiệp và các nhân tố thuộc bên trong doanh nghiệp vì cánh phân loại
này có thể thấy rõ sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động xuất khẩu của các doanh
nghiệp. Bởi vì chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu đa phần là các doanh
nghiệp.
Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các nhân tố được nêu trên
và phần lớn nó có tác động lớn đến các ngành và các doanh nghiệp và thường
chúng chịu sự điều tiết từ phía nhà nước.
Các nhân tố bên trong là do từ phía hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và chúng có tác động tích cực hay tiêu cự và nguyên nhân tiêu cực
được khắc phục như thê nào là do từ phía các doanh nghiệp.

22


3. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá
3.1.

Nghiên cứu, tiếp cận thị trường quốc tế và tìm đối tác

Nghiên cứu thị trường mục tiêu là một loạt các thủ tục và kỹ thuật được

đưa ra để giúp các nhà kinh doanh xuất khẩu có đầy đủ thông tin cần thiết và từ
đó đưa ra những kết luận chính xác.
3.1.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Mục đích của việc nghiên cứu này là tìm kiếm nhu cầu xuất khẩu trong
và ngoài nước để lo đầu tư vào cho doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng
xuất khẩu của mình.
Công tác nghiên cứu này cần phải trả lời được các vấn đề:
- Quy mô, cơ cấu và chiều hướng phát triển của thị trường xuất khẩu
trong và ngoài nước.
- Tình hình hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp hoạt động xuất
khẩu trong nước.
- Các giá mặt hàng xuất khẩu nghiên cứu và chiều hướng biến động giá
xuất khẩu trong nước và các thị trường trong khu vực và trên thế giới.
- Các điều kiện ràng buộc đặt ra của hãng, các Công ty đặt hàng trong
và ngoài nước.
- Quy mô thị phần của các nước nhận nhập khẩu trong khu vực, tính
chất và mức độ cạnh trạnh giữa những nhà xuất khẩu và những nhà nhập khẩu
và giưa hai loại đối tượng trên với nhau.
Các phương pháp nghiên cứu thị trường:
- Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng: Phương pháp này phổ biến và
ít tốn kém.
- Thu thập thông tin từ càc nguồn tại liệu có xuất bản hoạc không có
xuất bản. Nguồn tài liệu gồm có: các tài liệu xuất bản trong nước và ngoài
nước, các bản tin giá cả thị trường của Việt Nam, Thông tấn xã và của trung
tâm thông tin kinh tế đối ngoại, các báo tạp chí… Các tài liệu không xuất bản

23



từ các tổ chức cơ quan: các thông tin thị trường từ các cơ quan chính phủ,
phòng thương mại.
- Phương pháp nghiên cứu tại chỗ: tốn kém nhưng thông tin chắc chắn
và toàn diện. Thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp xúc với những người
kinh doanh trên thị trường (thông tin cụ thể hơn). Dùng bốn phương pháp kỹ
thuật cơ bản: phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, thăm dò, qua thư
kiểm tra kho hàng.
3.1.2. Nhận biết sản phẩm xuất khẩu
Mục đích của việc nhận biết sản phẩm xuất khẩu nhằm lựa chọn mặt
hàng xuất khẩu có lợi hơn cả. Muốn vậy, doanh nghiệp cần trả lời được các câu
hởi sau:
- Thị trường xuất khẩu đang diễn ra ở các mặt hàng nào?
- Tình hình xuất khẩu mặt hàng đó như thế nào?
- Mặt hàng xuất khẩu đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống?
- Sự tiến bộ về công nghệ sản xuất ra mặt hàng xuất khẩu đó diễn ra như
thế nào?
3.1.3. Lựa chọn đối tác đặt hàng xuất khẩu
Mục đích của việc tìm khách hàng xuất khẩu là tìm đối tác mang nhiều
ưu đãi, sự cộng tác an toàn và mang lại nhiều lợi nhuận nhất.
Việc lựa chọn đối tác đặt hàng xuất khẩu phải dựa trên cơ sở nghiên cứu
về:
- Quan điểm đặt hàng và nhận hàng của đối tác đó.
- Uy tín và quan hệ bạn hàng trong hoạt động xuất khẩu.
- Các điều kiện mà bên đặt hàng đưa ra.
- Lĩnh vực và phạm vi kinh doanh của đối tác.
- Các ưu đãi dó bên đối tác đặt hàng đưa ra.
- Mức độ gặp rủi ro của đối tác.

24



3.2. Đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đây là nội dung quan trong của hoạt động xuất khẩu mà kết quả thực
hiện có ý nghĩa quyết định đến số lượng và sản lượng xuất khẩu của các doanh
nghiệp hoạt động xuất khẩu. Ở đây có ba công việc thực hiện:
3.2.1. Thành lập tổ giao dịch
Đàm phán với các đối tác đã được xác định, doanh nghiệp phải tổ chức
ra một tổ, nhóm để thực hiện được chức năng giao dịch và đàm phán với các
đối tác.
3.2.2. Đàm phán về xuất khẩu hàng
Đam phán “hợp đồng kinh doanh quốc tế” là cuộc đối thoại giữa hai hay
nhiều bên (đại diện cho một doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh…) về vấn đề
mà các bên cùng quan tâm nhưng chưa đưa ra một sự nhất chí chung. Mục đích
của cuộc đàm phán là tìm ra những gải pháp nhằm tối đa hoá lợi ích và tối
thiểu hoá mâu thuẫn giữa các bên tham gia. Kết thúc các cuộc đàm phán này
thường đưa đến kết quả là các hợp đồng kinh doanh.
Trong quá trình đàm phán đi đến ký kết hợp đồng, những vấn đề sau
đây được quy định một cách cụ thể:
- Về thành phần, người ta xá định cụ thể tên hàng, số lượng, phẩm chất,
đóng gói đối với sản phẩm được sản xuất ra.
- Về nguyên vật liệu, người ta xác định rõ hai loại nguyên vật liệu:
+ Nguyên vật liệu chính: là nguyên vật liệu chủ yếu để làm nên thành
phẩm.
+ Nguyên vật liệu phụ: có chức năng bổ sung, làm hoàn chỉnh thành
phẩm.
- Về giá cả, người ta xác định các yếu tố tạo thành giá đó như tiền nhân
công, chi phi nguyên vật liệu, và quá trình sản xuất. Ngoài ra người ta còn tính
thêm một số chi phí nào đó về tiền thù lao như hạn ngạch.


25


×