Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.83 KB, 6 trang )

đặc san về bLtThS năm 2003

TSKH. Lê cảm *
I. T VN
1. Trong B lut t tng hỡnh s
(BLTTHS) Vit Nam nm 2003 cỏc
nguyờn tc c bn ca lut TTHS c nh
lm lut cp trong 30 iu khỏc nhau ti
Chng II Nhng nguyờn tc c bn
(cỏc iu 3-32). Nh vy, v mt k thut
lp phỏp rừ rng l cha t lm khi m
ch nh cỏc nguyờn tc ca lut TTHS
c ghi nhn dn tri trong 30 iu lut
nhng nu phõn tớch ni dung ca cỏc iu
lut ny, theo quan im ca chỳng tụi cú
th thng nht v quy nh chỳng gn li
trong 15 nguyờn tc c bn sau õy:
1) Nguyờn tc phỏp ch xó hi ch ngha
(XHCN) trong TTHS (cỏc iu 3, 12-13);
2) Nguyờn tc tụn trng v bo v nhõn
phm cỏ nhõn, cỏc quyn v t do ca cụng
dõn trong TTHS (cỏc iu 4, 6-8);
3) Nguyờn tc bỡnh ng trc lut
TTHS v tũa ỏn (iu 5);
4) Nguyờn tc suy oỏn vụ ti trong
TTHS (iu 9 v on 2 iu 10);
5) Nguyờn tc xỏc nh s tht khỏch
quan ca v ỏn (on 1 iu 10);
6) Nguyờn tc bo m quyn bo cha
ca ngi b tm gi, b can v b cỏo trong
TTHS (iu 11);


7) Nguyờn tc tham gia xột x ca hi

Tạp chí luật học

thm; thm phỏn v hi thm xột x c lp
v ch tuõn theo phỏp lut trong TTHS (cỏc
iu 15-16);
8) Nguyờn tc ch cú tũa ỏn mi cú
quyn xột x; tũa ỏn xột x tp th v cụng
khai trong TTHS (cỏc iu 17-18);
9) Nguyờn tc 2 cp xột x v giỏm c
vic xột x trong TTHS (cỏc iu 20-21);
10) Nguyờn tc thc hnh quyn cụng
t trong TTHS (iu 23);
11) Nguyờn tc dõn ch trong TTHS
(cỏc iu 24-25 v 32);
12) Nguyờn tc cụng khai trong TTHS
(cỏc iu 14, 26-27);
13) Nguyờn tc minh oan trong TTHS
(iu 29);
14) Nguyờn tc bo m hiu lc ca
bn ỏn v quyt nh ca tũa ỏn trong TTHS
(iu 22).
15) Nguyờn tc bo m quyn khiu
ni v t cỏo trong TTHS (iu 31);
2. Ngoi 15 nguyờn tc ó nờu trờn, cũn
mt nguyờn tc rt quan trng c tha
nhn chung ca lut TTHS trong nh nc
phỏp quyn ú l nguyờn tc tranh tng m
trong BLTTHS nm 2003 tuy cha c

* Khoa lut
i hc quc gia H Ni

3


®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003

nhà làm luật Việt Nam ghi nhận riêng biệt
tại Chương II “Những nguyên tắc cơ bản”
nhưng ở mức độ nhất định chúng ta vẫn có
thể nhận thấy các nhân tố của nó phần nào
cũng đã được đề cập tại một số quy định
của chương XX và chương XXI Bộ luật.
3. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những
vấn đề lí luận về nguyên tắc tranh tụng của
luật TTHS như: Cội nguồn lịch sử, phân
tích khái niệm và nội dung chủ yếu, chỉ rõ
bản chất pháp lí và ý nghĩa khoa học - thực
tiễn đồng thời đưa ra mô hình lí luận của
các quy định về nguyên tắc đó trong giai
đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam và cải cách tư pháp hiện nay, thông
qua đó thấy rõ vấn đề tranh tụng trong xét
xử hình sự tại phiên tòa với tính chất là một
bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
nguyên tắc này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng
giúp chúng ta nhận thấy rõ bản chất nhân
đạo và dân chủ của nguyên tắc thứ 16
nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự

chưa được điều chỉnh riêng biệt trong
BLTTHS Việt Nam năm 2003.
II. NỘI DUNG
1. Cội nguồn lịch sử của nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự
Việc nghiên cứu lịch sử luật TTHS trên
thế giới đã cho thấy rằng(1) nếu 1000 năm
trước đây vào thế kỉ XI tố tụng buộc tội lần
đầu tiên đã xuất hiện ở nước Pháp thời kì
phong kiến mà trong đó các bên (buộc tội
và bị buộc tội) có các quyền tố tụng như
nhau trước tòa án và nếu bị cáo bị kết tội thì
bị trừng phạt, còn nếu được tha bổng thì
hình phạt định áp dụng đối với bị cáo sẽ
được áp dụng đối với người đã buộc tội bị

4

cáo (vì “anh đã không chứng minh được sự
buộc tội thì có nghĩa là chính anh có tội”)
thì tố tụng tranh tụng trong xét xử hình sự
(mà trong đó sự buộc tội được chứng minh
thông qua một hội đồng gồm 12 bồi thẩm
đoàn) được thừa nhận với tính chất là một
chế định của thông luật lần đầu tiên đã được đặt nền móng vào thế kỉ XII ở vương
quốc Anh thời kì phong kiến dưới triều đại
của vua Henrích II (1.154 - 1.189) và chính
thức thịnh hành dưới triều đại của vua
Henrích III (1.216 - 1.272). Dần dần cùng
với thời gian, đến nay nguyên tắc tiến bộ

và dân chủ này đã được thừa nhận chung
trong luật TTHS của đại đa số các nhà
nước pháp quyền trên thế giới(2) và đúng
như TS. Nguyễn Thái Phúc đã khẳng định:
“Sự uyên thâm này trong kết cấu hoạt động
TTHS nói chung và tiến hành phiên tòa sơ
thẩm nói riêng là kết quả thừa kế tri thức
văn minh nhân loại từ ngàn năm qua, không
phải sản phẩm của một nhà lập pháp nào,
của một quốc gia nào”.(3)
2. Khái niệm và nội dung chủ yếu
của nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng
hình sự
Trước khi nghiên cứu vấn đề này, chúng
ta cần phải có sự nhận thức khoa học thống
nhất rằng về cơ bản, nguyên tắc này thể
hiện chính là sự tranh tụng trong xét xử
hình sự tại phiên tòa (vì nó diễn ra chủ yếu
trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự tại tòa
án) mà nội dung đầu tiên cần phải được
khoa học luật TTHS làm sáng tỏ khi đề cập
là khái niệm của nó. Trước hết, nếu hiểu
theo nghĩa hẹp thì khái niệm “tranh tụng”
có thể được hiểu một cách ngắn gọn và đơn

T¹p chÝ luËt häc


®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003


giản là sự tranh luận trong quá trình tố tụng
tại tòa án. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì khái
niệm “tranh tụng” là phạm trù rộng lớn mà
trên cơ sở nghiên cứu lí luận và xuất phát từ
thực tiễn hoạt động tư pháp hình sự cho
thấy nội dung cơ bản của nó bao gồm các
yếu tố dưới đây:
2.1. Việc xét xử các vụ án hình sự của
tòa án các cấp được tiến hành trên cơ sở
tranh tụng của các bên - buộc tội và biện hộ
(hay còn gọi là bên “bị buộc tội”, bên “gỡ
tội” hoặc bên “bào chữa”) - sau khi thẩm
phán chủ tọa phiên tòa với tính chất là trọng
tài điều hành quá trình tranh tụng của các
bên đã thực hiện xong thủ tục (hay còn gọi
là bước hoặc phần) bắt đầu phiên tòa như:
1) Đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; 2)
Kiểm tra căn cước của những người được
triệu tập đến phiên tòa; 3) Giải thích cho bị
cáo, người bị hại, phiên dịch, giám định
viên biết quyền và nghĩa vụ của mình; 4)
Giải quyết việc đề nghị thay đổi những
người tiến hành tố tụng v.v..
2.2. Sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu
phiên tòa là thủ tục điều tra tại phiên tòa
như: 1) Thông thường phải được bắt đầu từ
việc bên buộc tội (mà đại diện là kiểm sát
viên thực hiện quyền công tố tại phiên tòa)
đọc bản cáo trạng; 2) Nghiên cứu các chứng
cứ do các bên đưa ra; 3) Hỏi bị cáo; 4) Đọc

các lời khai của bị cáo; 5) Hỏi người bị hại;
6) Hỏi những người làm chứng; 7) Đọc các
lời khai của người bị hại và người làm
chứng; 8) Hỏi giám định viên; 9) Xem xét
các vật chứng v.v.. Sau khi đã nghiên cứu
các chứng cứ do các bên đưa ra tại phiên
tòa và hỏi các bên xem có bên nào đề nghị
T¹p chÝ luËt häc

tiếp tục điều tra tại phiên tòa nữa hay không
thì chủ tọa tuyên bố kết thúc thủ tục điều tra
tại phiên tòa.
2.3. Sau khi kết thúc thủ tục điều tra tại
phiên tòa là quá trình tranh luận của các bên
tại phiên tòa như: 1) Thông thường việc
tranh luận tại phiên tòa được bắt đầu từ việc
bên buộc tội (kiểm sát viên thực hiện quyền
công tố tại phiên tòa) phát biểu lời luận tội
đối với bị cáo; 2) Sau đó đến bên biện hộ
(mà đại diện là người bào chữa và nếu
người này không có mặt tại phiên tòa thì
chính bản thân bị cáo hoặc người đại diện
cho bị cáo trong một số trường hợp do luật
định) phát biểu lời bào chữa để biện hộ (gỡ
tội); 3) Người bị hại (nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của
họ) trình bày ý kiến của mình v.v.. Trong
quá trình tranh tụng tại phiên tòa, các bên
đều dân chủ và bình đẳng trong việc đưa ra
chứng cứ, đề xuất yêu cầu và tranh luận

trước tòa án. Chủ tọa phiên toàn không có
quyền hạn chế thời gian tranh luận của các
bên. Về mặt này, TS. Nguyễn Thái Phúc có
lí khi cho rằng thủ tục tranh tụng thể hiện
đậm nét nhất, tập trung nhất nội dung của
nguyên tắc tranh tụng, tranh luận có nội
hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần của
tranh tụng.(4)
2.4. Quá trình tranh tụng dân chủ và
bình đẳng của các bên trong việc xét xử
hình sự tại phiên tòa phải đảm bảo sự độc
lập với nhau và phân định rõ ràng các chức
năng buộc tội, biện hộ (gỡ tội) và phán xét
(giải quyết) vụ án hình sự theo giới hạn như
sau: 1) Chức năng buộc tội do kiểm sát viên
5


®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003

thực hiện; 2) Chức năng biện hộ (gỡ tội) do
người bào chữa thực hiện; 3) Chức năng
phán xét do tòa án thực hiện. Có thể khẳng
định, đây là nội hàm cơ bản và là bộ phận
cấu thành quan trọng nhất của nguyên tắc
tranh tụng trong TTHS mà thiếu nó thì
không thể nói gì đến tranh tụng trong xét xử
hình sự tại phiên tòa.
2.5. Như vậy, nếu căn cứ vào nguyên
tắc tranh tụng trong TTHS trong nhà nước

pháp quyền thì tòa án chỉ có nghĩa vụ phán
xét vụ án hình sự - kiểm tra tính hợp pháp
và có căn cứ của sự buộc tội của viện kiểm
sát đối với bị cáo và phụ thuộc vào kết quả
của sự buộc tội đó để giải quyết vấn đề
trách nhiệm hình sự tức là tuyên bố bị cáo
hoặc là có tội hoặc là vô tội (tha bổng cho
bị cáo). Do đó, nguyên tắc tranh tụng góp
phần thể hiện rõ bản chất nhân đạo và dân
chủ, bảo vệ vững chắc các quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân trong hoạt động tư
pháp hình sự. Vì tính hợp pháp và tính có
căn cứ của các chứng cứ buộc tội bị cáo của
cơ quan điều tra và viện kiểm sát thông qua
sự tranh tụng dân chủ và bình đẳng của các
bên tại phiên tòa một lần nữa được tòa án
kiểm tra lại.
2.6. Bản án (quyết định) tương ứng về
hình sự do tòa án tuyên phải dựa trên cơ sở
kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng của
các bên tại phiên tòa - sau khi đã xác định
được sự thật khách quan của vụ án; có
nghĩa là bản án (quyết định) đó phải được
tuyên sau khi tại phiên tòa các bên đã cùng
nhau tranh luận, nghiên cứu và đánh giá
một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan

6

các chứng cứ thu thập được có liên quan

đến vụ án.
2.7. Riêng tòa án, với tính chất là cơ
quan trọng tài phải đảm bảo cho các bên
những điều kiện cần thiết để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên,
cũng như sự dân chủ và bình đẳng với nhau
trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
2.8. Tại phiên tòa, nếu kiểm sát viên rút
toàn bộ quyết định truy tố thì tòa án không
được tiếp tục xét xử vụ án hình sự nữa và
phải tuyên bị cáo vô tội; có nghĩa là khi bên
buộc tội đã không còn cho rằng bị cáo là
người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm
thì cũng đồng nghĩa với việc bị cáo không
có tội nên không có lí do gì để tòa án coi họ
là người phạm tội và tiếp tục xét xử họ mà
phải tuyên tha bổng họ.
2.9. Tổng kết tất cả sự phân tích trên
đây và xuất phát từ thực tiễn TTHS, chúng
ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học đầy đủ
của khái niệm nguyên tắc tranh tụng của
luật TTHS như sau: Tranh tụng với tính
chất là một nguyên tắc của luật TTHS chính
là quá trình tranh luận của các bên tại
phiên tòa sau khi đã nghiên cứu đầy đủ và
toàn diện các chứng cứ trên cơ sở đảm bảo
sự độc lập, bình đẳng với nhau và tách
riêng ba chức năng buộc tội, biện hộ và
phán xét vụ án để xác định sự thật khách

quan nhằm đưa ra bản án (quyết định)
tương ứng có hiệu lực pháp luật của tòa án
một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật, góp phần thể hiện bản chất nhân
đạo và dân chủ, bảo vệ vững chắc các

T¹p chÝ luËt häc


®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003

quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
trong hoạt động tư pháp hình sự.
3. Bản chất pháp lí của nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự
Như vậy, từ sự phân tích khái niệm và
nội dung cơ bản của nguyên tắc tranh tụng
trong TTHS (mà chủ yếu là trong xét xử
hình sự tại phiên tòa) trên đây cho phép
khẳng định bản chất pháp lí của nguyên tắc
tranh tụng trong TTHS thông qua định
nghĩa khoa học đã được đưa ra là: 1) Tranh
tụng là nguyên tắc quan trọng của luật
TTHS trong nhà nước pháp quyền; 2)
Tranh tụng là quá trình tranh luận của các
bên tại phiên tòa sau khi đã nghiên cứu đầy
đủ và toàn diện các chứng cứ trên cơ sở
đảm bảo sự độc lập, bình đẳng với nhau và
tách riêng ba chức năng buộc tội, biện hộ và
phán xét vụ án; 3) Tranh tụng là để xác định

sự thật khách quan của vụ án hình sự; 4)
Tranh tụng là nhằm đưa ra bản án (quyết
định) tương ứng có hiệu lực pháp luật của
tòa án một cách công minh, có căn cứ và
đúng pháp luật; 5) Tranh tụng là góp phần
thể hiện bản chất nhân đạo và dân chủ, bảo
vệ vững chắc các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân trong hoạt động tư pháp
hình sự.
4. Ý nghĩa khoa học - thực tiễn của
nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Mặc dù trong BLTTHS Việt Nam năm
2003 nhà làm luật nước ta chưa chính thức
ghi nhận nguyên tắc tranh tụng của luật
TTHS nhưng rõ ràng là nguyên tắc này
không chỉ là một trong những nguyên tắc cơ
bản được thừa nhận chung của luật TTHS
trong nhà nước pháp quyền và là giá trị
T¹p chÝ luËt häc

pháp lí tiến bộ của nền văn minh nhân loại
đã có cội nguồn từ rất lâu đời mà còn khẳng
định vai trò tài phán rất quan trọng của tòa
án trong hoạt động TTHS và phù hợp với tư
tưởng nhân đạo về tăng cường tranh tụng
dân chủ tại phiên tòa mà Nghị quyết số
08/NQ-TW của Bộ chính trị Ban chấp hành
trung ương Đảng về cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước
pháp quyền hiện nay đưa ra.

5. Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Theo quan điểm của chúng tôi, vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28
BLTTHS năm 2003) không phải và không
thể được coi là một nguyên tắc cơ bản của
luật TTHS mà chẳng qua chỉ là một quy
định và cần được ghi nhận bổ sung vào
chương XII “Khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê
biên tài sản và giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự”.
6. Mô hình lí luận của nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự
Trên cơ sở 15 nguyên tắc cơ bản nêu
trên của luật TTHS và nghiên cứu nguyên
tắc tranh tụng của luật TTHS chúng ta có
thể đưa ra mô hình lí luận của nguyên tắc
đang nghiên cứu trong tổng thể với chế định
các nguyên tắc của luật TTHS Việt Nam.
Tuy nhiên, trước hết cần phải lưu ý rằng các
quy phạm của 2 chương đầu tiên trong
BLTTHS Việt Nam năm 2003 chính là đề
cập những vấn đề về đạo luật TTHS và
trong hai chương đó vẫn còn thiếu hai điều
luật rất quan trọng - một điều về nguồn của
luật TTHS và một điều về hệ thống các
nguyên tắc (liệt kê các tên gọi) của luật
TTHS Việt Nam (trước các điều đã được
7



®Æc san vÒ bLtThS n¨m 2003

quy định đề cập nội dung của từng nguyên
tắc). Chính vì vậy, theo quan điểm của
chúng tôi, dưới góc độ hoàn thiện về mặt kĩ
thuật lập pháp nên chăng nhà làm luật cần
gộp 2 chương, Chương I và Chương II
BLTTHS năm 2003 thành một chương với
tên gọi thống nhất, chính xác và thể hiện
đúng bản chất pháp lí của các quy định
trong chương mới này. Về mặt này, chúng
tôi hoàn toàn đồng nhất với quan điểm
đúng đắn của một nhà khoa học trẻ tuổi
trong lĩnh vực tư pháp hình sự là: “... nhà
làm luật nước ta cần chính thức ghi nhận
tranh tụng với tính chất là một nguyên tắc
cơ bản trong tố tụng hình sự và cần đưa
tinh thần Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ
chính trị vào nội dung của BLTTHS (sửa
đổi) lần này”.(5)
III. KẾT LUẬN
Xuất phát từ tất cả sự phân tích trên
đây, mô hình lí luận của các quy phạm về
nguyên tắc tranh tụng trong hệ thống các
nguyên tắc cơ bản của luật TTHS Việt
Nam, theo quan điểm của chúng tôi, cần
được điều chỉnh trong một chương mới và
độc lập của BLTTHS - chương I “Về đạo
luật tố tụng hình sự” bao gồm tất cả 20 điều
luật (1 điều về nguồn, 1 điều về nhiệm vụ, 1

điều về hiệu lực và 17 điều về chế định các
nguyên tắc của pháp luật TTHS) với nội
dung như sau:
"Chương I: Về đạo luật tố tụng hình sự
.........
Điều 20. Nguyên tắc tranh tụng của các
bên trong TTHS (mới)
1. Việc xét xử các vụ án hình sự của tòa
án các cấp được tiến hành trên cơ sở tranh

8

tụng dân chủ và bình đẳng của các bên tại
phiên tòa; tòa án là cơ quan tài phán đảm
bảo cho các bên những điều kiện cần thiết
để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng,
cũng như sự dân chủ và bình đẳng với nhau
trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa.
2. Trong quá trình tranh tụng dân chủ và
bình đẳng của các bên tại phiên tòa phải
đảm bảo sự độc lập với nhau và phân định
rõ ràng các chức năng buộc tội, biện hộ (gỡ
tội) và phán xét (giải quyết) vụ án hình sự
theo giới hạn như sau:
a) Chức năng buộc tội do kiểm sát viên
thực hiện;
b) Chức năng biện hộ do người bào
chữa thực hiện;
c) Chức năng phán xét do tòa án thực hiện.
3. Bản án hoặc quyết định tương ứng về

vụ án hình sự do tòa án tuyên phải dựa trên
cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ và bình
đẳng của các bên tại phiên tòa.
4. Tại phiên tòa nếu kiểm sát viên rút
toàn bộ quyết định truy tố thì tòa án không
được tiếp tục xét xử vụ án hình sự nữa và
phải tuyên bị cáo vô tội”./.
(1).Xem: Treltxôv-Bebutôv. "Giáo trình luật tố tụng
hình sự". Lược khảo lịch sử tòa án tố tụng hình sự ở
các nhà nước nô lệ, phong kiến và tư sản. SantPêtecbua, 1995, tr.186, 341-345 (tiếng Nga).
(2).Xem: "Chuyên đề về tư pháp hình sự so sánh" (tủ
sách luật so sánh). Thông tin khoa học pháp lí. Viện
nghiên cứu khoa học pháp lí - Bộ tư pháp. H.1999, số
đặc biệt, tr.120-130.
(3), (4).Xem: Nguyễn Thái Phúc, "Dự thảo Bộ luật tố
tụng hình sự (sửa đổi) và nguyên tắc tranh tụng", Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 9/2003, tr.10.
(5).Xem: Trịnh Tiến Việt,"Nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa hình sự", Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 7/2003, tr.66.

T¹p chÝ luËt häc



×