nghiên cứu - trao đổi
TS. Trơng Quang Vinh *
T
ội phạm là chế định quan trọng và chủ
yếu của luật hình sự. Nội dung của khái
niệm tội phạm đ thể hiện một cách rõ nét
bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị x
hội cũng nh những đặc điểm pháp lí của
luật hình sự.(1) Đồng thời nó còn đợc
xem nh là điều kiện cần thiết có tính
nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và
không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm
hình sự và những trách nhiệm pháp lí
khác....(2)
Khoản 1 Điều 8 BLHS 1999 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho x hội
đợc quy định trong BLHS, do ngời có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất toàn vẹn l nh thổ của tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an
toàn x hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
XHCN.
Có thể coi quy định về tội phạm nêu trên
là quy định có tính khoa học thể hiện tập
trung nhất quan điểm của Nhà nớc ta về
tội phạm.(3) Từ quy định mang tính định
hớng này có thể rút ra khái niệm tội phạm
Tạp chí luật học số 3/2003
một cách khái quát nh sau: Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho x hội, có lỗi, trái
pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt.(4)
Nhìn một cách tổng quan chúng ta có
thể thấy nội dung khái niệm của tội phạm
trong luật hình sự dờng nh đ đợc quy
định đầy đủ, khoa học và việc nhận thức nội
dung này của khái niệm đ có sự thống nhất.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu và phân tích một
cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc
nội dung của khái niệm tội phạm cũng nh
xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy
rằng còn một số điều cần phải bàn.
1. Bên cạnh những đặc điểm truyền
thống đợc ghi nhận giống nh trong khái
niệm tội phạm của BLHS của nhiều nớc
trên thế giới là: Tính nguy hiểm cho x hội,
tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự thì
trong khái niệm tội phạm của BLHS Việt
Nam năm 1999 các nhà làm luật còn quy
định thêm tính có năng lực TNHS của chủ
thể nh là đặc điểm của tội phạm. Có thể nói
đây là đặc điểm cha từng đợc quy định
trong luật hình sự của nhiều nớc.
Mặc dù tính có năng lực TNHS của chủ
thể đ đợc quy định trong Điều 8 BLHS
1999 nhng khái niệm năng lực TNHS là gì,
đợc tạo nên bởi những yếu tố nào thì hiện
* Giảng viên chính Khoa t pháp
Trờng đại học luật Hà Nội
67
nghiên cứu - trao đổi
tại vẫn cha đợc quy định chính thức trong
BLHS. Tất nhiên chúng ta có thể rút ra đợc
khái niệm năng lực TNHS thông qua quy
định tại Điều 13 BLHS về tình trạng không
có năng lực TNHS. Theo quy định này ngời
đợc coi là có năng lực TNHS là ngời
không ở trong tình trạng không có năng lực
TNHS. Nh vậy, có thể hiểu ngời có năng
lực TNHS là ngời khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho x hội có khả năng nhận thức
đợc tính nguy hiểm cho x hội của hành vi
của mình và có khả năng điều khiển đợc
hành vi ấy.(5) Năng lực TNHS là một trong
những điều kiện để ngời thực hiện hành vi
nguy hiểm cho x hội trở thành chủ thể của
tội phạm. Song việc xác định tính có năng
lực TNHS của chủ thể có phải là đặc điểm
của tội phạm không, có cần thiết phải đợc
quy định trong khái niệm tội phạm không là
vấn đề lí luận có tính khoa học cần phải
đợc nghiên cứu.
Trớc hết, về hình thức thì khái niệm
phải đợc diễn đạt ngắn gọn, súc tích nhng
vẫn thể hiện đợc những nội dung mang tính
bản chất của khái niệm. Theo Từ điển tiếng
Việt, "khái niệm" đợc hiểu là "ý nghĩ phản
ánh ở dạng khái quát các sự vật và hiện
tợng của hiện thực và những mối liên hệ
giữa chúng".(6) Do đó, việc lựa chọn những
đặc điểm nào để đa vào nội dung của
khái niệm tội phạm phải đáp ứng đòi hỏi
trên. Vậy có cần quy định tính có năng lực
TNHS của chủ thể vào trong khái niệm tội
phạm không?
Cần phải khẳng định, năng lực TNHS là
điều kiện cần thiết để có thể xác định một
ngời là có lỗi khi họ thực hiện hành vi
68
nguy hiểm cho x hội bị luật hình sự cấm
hoặc không thực hiện một việc mà luật hình
sự quy định phải làm. Nh vậy, năng lực
TNHS có mối quan hệ chặt chẽ với lỗi mà
tính có lỗi là đặc điểm của tội phạm đ đợc
quy định trong khoản 1 Điều 8 BLHS 1999.
Theo đó, lỗi đợc hiểu là: Thái độ tâm lí
của con ngời đối với hành vi nguy hiểm cho
x hội của mình và đối với hậu quả do hành
vi đó gây ra đợc biểu hiện dới hình thức
cố ý hoặc vô ý.(7) Thái độ tâm lí của con
ngời bao gồm hai yếu tố lí trí và ý chí - là
những yếu tố cần thiết để hợp thành lỗi.
Trong đó, lí trí phản ánh khả nhận thức thực
tại khách quan của con ngời còn ý chí phản
ánh khả năng điều khiển hành vi trên cơ sở
của sự nhận thức đó. Đây là những yếu tố
tâm lí cần thiết của mọi hành động có ý thức
của con ngời.(8) Nội dung của những yếu
tố này cũng chính là những điều kiện bắt
buộc để tạo thành năng lực TNHS. Do đó,
khi một ngời đợc coi là có lỗi đối với
hành vi nguy hiểm cho x hội của mình
cũng nh đối với hậu quả do hành vi đó gây
ra thì đơng nhiên họ phải là ngời có năng
lực TNHS. Vì vậy, khi tính có lỗi đ đợc
quy định trong khoản 1 Điều 8 BLHS 1999 là
đặc điểm của tội phạm rồi thì nhà làm luật
không cần phải quy định tính có năng lực
TNHS của chủ thể vào trong khái niệm này
nữa. Quy định nh vậy sẽ làm cho nội dung
khái niệm của tội phạm trở nên rờm rà và
tính khoa học của nó không cao.
2. Có ý kiến cho rằng tại sao khái niệm
về tội phạm có đề cập tính chịu hình phạt là
đặc điểm của tội phạm nhng trong khoản 1
Điều 8 BLHS 1999 lại không quy định? Về
Tạp chí luật học số 3/2003
nghiên cứu - trao đổi
vấn đề này hiện còn nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng tội phạm là hành vi có
tính nguy hiểm cao, gây ra hoặc đe dọa gây
ra những thiệt hại đáng kể cho các quan hệ
x hội đợc luật hình sự bảo vệ, vì vậy, cùng
với việc quy định hành vi nào đó là tội phạm
trong BLHS thì Nhà nớc cũng quy định loại
và mức hình phạt cụ thể kèm theo để áp
dụng với trờng hợp phạm tội này - biện
pháp có tính cỡng chế nghiêm khắc nhất
trong hệ thống các biện pháp cỡng chế của
Nhà nớc. Từ lập luận trên có thể khẳng
định tội phạm luôn đi liền với hình phạt. Do
đó, nếu không coi tính chịu hình phạt là một
đặc điểm của tội phạm thì vô hình trung
chúng ta đ làm mờ đi "bản chất của tội
phạm là nguy hiểm cho x hội là loại vi
phạm pháp luật nghiêm trọng nhất".(9)
Một số nhà luật học khác lại cho rằng
tính chịu hình phạt tuy là đặc điểm của tội
phạm, là hậu quả tất yếu mà ngời phạm tội
phải gánh chịu trớc Nhà nớc song cũng
cần nhấn mạnh, hình phạt chỉ đi liền với tội
phạm chứ bản thân tính chịu hình phạt
không phải là thuộc tính bên trong của tội
phạm, một "hành vi bị coi là tội phạm vì về
nội dung, nó có tính nguy hiểm cho x hội
và về hình thức, có tính trái pháp luật hình
sự chứ không phải vì nó có tính chịu hình
phạt".(10) Đây chính là lí do giải thích vì sao
tại khoản 1 Điều 8 BLHS 1999 nhà làm luật
không quy định tính chịu hình phạt là một
đặc điểm trong khái niệm tội phạm. Chúng
tôi ủng hộ quan điểm này
3. Việc xây dựng và quy định các điều
luật trong BLHS phải ngắn gọn, đơn giản,
dễ hiểu đối với mọi công dân và thuận lợi
Tạp chí luật học số 3/2003
cho việc áp dụng.(11) Đây là định hớng cho
hoạt động lập pháp nói chung và lập pháp
hình sự nói riêng. Do đó, trong một số
trờng hợp nhà làm luật có thể lợi dụng
tính có liên quan(12) của nội dung cụ thể nào
đó đ đợc quy định trong BLHS để bỏ
qua và không cần phải quy định lại một lần
nữa mà nội dung của điều luật vẫn đầy đủ,
chính xác và khoa học. Với tinh thần này,
chúng tôi cho rằng khi Điều 1 BLHS 1999
đ quy định những quan hệ x hội với t
cách là khách thể bảo vệ luật hình sự nh:
Chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân
dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào
các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nớc,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN... thì
trong định nghĩa khái niệm tội phạm tại
Điều 8 không cần nhắc lại quy định này nữa.
Theo đó mọi hành vi gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại ở mức độ đáng kể cho
những quan hệ x hội cần đợc bảo vệ này
đều bị coi là tội phạm. Vì vậy, việc nhà làm
luật quy định lại những quan hệ x hội nói
trên trong khái niệm tội phạm tại khoản 1
Điều 8 BLHS 1999 với t cách là khách
thể chung của tội phạm là việc làm không
cần thiết.
4. Việc phân loại tội phạm thành bốn
loại là tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có ý nghĩa
lớn cả về lí luận và thực tiễn áp dụng. Cụ
thể, việc phân loại tội phạm theo cách này
đ giúp các nhà làm luật có thể thực hiện
đợc nguyên tắc phân hoá TNHS ngay trong
luật và đây cũng chính là điều kiện để có thể
69
nghiên cứu - trao đổi
cá thể hoá TNHS trong thực tiễn áp dụng.
Tuy nhiên, việc nhà làm luật xếp nội
dung này trong khái niệm tội phạm đ thực
sự hợp lí cha, theo chúng tôi đây cũng là
vấn đề lí luận có tính khoa học cần có sự
nghiên cứu thêm. Bởi lẽ:
Thứ nhất, nh chúng tôi đ phân tích ở
trên, hình thức của khái niệm nói chung
phải ngắn gọn, súc tích và có tính khái quát
cao. Do đó, việc đa nội dung của sự phân
loại tội phạm vào khái niệm tội phạm đ làm
cho hình thức khái niệm của tội phạm mất đi
tính khoa học.
Thứ hai, về nguyên tắc, khái niệm tội
phạm chỉ bao gồm những đặc điểm chung,
đặc trng, điển hình của bất kì loại tội phạm
nào mà nội dung của khái niệm tội phạm là
điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới
hạn giữa tội phạm và không phải là tội
phạm, giữa TNHS và những trách nhiệm
pháp lí khác.(13) Trong khi đó, tội ít nghiêm
trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng
và tội đặc biệt nghiêm trọng chỉ là những
loại trờng hợp cụ thể của tội phạm nói
chung. Vì vậy, việc quy định nội dung này
vào khái niệm tội phạm là không hợp lí, do đó
nó đ phá vỡ nguyên tắc trên.
Từ sự phân tích trên, chúng tôi xin đa
ra một số kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần cơ cấu và xây dựng lại
khái niệm tội phạm theo hớng giữ lại khoản
1, khoản 4 của Điều 8 BLHS 1999 nhng
khoản 1 của điều này nên sửa đổi. Cụ thể là:
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho x
hội đợc thực hiện có lỗi, bị Bộ luật này quy
định và phải chịu hình phạt.
70
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhng tính chất nguy hiểm cho x hội
không đáng kể thì không phải là tội phạm và
đợc xử lí bằng các biện pháp khác.
Thứ hai, tách khoản 2, khoản 3 Điều 8
BLHS năm 1999 để quy định thành điều luật
độc lập. Cụ thể là: Điều 8a. Phân loại tội
phạm...
Thứ ba, từ trớc tới nay, tuy năng lực
trách nhiệm hình sự đợc hiểu một cách
gián tiếp thông qua Điều 13 BLHS năm
1999 (tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự) nhng vì đây là một trong
những điều kiện hết sức quan trọng cho việc
xác định chủ thể của tội phạm. Vì vậy,
chúng tôi cho rằng nội dung này cần đợc
quy định một cách chính thức trong BLHS
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp
dụng các quy định khác của BLHS trong
thực tiễn xét xử. Cụ thể là:
Điều 13a. Năng lực trách nhiệm hình sự
Ngời thực hiện hành vi nguy hiểm cho x
hội có khả năng nhận thức đợc tính nguy hiểm
cho x hội của hành vi của mình và có khả năng
điều khiển hành vi ấy./.
(1).Xem: GS.TSKH. Đào Trí úc (Chủ biên), Tội
phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tr. 157.
(2), (10), (11).Xem: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà,
Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công
an nhân dân, Hà Nội 1991, tr. 9, 34.
(3), (4), (5), (7), (8), (12) (13).Xem: PGS.TS. Nguyễn
Ngọc Hoà (Chủ biên), Giáo trình luật hình sự Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 2000, tr.33,
90, 101, 41.
(6).Xem: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung
tâm từ điển học 1997, tr. 472.
(9).Xem: Luật hình sự Việt Nam, những vấn đề lí luận và
thực tiễn, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1997, tr. 11.
Tạp chí luật học số 3/2003