Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Báo cáo vấn đề cơ cấu các quy phạm pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.93 KB, 8 trang )

nghiên cứu - trao đổi

N

ghiờn cu c cu quy phm phỏp lut
l vn rt cú ý ngha lớ lun v thc
tin. V mt lớ lun, vic gii quyt c
nhng vn trong c cu ca quy phm
phỏp lut s gúp phn quan trng trong vic
lm sỏng t nhng vn liờn quan n khỏi
nim quy phm phỏp lut cng nh cỏc khỏi
nim ngnh lut, ch nh phỏp lut. V mt
thc tin, lớ thuyt v c cu quy phm phỏp
lut cú vai trũ quan trng trong k thut lp
phỏp. Nu gii quyt mt cỏch thu ỏo vn
c cu ca quy phm phỏp lut s giỳp
cho nh lm lut gii quyt c vn liờn
quan n cỏc iu lut trong mt vn bn
quy phm phỏp lut.
Trong khoa hc phỏp lớ hin nay, cú
nhiu quan im khỏc nhau v c cu ca
quy phm phỏp lut. Tuy nhiờn, mi quan
im ú cú nhng u im v nhng hn ch
nht nh.
Quan im th nht xut phỏt t nhng
khỏi nim c bn l gi nh, quy nh v
ch ti xỏc nh c cu ca quy phm
phỏp lut. Trong ú gi nh (hypothethis) l
b phn nờu lờn nhng hon cnh, iu kin
cú th xy ra trong cuc sng v cỏ nhõn hay
t chc no vo nhng iu kin hay hon


cnh ú thỡ x s theo nhng cỏch thc c
nờu trong phn quy nh ca quy phm phỏp
lut; b phn quy nh (stipulation) nờu lờn
cỏch x s ca ch th khi gp nhng iu
kin hay hon cnh c nờu trong phn gi

32

TS. Nguyễn Quốc Hoàn *

nh ca quy phm phỏp lut; b phn ch
ti (sanction) xỏc nh nhng bin phỏp ỏp
dng i vi ch th khụng thc hin ỳng
yờu cu c xỏc nh trong phn quy nh
ca quy phm phỏp lut. Quan im ny cú
hai ý kin khỏc nhau. í kin th nht cho
rng quy phm phỏp lut bao gm gi nh,
quy nh v ch ti. í kin th hai cho rng
quy phm phỏp lut ch bao gm gi nh v
cỏc hu qu phỏp lớ m hu qu ú cú th l
quy nh hoc ch ti.(1)
Quan im ny ó gii quyt c vn
cu trỳc mang tớch cht c hc ca quy
phm phỏp lut to iu kin thun li cho
vic nhn thc c ỳng nhng ũi hi ca
phỏp lut i vi cỏc thnh viờn ca xó hi.
ng thi quan im ny cng to ra c s
cho vic xõy dng nhng khỏi nim khỏc
ca phỏp lut nh ngnh lut, ch nh phỏp
lut theo truyn thng. Tuy nhiờn, quan im

ny cú mt s hn ch sau:
Th nht, nu quan nim quy phm phỏp
lut cú ba b phn l gi nh, quy nh v
ch ti, chỳng ta s thy phn gi nh l
phn xỏc nh tỡnh hung ch th x s
theo yờu cu trong phn quy nh cũn phn
ch ti thỡ ngoi nhng bin phỏp c d
kin ỏp dng i vi ch th vi phm cn
phi cú iu kin ỏp dng ch ti. Nu
* Ging viờn Khoa hnh chớnh - nh nc
Trng i hc lut H Ni

Tạp chí luật học số 2/2004


nghiên cứu - trao đổi

nghiờn cu mt cỏch thu ỏo, chỳng ta s
thy ni dung ca nhng iu kin ny hon
ton khỏc vi phn gi nh thụng thng.
Nú khụng n gin ch l iu kin hay hon
cnh ch th tin hnh x s m l iu
kin ỏp dng bin phỏp ch ti - thng l
s vi phm ni dung phn quy nh. Vớ d:
Khon 1 iu 484 B lut dõn s quy nh:
Bờn thuờ phi bo qun ti sn thuờ nh ti
sn ca chớnh mỡnh, phi bo dng v sa
cha nh; nu lm mt mỏt, h hng thỡ
phi bi thng. Nu cho rng phn gi
nh ca quy phm ny l bờn thuờ thỡ

phn quy nh l phi bo qun ti sn thuờ
nh ti sn ca chớnh mỡnh, phi bo dng
v sa cha nh, phn ch ti l: phi bi
thng. Chỳng ta s thy khú cú th cho
rng nu lm mt mỏt h hng l gi nh
theo quan im nờu trờn vỡ trong mi quan
h vi gi nh v quy nh ó xỏc nh thỡ
nú khụng phi l iu kin hay hon cnh
ch th tin hnh x s v tt nhiờn cng
khụng th gn nú vi phi bi thng
xp vo ch ti vỡ ni dung ca nú khụng
phi l bin phỏp ỏp dng i vi ch th vi
phm m nú ch l iu kin buc ch
th phi bi thng (iu kin ỏp dng
ch ti).
Tuy nhiờn, nu xỏc nh phn iu kin
ỏp dng ch ti ú l phn gi nh ca
quy phm phỏp lut nh ý kin th hai thỡ
kộo theo nú khụng phi l cỏch x s ca
ch th m ch l bin phỏp ch ti ỏp dng
i vi ch th vi phm phỏp lut. Vỡ vy,
nu cho rng quy phm phỏp lut ch cú
phn gi nh v phn ch ti thỡ li khụng
phự hp vi quan im quy phm phỏp lut
Tạp chí luật học số 2/2004

l "quy tc x s" vỡ cỏc quy phm phỏp lut
c t ra cho con ngi x s theo nú
ch khụng phi t ra x pht con
ngi.(2) V theo logic thụng thng thỡ nu

khụng bt buc thc hin hoc khụng cm
oỏn thỡ khụng th cú s vi phm v nu
khụng cú s vi phm thỡ khụng th b x
pht. Do ú, iu u tiờn trong mi quy
phm phỏp lut l phi t ra tỡnh hung cho
con ngi hnh ng sau ú mi t ra bin
phỏp x lớ khi ngi ta vi phm.
Th hai, vic quan nim ch ti l bin
phỏp x lớ i vi ch th vi phm trong
quan im ny cha bao quỏt ht cỏc bin
phỏp m bo cho phỏp lut c thc
hin. Bi vỡ, bờn cnh nhng bin phỏp ch
ti cũn cú nhng bin phỏp khuyn khớch i
vi ch th thc hin phỏp lut.
Quan im th hai tip cn t khớa cnh
cu trỳc ni dung ca quy phm phỏp lut ó
xem xột c cu ca quy phm phỏp lut vi
nhng thnh phn c th khỏc. Quan im
ny cng cú hai ý kin. í kin th nht cho
rng mi quy phm phỏp lut cú hai phn l
phn quy nh v phn mnh . Trong ú
phn quy nh (provision) (khỏc vi quan
nim v quy nh quan im trờn) bao
gm tỡnh hung ca hnh ng ca ch th
(act situation); hnh ng ca ch th trong
tỡnh hung ú (act), th thc hnh ng
(aspect) nờu lờn mong mun ca nh nc
v hnh ng ca ch th th hin ni
dung l c lm, khụng c lm, phi lm
hay khụng phi lm. Phn mnh cú hai

loi l mnh phm vi (qualificative
clauses) vi ni dung xỏc nh phm vi ca
quy tc v c th hin di hỡnh thc loi
33


nghiªn cøu - trao ®æi

trừ hoặc hạn chế; loại mệnh đề thứ hai là
mệnh đề độc lập (independent clauses) bao
gồm các mệnh đề giải thích khái niệm, tuyên
bố về chính sách khôi phục thiệt hại và mệnh
đề về chính sách khuyến khích hoặc chế
tài.(3) Ý kiến thứ hai trong nhóm này chỉ tập
trung phân tích cơ cấu của quy phạm với
các bộ phận của phần quy định trong quan
điểm nêu trên. Theo đó, nội dung của một
quy phạm pháp luật bao gồm bốn bộ phận
là đặc tính quy phạm (norm-character)
tương đương với thể thức hành động trong
quan điểm trên, chủ thể của quy phạm
(norm-subject) hành động (norm act) và
điều kiện thực hiện (performance condition)
(tương đương với phần tình huống của quan
điểm trên).(4)
Quan điểm thứ hai này đã làm sáng tỏ
được những vấn đề có tính bản chất nhất của
quy phạm pháp luật và phân biệt được trong
cấu trúc của quy phạm pháp luật nội dung
nào là sự ghi nhận những hoàn cảnh khách

quan và nội dung nào là sự thể hiện ý chí của
nhà nước và hành vi của chủ thể trong những
hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, điểm hạn chế
lớn nhất của nhóm này là chỉ tập trung làm
sáng tỏ phần quy tắc của quy phạm pháp luật
mà chưa làm sáng tỏ được những biện pháp
bảo đảm cho quy tắc đó được thực hiện hoặc
chỉ coi chúng là những mệnh đề về chính
sách xử lí khi vi phạm pháp luật.
Quan điểm thứ ba cho rằng mỗi quy
phạm pháp luật có một phần quy tắc
(imperative part) và một vài quy phạm có
một phần về chính sách xử phạt (punitive
policy part). Những quy phạm chỉ có phần
quy tắc chỉ là những quy phạm khi chúng có
34

quy phạm về xử phạt tương ứng, tức là một
quy phạm khác quy định sự vi phạm quy
phạm thứ nhất là điều kiện để xử phạt đối
với người vi phạm.(5) Quan điểm này đã làm
sáng tỏ một cách khái quát cơ cấu của quy
phạm pháp luật với việc làm sáng tỏ được
mối quan hệ giữa cả cấu trúc và nội dung
của quy phạm pháp luật và đã giải quyết
được phần nào những hạn chế của các quan
điểm nêu trên. Tuy nhiên, cũng giống như
quan điểm thứ nhất, quan điểm này chỉ coi
việc bảo đảm thực hiện quy phạm pháp luật
bằng những biện pháp chế tài, vì thế nó chưa

phản ánh được một cách đầy đủ vấn đề có
tính bản chất của quy phạm pháp luật nói
chung. Hơn nữa, quan điểm này lại không
phân biệt một cách rõ ràng quy phạm pháp
luật với điều luật của một văn bản. Mặt khác,
quan điểm này lại chỉ dừng lại ở khía cạnh
cấu trúc về hình thức của quy phạm pháp
luật mà không giải quyết được những nội
dung bên trong của các quy phạm pháp luật.
Xuất phát từ chính nội dung cơ bản của
khái niệm quy phạm pháp luật là “quy tắc
xử sự” và “được nhà nước đảm bảo thực
hiện”, theo chúng tôi, quy phạm pháp luật
có hai bộ phận cơ bản là phần quy tắc và
phần bảo đảm.
a. Phần quy tắc
Phần quy tắc của quy phạm pháp luật là
phần xác định cách xử sự của chủ thể gắn
liền với những hoàn cảnh hay điều kiện nhất
định trong đời sống xã hội. Đây là phần cơ
bản và không thể thiếu trong các quy phạm
pháp luật bởi vì nhờ nó mà chúng ta biết
mình được làm gì, không được làm gì hay
phải làm như thế nào…? Mặt khác, cũng nhờ
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004


nghiªn cøu - trao ®æi

đó mà nhà nước có cơ sở cho việc xác lập

những nội dung trong phần bảo đảm của quy
phạm pháp luật với các biện pháp chế tài và
biện pháp khen thưởng trong những trường
hợp cụ thể.
Phần quy tắc bao gồm hai nội dung là giả
định và quy định, trong đó giả định là phần
dự liệu điều kiện, hoàn cảnh có thể xảy ra
trong đời sống và cá nhân, tổ chức mà hành
vi của họ được xác định trong phần quy định
của quy phạm pháp luật. Phần giả định bao
gồm hai nội dung là tình huống hành vi và
chủ thể hành vi. Quy định là phần xác định
hành vi của chủ thể trong những điều kiện,
hoàn cảnh được xác định trong phần giả định
của mệnh lệnh và thể thức của hành vi đó.
Nội dung của phần quy định thực chất là xác
định quyền và nghĩa vụ của chủ thể khi gặp
những điều kiện hay hoàn cảnh được nêu
trong phần giả định của mệnh lệnh. Quy
định là phần cơ bản của một quy phạm pháp
luật. Nó trực tiếp thể hiện ý chí của nhà nước
khi điều chỉnh quan hệ xã hội. Phần quy định
xác định hành vi của chủ thể và thể thức của
hành vi.
b. Phần bảo đảm
Phần bảo đảm xác định những biện pháp
mà nhà nước dự kiến áp dụng đối với các
chủ thể trong trường hợp họ đã tiến hành
những xử sự nhất định khi ở vào điều kiện
hay hoàn cảnh được xác định trong giả định

của phần quy tắc của quy phạm pháp luật và
với những điều kiện nhất định. Ví dụ:
“Người nào thấy người khác đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có
điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu
quả người đó chết thì bị phạt cảnh cáo, cải
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004

tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị
phạt tù từ ba tháng đến hai năm” (khoản 1
Điều 102 Bộ luật hình sự). Phần bảo đảm
bao gồm hai nội dung là giả định (hoặc có
thể đặt tên khác để phân biệt với giả định
của phần quy định) và biện pháp bảo đảm.
Trong đó, giả định của phần bảo đảm xác
định hành vi nào đó mà chủ thể thực hiện
trong điều kiện hay hoàn cảnh của giả định
trong phần quy tắc của quy phạm pháp luật
mà nhờ đó những biện pháp bảo đảm của
nhà nước sẽ được áp dụng đối với chủ thể
của hành vi đó. Trong ví dụ trên, giả định là:
“Người nào thấy người khác trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng tuy có điều kiện
mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người
đó chết”.
Giả định của phần bảo đảm có những
điểm giống với phần giả định của phần quy
tắc là nêu lên giả định về tình huống có thể
xảy ra trong thực tế đời sống. Tuy nhiên, giả
định của phần bảo đảm khác với giả định của

phần quy tắc ở chỗ, nội dung giả định của
phần quy tắc là những tình huống có thể xảy
ra trong thực tế mà chủ thể khi gặp tình
huống đó thì thực hiện những hành vi nhất
định theo quy định của pháp luật. Giả định
của phần bảo đảm luôn xác định hành vi nào
đó mà chủ thể đã thực hiện trong điều kiện
hay hoàn cảnh được xác định ở giả định của
phần quy tắc. Nói cách khác, giả định của
phần quy tắc luôn nêu lên tình huống để chủ
thể tiến hành những xử sự nhất định còn giả
định của phần bảo đảm luôn nêu lên điều
kiện để biện pháp tác động nào đó của nhà
nước được áp dụng đối với chủ thể đã tiến
hành một xử sự nào đó trong những điều
35


nghiªn cøu - trao ®æi

kiện và hoàn cảnh nhất định được nêu lên
trong giả định của phần quy tắc. Nói cách
khác, giả định của phần bảo đảm nêu lên sự
vi phạm pháp luật hoặc thực hiện tốt những
yêu cầu của pháp luật nêu lên trong quy định
của quy phạm pháp luật mà nhờ đó biện
pháp tác động của nhà nước được áp dụng.
Giả định của phần bảo đảm bảo gồm ba nội
dung là hành vi, chủ thể của hành vi và tình
huống thực hiện hành vi đó. Vì vậy, có thể

gọi giả định của phần quy tắc là giả định tình
huống hay giả định điều kiện còn giả định
của phần bảo đảm gọi là giả định hành vi.
Biện pháp bảo đảm là phần xác định
những hình thức hoặc mức độ cụ thể của
biện pháp mà nhà nước áp dụng đối với
những chủ thể đã được giả định thực hiện
một hành vi nào đó trong điều kiện hay
hoàn cảnh trong phần giả định của quy tắc
xử sự. Tuỳ thuộc vào nội dung của hành vi
trong giả định của phần bảo đảm mà các
biện pháp áp dụng cũng khác nhau. Có hai
loại biện pháp bảo đảm cụ thể là khen
thưởng và chế tài.(6)
Giữa phần quy tắc và phần bảo đảm có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó,
giả định của phần bảo đảm chính là sự kết
hợp các nội dung của phần quy tắc. Nếu là
bảo đảm mang tính tích cực (khen thưởng)
thì giả định chính là việc chủ thể pháp luật
thực hiện tốt hành vi được nêu trong phần
quy định khi ở vào tình huống được nêu
trong phần giả định. Còn nếu là bảo đảm
mang tính chất tiêu cực (xử phạt) thì giả định
của phần này chính là sự vi phạm những yêu
cầu được nêu trong phần quy tắc. Nói cách
khác, sự vi phạm phần quy tắc là giả định
36

của phần bảo đảm tiêu cực. Còn nếu tiếp cận

từ lí thuyết về vi phạm pháp luật thì phần giả
định này thể hiện cấu thành của vi phạm
pháp luật.
Khi nghiên cứu cơ cấu của quy phạm
pháp luật, chúng tôi nêu một số điểm cần
phải chú ý:
Thứ nhất, không phải bất kì quy phạm
pháp luật nào cũng có đầy đủ các bộ phận
trong cấu trúc theo lí thuyết. Sở dĩ như vậy vì:
Một là, những quy định về quyền của
chủ thể, nghĩa vụ gắn với những lợi ích của
chủ thể và những trường hợp phần quy định
thuộc vào loại không bắt buộc thì nhà nước
không cần phải đưa ra biện pháp chế tài để
bảo đảm cho các quyền hoặc nghĩa vụ đó
được thực hiện, bởi vì việc thực hiện các
hành vi trong phần quy định quyền và lợi ích
của mình hoàn toàn có lợi cho chủ thể vì thế
không cần phải đưa ra biện pháp bảo đảm.(7)
Hai là, những quy phạm xác định nghĩa
vụ của chủ thể gắn liền với thủ tục pháp lí
nào đó thì việc thực hiện quy phạm pháp luật
đó sẽ dẫn đến những quyền hoặc nghĩa vụ
khác trong quy phạm pháp luật khác, vì thế
trong trường hợp này, quy phạm pháp luật
được bảo đảm bằng những biện pháp thực
hiện bằng quy phạm pháp luật khác chứ
không phải bằng những biện pháp bảo đảm
thực hiện. Như thế trong trường hợp này thì
phần bảo đảm cũng không nhất thiết phải

được đặt ra.(8) Quan niệm như vậy cho phép
chúng ta khẳng định được tính hệ thống của
toàn bộ quy phạm pháp luật trong một hệ
thống pháp luật thể hiện ở mối quan hệ ở nội
dung bên trong giữa các quy phạm pháp luật.
Thứ hai, một quy phạm pháp luật với
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004


nghiªn cøu - trao ®æi

một phần quy tắc có thể kèm theo nó nhiều
phần bảo đảm khác nhau. Điều này tuỳ thuộc
vào quan điểm về việc bảo đảm thực hiện
của nhà làm luật đối với quy tắc đó cũng như
những tình huống đặt ra đối với những
trường hợp khác nhau khi chủ thể thực hiện
tốt hoặc vi phạm những yêu cầu được nêu
trong phần quy định của quy phạm pháp
luật. Ví dụ, mức độ vi phạm khác nhau thì
biện pháp chế tài cũng có thể được đưa ra
các loại khác nhau. Mặt khác, trong nhiều
trường hợp, nhiều phần quy tắc nhưng lại có
thể có chung một phần bảo đảm.
Thứ ba, giữa các quy phạm pháp luật có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó,
nội dung nào đó thuộc bộ phận quy định của
một quy phạm pháp luật nhưng lại có thể
thuộc bộ phận khác trong một quy phạm
pháp luật khác. Cụ thể là cũng quy định về

một hành vi nhưng hành vi đó trong trường
hợp này có thể thuộc phần giả định của
mệnh lệnh nhưng trong quy phạm pháp luật
khác lại có thể là nội dung của phần quy
định. Hoặc cũng quy định những biện pháp
chế tài nhưng nó lại không phải thuộc vào
phần bảo đảm của quy phạm pháp luật mà
nó vẫn có thể thuộc nội dung nào đó của các
phần khác trong quy phạm pháp luật. Vì vậy,
khi xác định cơ cấu của quy phạm pháp luật
đòi hỏi phải xuất phát từ nội dung - nội dung
thể hiện sự mong muốn của nhà nước đối với
hành vi của con người. Nhận định như vậy
một lần nữa cho phép chúng ta khẳng định
về tính hệ thống của pháp luật với mối quan
hệ gắn bó chặt chẽ về nội dung giữa các quy
phạm pháp luật chứ không phải chỉ là mối
quan hệ về hình thức bên ngoài như là sự
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004

phân định chúng thành các ngành luật hay
chế định pháp luật một cách đơn giản.
Ngoài hai phần cơ bản là phần quy tắc và
phần bảo đảm. Quy phạm pháp luật còn có
các mệnh đề (clauses) giải thích các khái
niệm pháp lí, mệnh đề xác định hiệu lực của
các quy phạm pháp luật, các mệnh đề có tính
khái quát nguyên tắc chung của từng quy
phạm pháp luật hoặc của hệ thống quy phạm
pháp luật. Tuy nhiên, phần mệnh đề của quy

phạm pháp luật có thể gắn với từng quy
phạm pháp luật, một nhóm hay các quy
phạm pháp luật trong một văn bản hoặc toàn
bộ hệ thống quy phạm pháp luật.
Quan niệm như vậy về cơ cấu của quy
phạm pháp luật giúp cho chúng ta dễ dàng
phân biệt hai khái niệm rất gần nhau nhưng
hoàn toàn khác biệt đó là khái niệm điều luật
của văn bản quy phạm pháp luật và khái
niệm quy phạm pháp luật. Điều luật là hình
thức thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội
dung của một hoặc nhiều quy phạm pháp
luật trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Vì vậy, không thể đồng nhất một điều luật
với một quy phạm pháp luật vì:
Thứ nhất, một điều luật có thể chỉ chứa
đựng một hoặc nhiều phần quy tắc hay một
hoặc nhiều phần bảo đảm của các quy phạm
pháp luật khác nhau. Điều này trước hết là
xuất phát từ mục đích của việc ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Nếu việc ban hành
quy phạm pháp luật có mục đích trực tiếp để
xác định xử sự cho chủ thể thì các điều luật
đó chủ yếu chứa đựng các phần quy tắc của
các quy phạm pháp luật khác nhau, ví dụ,
các điều luật của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự. Nhưng nếu việc ban
37



nghiªn cøu - trao ®æi

hành quy phạm pháp luật có mục đích trực
tiếp là xác định biện pháp xử lí đối với chủ
thể vi phạm pháp luật thì các điều luật đó
chủ yếu chứa đựng phần bảo đảm của quy
phạm pháp luật, ví dụ, các điều luật trong
phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
Một lí do khác dẫn đến việc các điều luật
chỉ chứa đựng một phần của quy phạm pháp
luật là xuất phát từ kĩ thuật lập pháp nhằm đảm
bảo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật. Việc
trình bày lặp đi, lặp lại phần quy tắc hoặc phần
bảo đảm trong nhiều điều luật khác nhau là
không cần thiết. Vì vậy, có điều luật chúng ta
chỉ thấy thể hiện phận quy tắc nhưng có điều
luật, chúng ta chỉ thấy thể hiện phần bảo đảm.
Tuy nhiên, nếu kết nối các điều luật khác nhau
đó, chúng ta sẽ thấy được một quy phạm pháp
luật hoàn chỉnh. Trong thực tiễn áp dụng pháp
luật, chủ thể áp dụng pháp luật chỉ áp dụng
phần quy phạm pháp luật được thể hiện trong
điều luật cụ thể cần áp dụng chứ không phải
viện dẫn toàn bộ các phần của quy phạm pháp
luật. Vì thế, chúng ta thường thấy thực tiễn
thực hiện và áp dụng pháp luật đều căn cứ vào
các điều khoản của văn bản quy phạm pháp
luật chứ không phải là căn cứ vào toàn bộ nội
dung của một quy phạm pháp luật đầy đủ.
Thứ hai, có những điều luật chỉ chứa đựng

những mệnh đề của quy phạm pháp luật như
các khái niệm, các quy định mang tính định
hướng hoặc những quy định liên quan đến
hiệu lực của văn bản quy phạm hoặc của các
quy phạm. Những điều luật này ít khi được
viện dẫn trong thực tiễn áp dụng pháp luật mà
chúng chủ yếu là cơ sở để đặt ra các quy phạm
pháp luật khác.
Với quan điểm phân biệt điều luật và quy
38

phạm pháp luật như vậy nên chúng ta sẽ thấy
rằng thông thường các bộ phận của quy phạm
pháp luật sẽ được trình bày ở các điều luật
khác nhau của cùng một văn bản hoặc ở các
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Thực
tế, với quan điểm xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật như hiện nay, chúng ta ít khi thấy
quy phạm pháp luật đầy đủ được trình bày
trong một điều luật cụ thể. Vì vậy, nếu chúng
ta xem xét điều luật nào đó chỉ có phần quy tắc
thì phần bảo đảm có thể thuộc điều luật khác
trong chính văn bản đó hoặc văn bản quy
phạm pháp luật khác nếu nó không thuộc loại
quy phạm pháp luật không có phần bảo đảm
như được nêu ở trên. Ngược lại, nếu chúng ta
xét một điều luật chỉ chứa đựng phần bảo đảm
thì chắc chắn rằng phần quy tắc tương ứng với
nó được thể hiện trong một điều luật khác của
văn bản quy phạm pháp luật khác.

Chúng ta hãy xét một ví dụ cụ thể về vấn
đề này. Khoản 1 Điều 102 Bộ luật hình sự quy
định: “Người nào thấy người khác đang ở
trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy
có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu
quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, cải
tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm”.
Xét theo quan điểm về cơ cấu của quy
phạm pháp luật được phân tích ở trên thì đây
chỉ là phần bảo đảm của một quy phạm pháp
luật hoàn chỉnh mà chúng ta có thể thấy được
phần quy tắc của quy phạm pháp luật này ở
một điều luật khác của một văn bản khác.
Thậm chí có nhiều điều luật quy định nghĩa vụ
phải cứu giúp người khác trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng ở những tình huống
khác nhau. Ví dụ, khoản 3 Điều 32 Bộ luật dân
T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004


nghiªn cøu - trao ®æi

sự quy định: “Khi một người bị tai nạn, bệnh
tật mà tính mạng bị đe dọa, thì người phát
hiện có trách nhiệm đưa đến các cơ sở y tế;
các cơ sở y tế của nhà nước, tập thể và tư
nhân không được từ chối việc cứu chữa mà
phải tận dụng mọi phương tiện, khả năng hiện
có để cứu chữa”; khoản 15 Điều 8 Luật giao

thông đường bộ quy định hành vi bị cấm là
“Người có điều kiện mà cố ý không cứu giúp
người bị tai nạn giao thông”; khoản 1 Điều 36
Luật giao thông đường bộ quy định: “Người lái
xe và những người liên quan trực tiếp đến vụ
tai nạn phải có trách nhiệm: a) Dừng xe lại;
giữ nguyên hiện trường; cấp cứu người bị nạn
và phải có mặt khi có quan có thẩm quyền yêu
cầu...”; khoản 3 cũng Điều luật này quy định:
“Người lái xe khác khi đi qua nơi xảy ra vụ tai
nạn có trách nhiệm chở người bị nạn đi cấp
cứu”. Ngoài ra, còn có thể có nhiều điều luật ở
các văn bản quy phạm pháp luật khác nữa.
Những quy tắc trong các điều khoản trên
đều là những quy tắc xác định nghĩa vụ cứu
giúp người khác trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng. Và nó chính là phần quy tắc
của quy phạm hoàn chỉnh khi chúng được kết
nối với Điều 102 Bộ luật hình sự nêu trên. Tuy
nhiên, việc vi phạm những quy tắc đó ngoài
phần bảo đảm được quy định trong Điều 102
Bộ luật hình sự còn có những điều luật khác
cũng quy định biện pháp xử lí đối với những
trường hợp đó, ví dụ: Điểm c khoản 7 Điều 9;
điểm c khoản 6 Điều 10; điểm b khoản 5 Điều
11 của Nghị định số 15/2003/NĐ-CP ngày
19/2/2003 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính về giao thông đường bộ
đều quy định những biện pháp xử phạt hành
chính đối với những lái xe liên quan đến vụ

T¹p chÝ luËt häc sè 2/2004

tai nạn không tham gia cấp cứu người bị nạn.
Với quan niệm như trên về cấu trúc của
quy phạm pháp pháp luật chúng tôi thấy rằng
nó đã giải quyết được những vấn đề đặt ra
trong khoa học lí luận nhà nước và pháp luật
về vấn đề này. Đồng thời quan điểm này đã
khắc phục được những hạn chế của các quan
điểm khác như đã phân tích ở trên. Tuy
nhiên, nếu chúng ta giải quyết một cách thấu
đáo các khái niệm này thì việc thừa nhận
quan điểm nếu trên về cơ cấu của quy phạm
pháp luật sẽ tạo ra những quan niệm mới
trong thực tiễn xây dựng và ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật. Thêm vào đó,
việc quan niệm về cơ cấu của quy phạm
pháp luật như vậy cũng mở ra một hướng
mới cho việc phân tích và làm sáng tỏ tính
hệ thống của toàn bộ hệ thống quy phạm
pháp luật cũng như nó cho phép việc phát
triển và hoàn thiện lí thuyết về hệ thống
pháp luật. Điều này thực sự rất có ý nghĩa
thực tiễn pháp luật ở nước ta hiện nay./.
(1)Xem: TS. Đinh Văn Mậu, TS. Phạm Hồng Thái,
"Lí luận chung về nhà nước và pháp luật", Nxb. Tổng
hợp Đồng Nai - 2000, tr. 381.
(2).Xem: Nguyễn Quốc Hoàn, “Cần phải có sự
nghiên cứu toàn diện về quy phạm pháp luật”, Tạp
chí luật học số 6/2003.

(3).Xem: The concept of a legal system, Claredon
press - Oxford - 1980, tr. 55.
(4).Xem: Von Wright, G. H. Norm and Action,
Routledge & Kegan Paul, New York, 1963, tr. 70.
(5).Xem: The concept of a legal system, Sđd, tr. 24.
(6). Cũng có quan điểm cho rằng khái niệm chế tài
(sanction) bao hàm trong đó cả những biện pháp xử phạt
(punishment) và những biện pháp khen thưởng (reward).
(7), (8).Xem: Nguyễn Quốc Hoàn, "Bàn về cơ cấu
của quy phạm pháp luật", Tạp chí luật học số 1/2000.
39



×