Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nghiên cứu khoa học NHÂN GIỐNG lát HOA BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI cấy mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 7 trang )

NHÂN GIỐNG LÁT HOA BẰNG PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY MÔ
Đoàn Thị Mai, Nguyễn Thị Mỹ Hương,Văn Thu Huyền,
Vũ Thị Ngọc, Trần Thanh Hương
Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
TÓM TẮT
Lát hoa (Chukrasia tabulais) là một trong những loài cây gỗ có giá trị kinh tế cao ở Việt Nam. Gỗ
Lát hoa được dùng để trang trí bề mặt cho nhiều loại đồ mộc như bàn ghế, giường, tủ…cao cấp.
Nhân giống bằng nuôi cấy mô kết quả cho thấy:
Khử trùng mẫu sử dụng HgCl 2 1%, thời gian 15 phút cho tỷ lệ bật chồi cao đạt 60,37%.
Hệ số nhân chồi của Lát hoa ở môi trường MWP cải tiến có bổ sung BAP 1,0mg/l cao đạt 6,45 6,48 chồi/cụm.
*
Môi trường tạo rễ invitro thích hợp là 1/2 MWP + IBA 1,0mg/l, tỷ lệ ra rễ đạt 93,33%
Chồi nuôi cấy mô cao khoảng 5cm cắt chấm thuốc bột (TTG1) có gốc IBA 1,0 mg/l cho tỷ lệ ra rễ
đạt 96,30%
Thời gian ra rễ sau 15 - 20 ngày cấy giâm (mùa xuân - hè); 30 - 40 ngày giâm (mùa thu - đông).
Từ khóa: Lát hoa, Nhân giống, Nuôi cấy mô.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ở Việt Nam Chukrasia tabulais có các tên gọi khác nhau như Lát hoa, Lát da, Lát chun. Là
loài cây phân bố rộng trong các nước vùng Đông Nam Á. Những nước có Lát hoa phân bố tự nhiên
là Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ (Pellegrin, 1908; Hooker, 1879; Phạm
Hoàng Hộ, 1992; Association of Chinese Tree, 1978).
Tại Việt Nam, Lát hoa đã được tìm thấy ở một số vùng như Kon Hà Nừng, Nghệ An, Tuyên
Quang, Lạng Sơn (Viện Điều tra Quy hoạch, 1990; Sách đỏ Việt Nam, 1996), thường ở độ cao 150800m. Song đặc biệt ở độ cao 1450m của vùng Sa Pa cũng tìm thấy Lát hoa (Nguyễn Bá Chất,
1996). Trước đây Lát hoa có phân bố ở hầu hết các tỉnh đến tận vùng Đông Nam Bộ song hiện nay
đã không còn sự xuất hiện của Lát hoa ở vùng này nữa. Lát hoa là cây rụng lá trong mùa đông, thời
kỳ quả chín vào khoảng 11 đến 12 hàng năm. Hạt Lát hoa nhỏ, mỏng. Vì thế có thể phát tán cách cây
mẹ tới 120m, nhưng chủ yếu tập trung ở vùng từ 50-60m. Cây con chịu bóng ở giai đoạn 1-3 tháng
tuổi sau đó chuyển thành cây ưa sáng. Lát hoa phân bố rải rác và có tỉ lệ rất ít khoảng 0,55-6,11%
trong tự nhiên (Triệu Văn Hùng, 1993) và đang bị khai thác triệt để. Ngoài một số cây lác đác ở lâm
trường Chư Pa, Kon Nà Nừng (Gia Lai), hầu hết không còn cây nào sống trong rừng tự nhiên (Lê


Đình Khả, 2003).Vì vậy, Lát hoa được đưa vào sách đỏ Việt Nam (Bộ KHCN&MT 1996).
Lát hoa đã được Nhà nước công nhận là loài cây trong cơ cấu cây trồng của nghành (Nghị
định 18 HĐBT, 1992) là loài cây trồng trong Chương trình 327 và gần đây nhất là Chương trình trồng
mới 5 triệu ha rừng (giai đoạn từ 2000-2010).
Những năm gần đây, Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng thuộc Viện Khoa học Lâm
nghiệp Việt Nam đã chọn, tạo và nhân giống cho một số giống cây rừng có năng suất, chất lượng
cao như Keo lai tự nhiên, Bạch đàn….Trong chương trình của đề tài “nghiên cứu nhân giống Keo lai
tự nhiên, keo lai nhân tạo (mới chọn tạo) và Lát hoa bằng công nghệ tế bào”, phòng công nghệ của
Trung tâm đã thử nghiệm nhân giống cho một số xuất xứ Lát hoa có khả năng sinh trưởng tốt để
nhằm phát triển đưa nhanh giống vào sản xuất trồng rừng, bước đầu có kết quả tốt.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vật liệu nuôi cấy
Vật liệu nuôi cấy là các chồi Lát hoa xuất xứ Việt Nam và Thái Lan lấy từ cây vật liệu gốc 1
năm tuổi tại vườn ươm Trung tâm Nghiên cứu Giống cây rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam,
Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Thời gian tiến hành thí nghiệm là các mùa trong năm.
Phương pháp nghiên cứu
* Khử trùng đưa mẫu vào nuôi cấy in vitro
Tiến hành qua các bước:
- Rửa mẫu vật bằng chất tẩy nhẹ, rồi làm sạch dưới vòi nước chảy
- Mẫu vật được lau bằng cồn 70o
- Khử trùng bằng Clorua thuỷ ngân (HgCl2), Canxi hypoclorit (Ca(OCl)2 ) và Hyđro peroxit (H2O2 )
ở các nồng độ khác nhau từ 5-15 phút, sau tráng lại bằng nước cất vô trùng 3-5 lần.
- Cấy mẫu vào môi trường tái sinh chồi ban đầu trong điều kiện vô trùng
* Tạo và nhân nhanh chồi

1


- Tái sinh chồi ban đầu : Tiến hành cấy trên các môi trường khác nhau
MS (Murashige và Skoog Medium), MWP (McCown Woody Plant Medium), B5 (Micro-Macro

Gamborg’s B5 medium) có bổ sung 7g/l agar-agar, 30g/l đường.
- Nhân chồi: sử dụng môi trường xác định được từ thí nghiệm tái sinh chồi đã được cải tiến về thành phần,
tỷ lệ các chất đa lượng, vi lượng, có bổ sung các axit amin; các chất phụ gia; các vitamin; một số chất cytokinin
BAP (Benzylaminopurine) và Kn (Kinetin ) ở các nồng độ khác nhau 0,1; 0,5; 1,0; 1,5mg/l riêng rẽ
hoặc phối hợp gọi là môi trường cải tiến (MS*).
* Quá trình tạo rễ: được tiến hành theo 2 phương pháp:
- Ra rễ invitro: Chọn các chồi đủ tiêu chuẩn cao 3cm chất lượng tốt cắt cấy sang môi trường tạo
rễ, thành phần 1/2MS* có bổ sung IBA, NAA nồng độ 0,5; 1,0; 1,5; 2,0mg/l.
- Ra rễ exsitu: Cũng từ các chồi đủ tiêu chuẩn cấy ra rễ được cắt rồi chấm vào thuốc bột thương
phẩm TTG1 (gốc là IBA) và TTG2 (gốc là NAA) cấy trực tiếp trên cát sạch hay vào bầu đất. Các chồi thí
nghiệm được chăm sóc như với giâm hom thông thường (Đoàn Thị Mai và cs, 2003).
* Đưa cây invitro ra ngoài vườn ươm: Vào 2 loại giá thể là cát sạch và bầu đất ở các thời điểm
khác nhau trong năm.
Số liệu thu thập được xử lý bằng phương pháp phân tích phương sai theo chương trình phần mềm
Excel (Nguyễn Hải Tuất, Ngô Kim Khôi, 1996).
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Ảnh hưởng của các loại hoá chất và thời gian khử trùng đến kết quả vào mẫu
Mẫu vật được khử trùng bằng 2 loại hoá chất là HgCl 2 0,05% và 0,1%, Ca(OCl)2 10% và 20%
trong các khoảng thời gian 5, 10 và 15 phút.
Bảng 1. Kết quả thí nghiệm khử trùng cho Lát hoa
Tỷ lệ sạch (%)
Tỷ lệ bật chồi (%)
Thời
Hoá chất
Trung
gian
Trung bình
Sd
Sd
bình

5
22,48
1,04
5,56
1,18
HgCl2 0,05%
10
57,41
0,75
10,00
1,57
15
46,67
1,55
5,93
0,35
5
30,27
1,12
6,30
1,57
10
50,00
1,69
10,00
1,32
HgCl2 0,1%
15
60,37
1,37

20,37
1,45
20
77,11
1,50
7,78
1,08
5
10,00
1,86
3,33
0,98
Ca(OCl)2 10%
10
20,00
1,35
4,44
0,35
15
35,18
0,89
2,04
1,43
5
7,78
1,25
1,48
1,55
Ca(OCl)2 20%
10

20,00
1,80
4,07
1,76
15
28.89
1,34
3,70
1,86
Kết quả thí nghiệm cho thấy đối với Lát hoa khử trùng bằng HgCl 2 0,1% trong 15 phút cho hiệu
quả tốt nhất, với tỷ lệ mẫu sạch đạt 60,37% và tỷ lệ mẫu bật chồi cao đạt 20,37%.
Khả năng tái sinh chồi của Lát hoa
Để đánh giá đánh giá khả năng nhân giống của Lát hoa thì việc theo dõi khả năng tái sinh
chồi sau quá trình khử trùng được tiến hành. Với kết quả thu được về loại hoá chất, nồng độ, thời
gian khử trùng thích hợp từ các thí nghiệm trước cho thấy hai dòng Lát hoa khử trùng bằng HgCl2
0,1% trong 15 phút là phù hợp nhất, thí nghiệm tiến hành với 3 lần lặp (30 mẫu/dòng/lần lặp) được
thể hiện như bảng sau.
Bảng 2. Khả năng tái sinh chồi của Lát hoa
Tỷ lệ nhiễm (%)
Đối tượng
Lát Việt Nam (NA3)

Tỷ lệ bật chồi (%)

Trung
bình

Sd

Trung

bình

Sd

37,78

1,86

20,74

1,85

2


Lát Thái Lan (TL3)

41,48

1,45

20,00

1,40

Kết quả thí nghiệm cho thấy tỷ lệ nhiễm trung bình của NA3 là 37,78% thấp hơn so với TL3
(41,48%) và đồng thời tỷ lệ bật chồi là 20,74% cũng đạt tốt hơn so với TL3 (20%).
Hình 2. Chồi Lát hoa tái sinh (4 - 5 tháng sau khi vào mẫu)

Xác định môi trường thích hợp cho từng đối tượng nghiên cứu

Xác định môi trường nuôi cấy cơ bản cho từng đối tượng nghiên cứu
Thử nghiệm trên các môi trường khác như môi trường MS, B5 và SH. Kết quả cho thấy môi
trường MWP là môi trường thích hợp nhất cho sự phát triển của hai dòng Lát hoa. Kết quả so sánh
được thể hiện ở bảng 3
Bảng 3. Kết quả xác định môi trường cơ bản cho Lát hoa
MWP
B5
MS
Đối tượng

Số
chồi/cụm

HSNC

Lát Việt Nam
4,40
1,65
(NA3)
Lát Thái Lan
4,80
1,80
(TL3)
Ghi chú: HSNC: Hệ số nhân chồi

SH

Số
chồi/cụm


HSNC

Số
chồi/cụm

HSNC

Số
chồi/cụm

HSNC

2,80

1,58

2,10

1,45

3,20

1,12

3,10

1,75

2,60


1,53

3,01

1,03

Hình 3. Chồi Lát hoa tái sinh sau 30 ngày cấy

Xác định môi trường nhân chồi thích hợp cho từng đối tượng nghiên cứu
Để xác định được môi trường thích hợp cho từng dòng Lát hoa nghiên cứu, môi trường MWP
được bổ sung thêm BAP và Kinetin ở các nồng độ là 0,5mg/l; 1,0mg/l; 1,5mg/l; 2,0mg/l. Số liệu thu
thập được tổng hợp trong bảng 4
Bảng 4. Ảnh hưởng của BAP và Kinetin đến khả năng nhân chồi của Lát hoa
Môi trường
Lát Việt Nam (NA3)
Lát Thái Lan (TL3)

3


*

MWP

Số chồi/cụm

Chiều dài
cụm (cm)
Trung
Sd

bình
3,24
0,76
5,44
1,22

Đối chứng
BAP 0,5mg/l

Trung
bình
3,07
5,61

1,35
1,14

BAP 1,0mg/l

6,48

1,60

6,63

BAP 1,5mg/l

6,02

1,98


BAP 2,0mg/l

5,84

Kn 0,5mg/l

Số chồi/cụm

Chiều dài
cụm (cm)
Trung
Sd
bình
3,04
1,29
5,60
0,69

Trung
bình
3,23
5,32

1,22
1,08

1,11

6,45


1,73

6,49

0,89

5,67

1,18

5,89

1,94

5,89

1,06

1,82

6,00

1,04

5,80

2,37

6,01


1,05

4,48

1,25

3,91

1,34

5,00

0,82

3,83

1,37

Kn 1,0mg/l

2,48

1,63

3,89

1,58

5,27


1,55

4,39

1,69

Kn 1,5mg/l

5,43

1,89

3,48

1,41

4,49

1,80

3,63

1,25

Kn 2,0mg/l

5,61

1,84


3,33

1,18

4,71

2,05

3,43

1,08

Sd

Sd

Hình 4. Cụm chồi Lát hoa khi nuôi cấy trong môi trường nhân chồi

Lát Thái Lan (TL3)

Lát Việt Nam (NA3)

Kết quả thí nghiệm cho thấy, BAP có tác dụng rõ lên quá trình tạo chồi cũng như chiều cao của
chồi so với đối chứng hay khi sử dụng chất kích thích sinh trưởng Kinetin. Khi bổ sung BAP với nồng
độ 1,0mg/l vào môi trường nuôi cấy số lượng chồi thu được sau quá trình kích thích tạo chồi đạt từ
6,45 - 6,48 chồi/cụm, chiều cao trung bình đạt từ 6,49 - 6,63 cm.
Xác định môi trường ra rễ cho Lát hoa
Môi trường được sử dụng là môi trường 1/2 MWP* được bổ sung thêm các chất kích thích
IBA, NAA ở nồng độ khác nhau.

Hình 5. Chồi Lát hoa khi ra rễ

4


Bảng 5. Kết quả thí nghiệm ra rễ cho hai dòng Lát hoa
Lát Việt Nam (NA3)
Môi trường
1/2 MWP +

Lát Thái Lan (TL3)

Đối chứng
IBA 0,5mg/l

Tỷ lệ
ra rễ
(%)
38,52
59,31

IBA 1,0mg/l

93,33

5,83

4,70

89,63


5,95

4,90

IBA 1,5mg/l

88,15

5,72

3,05

80,00

5,35

3,60

Chiều dài
rễ (cm)

Số
rễ/chồi

Tỷ lệ ra
rễ (%)

Chiều dài
rễ (cm)


Số
rễ/chồi

3,38
5,42

2,00
3,40

35,56
63,70

3,55
5,67

1,80
3,20

IBA 2,0mg/l

71,85

5,65

3,40

68,69

5,10


3,50

NAA 0,5mg/l

48,15

4,22

2,70

50,37

4,29

3,00

NAA 1,0mg/l

51,11

4,33

2,40

57,03

4,53

2,80


NAA 1,5mg/l

61,48

3,95

2,90

66,67

4,23

3,00

NAA 2,0mg/l

57,04

3,58

2,20

56,30

3,56

2,20

Kết quả thí nghiệm cho thấy, đối với hai dòng Lát hoa nghiên cứu IBA có tác dụng mạnh mẽ

đến quá trình tạo rễ. Tỷ lệ ra rễ của cả hai dòng Lát hoa khi có bổ sung của IBA đạt khá cao 59,31% 93,33%, trong khi đó sử dụng NAA để kích thích tạo rễ thì tỷ lệ này chỉ đạt từ 48,15% - 66,67%.
*
Từ số liệu thu thập được cho thấy, môi trường 1/2MWP + IBA 1,0mg/l là thích hợp nhất cho
quá trình tạo rễ nhân tạo cho hai dòng Lát hoa. Nếu sử dụng môi trường 1/2MWP*+ IBA 1,5mg/l cũng
cho tỷ lệ ra rễ khá cao (80%-88,15%). Nhìn vào bảng kết quả thì môi trường 1/2MWP*+ IBA 1,0mg/l
*
và môi trường 1/2MWP + IBA 1,5mg/l đều có khả năng kích thích chiều dài của rễ là tương đương
nhau. Sự khác biệt lớn nhất giữa hai môi trường này chính là khả năng tạo số rễ/chồi. Nếu môi
*
trường 1/2MWP + IBA 1,0mg/l cho số lượng rễ/chồi là khá cao (4,7 - 4,9 rễ/chồi) thì môi trường
1/2MWP*+ IBA 1,5mg/l là thấp hơn nhiều (3,5 - 3,6 rễ/chồi).
Như vậy, từ bảng số liệu ta có thể kết luận môi trường thích hợp nhất để tạo rễ cho hai dòng
*
Lát hoa nghiên cứu là môi trường 1/2MWP + IBA 1,0mg/l. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là
thời gian ra rễ dài (45 ngày).
Tạo rễ trực tiếp cho hai dòng Lát hoa bằng chấm thuốc bột TTG
Phương pháp tạo rễ trực tiếp là phương pháp sử dụng chồi đủ tiêu chuẩn trong giai đoạn
nhân chồi invitro đem xử lý chấm thuốc bột TTG có gốc IBA. Với Lát hoa phương pháp này cho kết
quả bước đầu khá tốt. Các chồi đủ tiêu chuẩn sau khi được chấm thuốc sẽ cấy vào luống cát hoặc
bầu đất tại vườn ươm và được chăm sóc như phương pháp giâm hom bình thường. Ưu điểm của
phương pháp này là rút ngắn được thời gian nhân giống (mùa xuân - hè: 15-20 ngày, mùa thu đông: 30-40 ngày), tiết kiệm vật tư, công nhân vì vậy giảm giá thành cây con mà vẫn tạo được số
lượng cây con lớn và thời gian ra rễ là ngắn hơn rất nhiều so với phương pháp ra rễ trong lọ.Tuy
nhiên, phương pháp này vẫn phải thử nghiệm một vài mùa vụ ra rễ nữa để đạt hiệu quả cao hơn.
Bảng 6. Kết quả ra rễ trực tiếp bằng phương pháp chấm thuốc bột TTG
Lát Việt Nam (NA3)
Lát Thái Lan (TL3)
Nồng
Tỷ lệ
Hoá chất
độ

Chiều dài
Số
Tỷ lệ ra Chiều dài
Số
ra rễ
(mg/l)
rễ (cm)
rễ/chồi
rễ (%)
rễ (cm)
rễ/chồi
(%)
Đối chứng
0
42,22
3,66
2,39
40,00
3,89
2,16
0,5
72,59
5,44
3,59
76,60
5,53
3,50
TTG1 (gốc là
IBA)


TTG2 (gốc là
NAA)

1,0

96,30

5,98

5,32

93,33

6,01

5,60

1,5

90,37

5,65

3,80

92,60

5,41

4,02


2,0

79,26

5,37

3,86

77,04

5,18

3,81

0,5

61,48

4,48

3,05

64,44

5,08

3,34

1,0


72,60

4,03

3,05

71,11

4,45

3,07

1,5

76,30

4,41

3,25

75,60

4,71

3,27

2,0

63,00


3,74

2,61

45,93

4,34

2,59

5


Qua bảng trên cho thấy ra rễ trực tiếp bằng cách chấm thuốc bột TTG có gốc IBA cho kết
quả cao hơn rất nhiều so với các công thức khác. Ra rễ trực tiếp chấm thuốc TTG gốc IBA 1,0mg/l
cho tỷ lệ ra rễ cao nhất đạt 93,33% - 96,30%.
Kết quả thí nghiệm cho thấy thuốc bột TTG gốc IBA 1,0mg/l có khả năng kích thích chồi ra rễ
cao, thích hợp cho cả hai dòng Lát hoa nghiên cứu. Đây được coi là một trong những hướng nghiên
để tạo ra cây con chất lượng cao với giá thành rẻ.
Hình 6. Cây con Lát hoa tại vườn ươm

KẾT LUẬN
- Đã xác định được kỹ thuật khử trùng tạo mẫu sạch thích hợp cho 2 dòng Lát hoa (NA3 và TL3): Sử
dụng chất HgCl 2 nồng độ 1% khử trùng trong 15 phút với tỷ lệ mẫu sạch là 60,37%
*
- Đã xác định được môi trường nhân chồi thích hợp cho 2 dòng Lát hoa (NA3 và TL3) là MWP +
1,0mg/l BAP với tỷ lệ 6,45 - 6,48 chồi/cụm sau 20 ngày.
- Đã xác định được 2 phương pháp tạo rễ cho chồi Lát hoa invitro
*

+Môi trường tạo rễ invitro thích hợp là 1/2 MWP + 1,0mg/l IBA có tỷ lệ đạt chồi ra rễ đạt 93,33%
(NA3) và 89,63% (TL3) sau 20-30 ngày cấy.
+Sử dụng thuốc bột TTG có gốc IBA 1,0 mg/l cho hiệu quả ra rễ trực tiép thích hợp nhất, với tỷ lệ
chồi ra rễ đạt 96,30% (NA3) và 93,33% (TL3) sau 15-20 ngày cấy giâm (mùa xuân – hè); 30-40 ngày
giâm (mùa thu – đông).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Đình Khả, Đoàn Thị Mai, 2002. Một số phương thức nhân giống sinh dưỡng trong sản xuất
lâm nghiệp. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp,(5), trang 23 – 24.
Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1999. Nhân giống vô tính và trồng rừng dòng vô tính, NXB Nông nghiệp,
Hà Nội.
Nguyễn Quang Thạch, 1996. Công nghệ sinh học thực vật. NXB trường ĐH Nông nghiệp I.
Đoàn Thị Mai, 2001. Nhân giống cho một số giống cây rừng năng suất cao. Hội nghị CNSH toàn
quốc trang 3.
Đoàn Thị Mai, Trần Hồ Quang, Ngô Thị Minh Duyên, 1998. Kỹ thuật nhân giống Keo lai bằng
nuôi cấy mô phân sinh. Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp, số 7, trang 35-36.
Nguyễn Đức Thành, 2000. Nuôi cấy mô tế bào thực vật – Nghiên cứu và ứng dụng. NXB Nông
nghiệp, Hà Nội.
Nguyễn Hải Tuân, Ngô Kim Khôi, 1996. Xử lý thống kê kết quả nghiên cứu thực nghiệm nông
nghiệp trên máy vi tính. NXB Nông nghiệp.
Propagation of Chukrasia species by tissue culture
Doan Thi Mai, Nguyen Thi My Huong, Van Thu Huyen, Vu Thi Ngoc, Tran Thanh Huong
Research Centre for Forest Tree Improvement
Forest Science Institute of Viet Nam
SUMMARY
Chukrasia is one of the most important commercial tree species in Vietnam. It is used for various
purposes. Plant tissue culture can be applied to quickly propagate selected Chukrasia species. The
suitable sterilization method is 1% HgCl2 for 15 minutes. The suitable medium for shoot formation is

6



MWP with 1,0 mg/l BAP. The rooting medium is 1/2MWP with 1,0mg/l IBA. Rooting directly by rooting
powder (TTG1) is an effective method for Chukrasia.
Key words: Chukrasia, Propagation, Tissue culture.

7



×