Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.69 KB, 31 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Trái Đất là ngơi nhà chung của thế giới, là nơi sự sống con người
được sinh sôi nảy nở. Sự phát triển mạnh mẽ và liên tục của các cuộc Cách
mạng công nghiệp, Cách mạng khoa học kỹ thuật cùng với q trình Cơng
nghiệp hố trong hơn 3 thế kỷ qua đã và đang làm biến đổi nhanh chóng và
sâu sắc khơng chỉ bộ mặt của xã hội, lồi người và cả tự nhiên. Những biến
đổi đó một mặt đã thúc đẩy nền văn minh hiện đại tiến nhanh hơn bất kỳ một
giai đoạn lịch sử nào trước đây, song, mặt khác, cũng đang bộc lộ tất cả
những mâu thuẫn gay gắt chưa thể điều hoà được giữa sự tiến bộ của Khoa
học, kỹ thuật và công nghệ với việc bảo vệ những điều kiện tự nhiên cần cho
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Cùng với sự phát triển nhanh
chóng của kinh tế cũng là sự suy thối trầm trọng về mơi trường sinh thái.
Đó khơng cịn là vấn đề của riêng một quốc gia nào mà giờ đây ô nhiễm môi
trường, suy thoái sinh thái đã trở thành mối quan tâm, lo lắng của tồn nhân
loại vì sự sống cịn của thế giới.
Việt Nam tuy mới bước vào con đường phát triển kinh tế nhưng đã
phải đối mặt với nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng. Từ thực tiễn nghiên
cứu và giải quyết các vấn đề sinh thái của thời đại và trong điều kiện cụ thể
của nước ta hiện nay đã nảy sinh nhu cầu cấp thiết cần phải có một cơ sở lí
luận - phương pháp luận chung làm nền tảng cho việc xem xét mối quan hệ
giữa tự nhiên - con người - xã hội, đặc biệt là vai trò ngày càng to lớn của
con người trong việc làm biến đổi tự nhiên.
Xuất phát từ góc độ Triết học, trên tinh thần của Triết học Mac Lênin và cơ sở của những tri thức thời đại chúng ta sẽ có một có một cái
nhìn bao qt, sâu sắc và toàn diện hơn đối với mối quan hệ giữa tự nhiên -

1


con người - xã hội. Và vận dụng nó vào xem xét những điều kiện của thể ở
Việt Nam.
Mong rằng tất cả những điều được trình bày trong tiểu luận dưới đây


sẽ góp phần nâng cao nhận thức đối với vấn đề cấp thiết và nóng bỏng này,
nhìn lại thực trạng của mơi trường, tìm ra ngun nhân và giải pháp cho
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện Cơng nghiệp hố - Hiện
đại hố ở nước ta hiện nay, cùng nhau hướng tới phát triển bền vững khơng
chỉ vì sự sống của chúng ta hơm nay, mà cịn vì sự tồn tại và cơ hội phát
triển tiếp tục của các thế hệ mai sau.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ TRIẾT HỌC CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA TỰ NHIÊN, CON
NGƯỜI VÀ XÃ HỘI. SỰ LIÊN QUAN CỦA NÓ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ
MƠI TRƯỜNG
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về vấn đề môi trường sinh thái,
song cách tiếp cận của triết học cho phép chúng ta có một có một cách nhìn
bao qt, sâu sắc và tồn diện hơn đối với mối quan hệ giữa tự nhiên, con
người và xă hội. Sau đây là một số cơ sở lý luận và phương pháp luận để
nghiên cứu xem xét mối quan hệ đó hay thực chất của vấn đề mơi trường
sinh thái.
I. Tính thống nhất vật chất của thế giới
Thế giới cực kỳ phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố,
song, suy cho cùng có ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con người và xã hội
lồi người. Ba yếu tố đó thống nhất với nhau trong một hệ thống “Tự nhiên con người - xã hội”, vì rằng chúng là những dạng thức khác nhau, những
trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang
vận động.
2


I.1. Yếu tố tự nhiên.
Theo nghĩa rộng, tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách
quan. Theo nghĩa này thì con người và xã hội lồi người là những bộ phận
không thể tách rời của tự nhiên. Đồng thời, tự nhiên còn được hiểu theo
nhiều nghĩa hẹp khác nhau: là môi trường sinh thái, môi trường địa lý hay

môi trường sống, v.v.. Song giới tự nhiên được xem xét ở đây là giới tự
nhiên có liên quan trực tiếp đến sự sống con người - giới tự nhiên trong hệ
thống “Tự nhiên - con người - xã hội”. Đó chính là sinh quyển.
Sinh quyển là sự thống nhất hữu cơ giữa sinh thể và những thành phần
vô cơ và hữu cơ tham gia vào quá trình sống. Sinh quyển đã trải qua một q
trình tiến hố lâu dài và phức tạp để tạo nên những bộ phận của nó. Có thể
khái quát thành bốn giai đoạn chủ yếu như sau:
Giai đoạn một là giai đoạn xuất hiện những cơ thể đơn bào, trên cơ sở
tổng hợp các chất hữu cơ có sẵn trong tự nhiên. Từ hoạt động sống của các
cơ thể đơn bào đã hình thành nên chu trình sinh học đầu tiên - đó là dạng sơ
khai nhất của sinh quyển.
Giai đoạn hai là giai đoạn các cơ thể đơn bào phát triển lên thành các
cơ thể đa bào, theo hai hướng chính là động vật và thực vật. Sinh quyển và
chu trình trao đổi chất trong nó ngày càng phức tạp và tiến đến hoàn thiện.
Giai đoạn ba được đánh dấu bằng sự xuất hiện của con người và xã
hội loài người. Con người và xã hội trở thành những thành viên mới của chu
trình sinh học.
Giai đoạn bốn là giai đoạn sinh quyển chuyển thành trí tuệ quyển.
Trong giai đoạn này sự tiến hố của sinh quyển khơng chỉ chịu sự tác động
của các yếu tố tự nhiên - sinh học, mà còn chịu sự tác động mạnh mẽ của
hoạt động có ý thức của con người.ý
I.2. Yếu tố con người.
3


Quá trình phát triển của của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo
quy luật tiến hoá, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ
động vật.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh
học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Đây là quá trình

con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để
đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong q trình lao động, cấu tạo cơ
thể của con người ngày càng hồn thiện hơn và cũng chính trong q trình
lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm cho ngôn ngữ xuất hiện. Lao động
và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của
loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức. Do đó
con người đã dần tự ý thức về mình, và dần tách mình ra khỏi thế giới động
vật, cùng với môi trường tự nhiên vốn có, con người cịn tạo ra cho mình
một mơi trường sống mới - môi trường xã hội hay môi trường tự nhiên đã
được “người hoá”.
I.3. Yếu tố xã hội.
Tự nhiên theo q trình phát triển của nó đã sinh ra con người, và từ
sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người
với người, đã làm chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động
theo bản năng thành cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Xã
hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất. Hình thái vận động này lấy
quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm
nền tảng. Do đó, xã hội là một bộ phận đặc biệt, được tách ra một cách hợp
quy luật của tự nhiên.
Với tư cách là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, vừa là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa người và người để tồn tại và phát triển, xã hội vừa
phải tuân theo những quy luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những quy
4


luật chỉ vốn có đối với xã hội. Cũng như các quy luật tự nhiên, các quy luật
xã hội mang tính khách quan.
Quy luật tự nhiên được hình thành xun qua vô số những tác động tự
phát của các yếu tố tự nhiên, cịn quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở
hoạt động có ý thức của con người. Xã hội là sản phẩm hoạt động của con

người, mà tất cả những gì thúc đẩy con người hành động đều thơng qua đầu
óc của họ. Do vậy, có thể nói quy luật xã hội chẳng qua là quy luật con
người theo đuổi mục đích của mình.
Quy luật xã hội mang tính tất yếu khách quan. Dù con người có nhận
thức được hay khơng, có tự giác vận dụng hay khơng, thì quy luật xã hội vẫn
ln tác động ngồi ýý ýchí của con người. Khi con người chưa nhận thức
và chưa vận dụng được thì chúng tác động như một lực lượng tự phát và
biến con người thành nơ lệ của tính tất yếu. Khi con người đã nhận thức
được quy luật khách quan và những hoạt động điều kiện của chúng để vận
dụng chúng vào các hoạt động có mục đích của mình, thì con người đạt đến
tự do. Như vậy, tự do khơng có nghĩa là hành động tuỳ tiện, bất chấp quy
luật, trái lại, tự do là nhận thức được quy luật và làm theo quy luật.
II. Sự tác động qua lại giữa tự nhiên - con người - xã hội
II.1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên xã hội.
Hệ thống tự nhiên - xã hội là một chỉnh thể trong đó những yếu tố tự
nhiên và những yếu tố xã hội tác động qua lại lẫn nhau, quy định sự tồn tại
và phát triển của nhau. Trong sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội,
yếu tố tự nhiên có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự tồn tại và phát triển của
con người và xã hội, còn yếu tố con người và xã hội có vai trị ngày càng
quan trọng và có tính quyết định đối với sự biến đổi của tự nhiên.

5


Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội, vừa là môi trường
tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người.
Là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành
gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, và con
người chính là con đẻ của tự nhiên, được hình thành trong quá trình tiến hố
của thế giới vật chất.

Là mơi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới
cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người
như ánh sáng, nước, khơng khí, thức ăn... là những điều kiện cần thiết nhất
cho sự tồn tại và phát triển của xã hội như nguyên vật liệu xây dựng, tài
nguyên, khoáng sản... là một trong những yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã
hội.
Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có
thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội.
Xã hội gắn bó với tự nhiên thơng qua q trình hoạt động thực tiễn
của con người, con người là nhân tố thực hiện sự thống nhất giữa xã hội và
tự nhiên, đồng thời cũng là sự hiện thân của sự thống nhất đó. Trước hết đó
là quá trình lao động sản xuất. Lao động là ranh giới phân biệt về chất giữa
con người và con vật, giữa xã hội loài người và thế giới động vật. Song,
cũng chính lao động là yếu tố đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất tạo nên sự
thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên. Bởi vì lao động trước hết là một
quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một q trình trong đó, bằng
hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự
trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Vì vây, lao động, một mặt, càng tạo ra sự
tách biệt giữa xã hội và tự nhiên bao nhiêu, thì mặt khác, lại làm cho xã hội
gắn bó chặt chẽ hơn với tự nhiên bấy nhiêu.
6


Tự nhiên cung cấp cho con người tất cả các nguồn vật chất vốn có
của sinh quyển để con người sống và tiến hành lao động sản xuất; nhưng
cũng chính quá trình sử dụng các nguồn vật chất, con người đã làm biến đổi
tự nhiên mạnh mẽ. Nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc sử dụng,
khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh
thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội bị phá vỡ, sự sống

của con người bị đe doạ. Chỉ mới gần đây, khi hậu quả của những hành động
vô ý thức của con người đối với tự nhiên đã ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội thì vấn đề môi trường mới được quan tâm và đang trở
thành một trong những vấn đề toần cầu của thời đại.
II.2. Sự phụ thuộc của mối quan hệ giữa con người và tự nhiên vào trình
độ phát triển của xã hội.
Tự nhiên và xã hội đều có một q trình lịch sử lâu dài và phức tạp.Sự
xuất hiện con người và xã hội loài người là kết quả của một q trình tiến
hố lâu dài, liên tục của tự nhiên. Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài
người, lịch sử phát triển của tự nhiên không chỉ phụ thuộc vào sự tác động
qua lại lẫn nhau giữa các yếu tố tự nhiên, mà còn chịu sự chi phối mạnh mẽ
và sâu sắc của các yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của lịch sử xã hội
không thể tách rời các yếu tố tự nhiên, bởi vì, chỉ có trong mối quan hệ với
tự nhiên và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử của mình.
Nhưng chính q trình quan hệ với giới tự nhiên con người đã cải biến giới
tự nhiên. Thông qua hoạt động của mình con người làm cho lịch sử xã hội và
lịch sử tự nhiên gắn bó lẫn nhau, quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định
lẫn nhau đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh
giá nó là phương thức sản xuất - cách thức sản xuất ra của cải vật chất trong
mỗi giai đoạn nhất định của con người. Bất kỳ một phương thức sản xuất
nào cũng bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ giữa con người với tự
7


nhiên - lực lượng sản xuất và quan hệ giữa con người với với con người quan hệ sản xuất. Hai mối quan hệ này cùng đồng thời tồn tại, vận động và
phát triển cùng với sự vận động và phát triển của lịch sử. Mỗi phương thức
sản xuất nhất định trong lịch sử là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng
sản xuất và phương thức sản xuất. Trong suốt quá trình phát triển của xã hội,
lực lượng sản xuất khơng ngừng biến đổi và hồn thiện dần. Sự ra đời những
phương thức sản xuất mới cao hơn những phương thức sản xuất trước đó đã

quyết định những chuyển biến về chất của xã hội loài người, đưa xã hội lồi
người từ cuộc sống mơng muội, dã man sang văn minh, hiện đại với các nền
văn minh kế tiếp nhau: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn
minh hậu cơng nghiệp hay văn minh trí tuệ. Cũng chính phương thức sản
xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên vì mỗi
phương thức sản xuất khác nhau sẽ có những cơng cụ lao động khác nhau để
khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau.
Khi cơng cụ lao động thay đổi, khi mục đích tiến hành sản xuất của mỗi chế
độ xã hội thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên
cũng thay đổi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được thực hiện thông qua các
cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Trong lịch sử phát triển của loài người
cho đến nay đã trải qua ba cuộc cách mạng lực lượng sản xuất. Các cuộc
cách mạng này không chỉ làm thay đổi và hoàn thiện dần bộ mặt của xã hội
loài người, đưa sự phát triển của xã hội từ trình độ thấp lên trình độ cao dần,
mà cịn làm thay đổi khơng ngừng tính chất của mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ nhất - tìm ra lửa, con
người bắt đầu tự khẳng định mình như một chủ thể, còn tự nhiên là đối
tượng để con người tác động. Con người chủ yếu hái, lượm, săn bắn những
8


thứ có sẵn của tự nhiên. Đây là giai đoạn con người sống phụ thuộc vào tự
nhiên, do vậy sinh quyển vẫn giữ nguyên vẻ thuần khiết hoang sơ vốn có của
nó.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ hai đã dẫn con người từ
thời kỳ đồ đá sang nền văn minh nông nghiệp, với sự ra đời của công cụ
bằng kim loại. Trong giai đoạn này con người đã bắt đầu khai thác tự nhiên
một cách chủ động và tích cực hơn như khai thác đất để trồng trọt, thuần

dưỡng động thực vật...song do công cụ lao động vẫn cịn thơ sơ, do vậy mà
mơi trường khơng co nhiều thay đổi đáng kể.
Cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ ba với sự ra đời của máy
hơi nước đã đánh dấu bước chuyển của xã hội từ văn minh nông nghiệp sang
nền văn minh công nghiệp. Với cơng cụ sản xuất là cơ khí máy móc, mức độ
khai thác của con người ngày càng mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, toàn diện
hơn. Ngày nay, con người đã đạt đến đỉnh cao trong sản xuất là nền đại cơng
nghiệp cơ khí tự động hố, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa, thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà chủ yếu
là đối tượng để khai thác, chiếm đoạt nhằm đạt được mục đích của mình.
Như vậy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nền văn
minh cơng nghiệp, biểu hiện ở trình độ phát triển cao của khoa học, kỹ thuật
và công nghệ, sự tiến bộ của xã hội cũng diễn ra nhanh chóng chưa từng
thấy, và đồng thời với q trình đó là sự đối lập ngày càng gay gắt giữa con
người, tự nhiên, và sự suy thối trầm trọng của mơi trường.
II.3. Sự điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự
nhiên
Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên được thể hiện qua hoạt động có ý
thức của con người. Song, “tất cả những gì thúc đẩy con người hành động
phải thơng qua đầu óc họ”, bởi vậy, mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên,
9


ngồi phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội cịn phụ thuộc vào trình
độ nhận thức, trước hết là việc nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó
trong hoạt động thực tiễn.
Hoạt động sản xuất ra của cải của con người là hoạt động chinh phục
tự nhiên. Hoạt động này có thể làm giới tự nhiên biến đổi theo hai hướng.
Nếu con người tác động vào giới tự nhiên đúng quy luật của nó thì con
người tạo ra “thiên nhiên thứ hai” hài hoà đối với sự phát triển của xã hội.

Ngược lại, nếu con người bất chấp quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những
cái có sẵn trong tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ
cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là điều tất yếu. Ph.ăngghen đã nhắc nhở:
“Không nên quá tự hào về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự
nhiên. Bởi vì, cứ mỗi lần ta đạt được một thắng lợi, là mỗi lần thiên nhiên trả
thù lại chúng ta”. Con người tàn phá giới tự nhiên bao nhiêu thì con người
phải gánh chịu hậu quả bấy nhiêu. “Chúng ta hoàn tồn khơng thống trị
được giới tự nhiên như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác... tất
cả sự thống trị của chúng ta đối với giới tự nhiên là ở chỗ chúng ta khác với
tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận thức được quy luật của tự nhiên và
có thể sử dụng được những quy luật đó một cách chính xác.”
Việc nhận thức được quy luật của giới tự nhiên và sử sụng những quy
luật đó một cách có hiệu quả vào những hoạt động thực tiễn của xã hội, mà
quan trọng nhất là vào lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất vừa là tiền đề,
vừa là từng bước thực hiện việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ
giữa xã hội và tự nhiên. Để làm được điều đó, trước hết cần thay đổi nhận
thức của con người về mọi phương diện thuộc lĩnh vực mối quan hệ qua lại
và sự tác động lẫn nhau giữa con người (xã hội) và tự nhiên. Từ sự thay đổi
về nhận thức, con người sẽ có những hành động thiết thực nhằm bảo vệ và

10


cải thiện chất lượng mơi trường sinh thái vì sự sống của con người và sự
phát triển lâu bền của xã hội.

CHƯƠNG 2.
VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở VIỆT NAM
Môi trường sinh thái là một trong những vấn đề cấp tồn cầu của thời
đại. Nó là mối quan tâm, lo lắng của toàn nhân loại. Mỗi một quốc gia trên

thế giới không chỉ mang những sắc thái riêng về văn hoá mà cả về sinh thái.
Và Việt Nam với tư cách là một thành viên của thế giới, chúng ta cũng có
nhiệm vụ giải quyết những vấn đề chung, mà cụ thể ở đây là vấn đề môi
trường sinh thái. Để có thể làm được được điều đó trước hết chúng ta phải
xuất phát từ thực tiễn đất nước mình. Với những cơ sở lý ýluận đã nêu ở
phần trên, tôi muốn vận dùng để xem xét vấn đề mơi trường sinh thái của thế
giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Bởi vì mơi trường sinh thái của
Việt Nam cũng có những nét đặc thù, khơng giống hoàn toàn với một nước
11


nào, để từ đó có cái nhìn tổng qt về thực trạng, tìm ra ngun nhân và có
những phương sách giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
I. Thực trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam và ngun nhân của
thực trạng đó.
Vấn đề mơi trường sinh thái là vấn đề thuộc lĩnh vực quan hệ qua lại
và tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và tự nhiên. Do đó khi xem xét
về vấn đề môi trường sinh thái của một quốc gia, không thể chỉ chú ýýý đến
các điều kiện thiên nhiên, mà cịn phải đặc biệt quan tâm đến chế độ chính
trị, đến điều kiện kinh tế - xã hội và cả truyền thống văn hoá.
Đối với nước ta, khi xem xét hiện trạng và đặc điểm của môi trường
sinh thái cần phải xuất phát từ mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình tác động
qua lại của con người và tự nhiên trong điều kiện của một nước còn chậm
phát triển, nhưng lại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố hiện đại như
kỹ thuật, công nghệ kinh tế thị trường, và cả những yếu tố truyền thống văn
hoá dân tộc như quan niệm của con người về tự nhiên, về mối quan hệ của
họ với tự nhiên. Chính các quan niệm đó là một trong những nguyên nhân
quan trọng gây nên các các mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên trong quá
trình khai thác và sử dụng thiên nhiên trong điều kiện hiện nay ở nước ta.
Lãnh thổ Việt Nam kéo dài suốt sườn Đông và sườn Nam Bán đảo

Đơng Dương, chiếm một phần lớn diện tích bán đảo này và nằm ở vị trí
trung tâm Đơng Nam A. Việt nam nằm trên vịng đai địa hố Thái Bình
Dương, cho nên giàu các mỏ kim loại, đặc biệt thiếc, chì, kẽm, nhơm. Do
ảnh hưởng của kiến tạo địa chất, trên lãnh thổ Việt Nam hình thành nên
những vùng đất đỏ màu mỡ. Việt Nam là một góc của lục địa Châu A, vừa
nối tiếp với bờ Đông Dương vừa nối tiếp với bờ Nam lục địa, vị trí ấy cho
Việt Nam là nơi gặp gỡ của các loài động vật từ Trung Hoa xuống, từ Ân Độ
sang làm cho lớp động thực vật thêm phong phú. Hơn thế nữa khí hậu Việt
12


Nam lắm mưa nhiều nắng, lượng nhiệt trung bình cao lại được kết hợp với
một độ ẩm trung bình lớn tạo điều kiện thuận lợi cho việc sinh trưởng của
các loài thực vật, là điều kiện tốt để sản xuất quanh năm, bốn mùa thu hoạch.
Phần nào đó chính sự ưu đãi này của thiên nhiên đã đem đến cho người nông
dân những suy nghĩ thiển cận và một nếp làm ăn tự do tuỳ tiện, hết củi thì
vào rừng chặt cây lấy gỗ, khơng có thức ăn thì vào rừng bẻ măng, xuống
sông ra đồng bắt tôm, cá... Song khi người dân biết đưa kỹ thuật vào khai
thác thiên nhiên, thì việc hồi phục của thiên nhiên khơng cịn là dễ dàng nữa.
Kỹ thuật hiện đại cộng với nếp nghĩ, nếp làm của người nông dân đã làm
cho tài ngun thiên nhiên mau chóng bị cạn kiệt, mơi trường sinh thái bị đe
dọa nghiêm trọng.
Từ ngày đổi mới, cả nước bước vào nền kinh tế thị trường, cơ chế thị
trường đã có tác động đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Môi
trường sinh thái là một trong những lĩnh vực chịu sức ép nặng nề nhất trước
sự tấn công của kinh tế thị trường. Nếu như trước đây hơn chục năm, môi
trường sinh thái chỉ mới gánh chịu hậu quả của việc áp dụng kỹ thuật trên
cái nền sản xuất nhỏ, thì nay, cịn chịu thêm sự tác động mạnh mẽ của cơ
chế thị trường. Vì lợi nhuận, lợi ích trước mắt con người ta sẵn sàng phá trụi
đi những gì thiên nhiên có được qua hàng trăm năm thậm chí hàng ngàn

năm. Hàng bao cánh rừng già đã bị triệt phá để lấy gỗ xuất khẩu, để rồi lũ lụt
cứ liên miên khắp cả ba miền Bắc - Trung - Nam, hàng trăm loại động vật
quý hiếm vẫn bị săn bắn trái phép, người ta vẫn cứ khai thác và sử dụng một
cách bừa bãi tài nguyên, trong tình trạng tài nguyên ngày càng cạn kiệt...
Hiện trạng môi trường sinh thái ở Việt Nam vô cùng phức tạp và đa
dạng. Sự phức và đa dạng này bị quy định bởi tính phức tạp và đa dạng của
trình độ phát triển của xã hội ta hiện nay. Trong giai đoạn phát triển hiện
nay, ở Việt Nam đang đồng thời tồn tại các nền văn minh trước nông nghiệp,
13


nơng nghiệp, cơng nghiệp và thậm chí có những yếu tố của văn minh hậu
cơng nghiệp. Xét về hình thái kinh tế - xã hội, chúng ta có một kiến trúc
thượng tầng và ý thức xã hội khá phát triển, nhưng cơ sở hạ tầng và tồn tại
xã hội đang cịn ở trình độ thấp; có một chế độ chính trị ở mức tiên tiến,
nhưng điều kiện kinh tế - xã hội còn ở kém phát triển. Tất cả những điều đó
được phản ánh một cách rõ nét qua hiện trạng môi trường sinh thái và quy
định đặc điểm của nó.
Việt Nam tuy có những nét đặc thù về mơi trường sinh thái song vấn
đề sinh thái của nước ta cũng khơng nằm ngồi những vấn đề mơi trường
của thế giới, đó là sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và những
vấn đề ô nhiễm môi trường sống. Nếu như ở các nước phát triển, hậu họa
sinh thái là do sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, do sự phát triển tự phát
của nền văn minh công nghiệp, thì ở Việt nam hậu họa sinh thái lại do sự kết
hợp sự kết hợp giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh hưởng nặng nề của nếp
nghĩ, nếp làm của những người sản xuất nhỏ và lối sống cơng nghiệp cịn
chưa hồn thiện.
Nước ta có những ưu thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên và những
điều kiện địa lý tự nhiên. Song, trong hàng chục năm qua, với số tài nguyên
sẵn có, một mặt chúng ta chưa biết khai thác và sử dụng hợp lý, tiết kiệm

dẫn đến sự nghèo dần và cạn kiệt tài nguyên đó, và mặt khác cịn gây ơ
nhiễm mơi trường sinh thái.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, hơn nữa, sự phát triển của xã hội
ta hiện nay vẫn chưa vượt khỏi trình độ của nền văn minh nơng nghiệp, do
đó các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất đai, các nguồn nước,có
một giá trị đặc biệt quan trọng đối với sự sống con người, sự tồn tại và phát
triển của xã hội.

14


Rừng không chỉ là kho tài nguyên thiên nhiên phong phú, mà cịn là
kho tư liệu sống vơ giá. Rừng giữ nước, bảo vệ độ phì nhiêu, màu mỡ của
đất đai, rừng điều hồ khí hậu, tiêu thụ khí độc cacbonic sản xuất ơxy làm
trong sạch khí quyển, chống ơ nhiễm mơi trường... Việt Nam đã từng có thể
được gọi là đất nước của rừng. Tổng diện tích đất rừng nguyên thủy theo tài
liệu của WWF-1989 chiếm tới 332.116 km có nghĩa tồn bộ diện tích cả
nước đều được rừng che phủ. Rừng Việt Nam khơng chỉ nhiều mà cịn đa
dạng về chủng loại và rất phong phú về động, thực vật. Ơ nước ta có nhiều
kiểu rừng khác nhau như rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới, rừng khộp,
rừng lá kim, rừng ngập mặn, rừng tràm, rừng thường xanh, lá rộng á nhiệt
đới, v.v.. Ngày nay, rừng Việt Nam đã và đang bị phá hoại nặng nề. Chất
lượng rừng tiếp tục bị suy giảm, rừng tự nhiên đầu nguồn và rừng ngập mặn
vẫn còn bị tàn phá nghiêm trọng. Rừng giàu, rừng kín, rừng ngun sinh chỉ
cịn chiếm khoảng 13% trong khi rừng nghèo và rừng tái sinh chiếm tới 55%
tổng diện tích rừng. Các vụ cháy U Minh Thượng, U Minh Hạ và nhiều nơi
khác đã và đang làm suy giảm diện tích rừng và chất lượng rừng ở nước ta.
Nguyên nhân đưa đến thảm cảnh của rừng Việt Nam hiện nay có nhiều,
nhưng tựu trung có hai nguyên nhân chủ yếu: do chiến tranh, đặc biệt là
chiến tranh hoá học, và do lối suy nghĩ thiển cận và sự kém hiểu biết của

những người sản xuất nhỏ trong điều kiện dân số tăng nhanh, việc mở rộng
canh tác để đáp ứng nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho một dân số quá
đông lại tăng nhanh, việc duy trì lối sống du canh, du cư của một số dân tộc
ít người, cộng với việc đưa kỹ thuật hiện đại vào khai thác rừng bừa bãi,
lãng phí vì mục đích trước mắt của một số ít người là nguyên nhân quan
trọng nhất đưa đến sự tàn phá rừng ở nước ta hiện nay.
Gắn liền với rừng là tính đa dạng sinh học. Việt Nam là một trong
mười quốc gia có đa dạng sinh học thuộc loại cao nhất trên thế giới với các
15


hệ sinh thái đặc thù, nhiều giống, loài đặc hữu có giá trị khoa học và kinh tế
cao và nhiều nguồn gen quý hiếm. Một số loài động vật lần đầu tiên trên thế
giới được phát hiện ở Việt Nam như Sao la, Mang lớn, Mang Trường Sơn,
Mang Pù hoạt, Bò sừng xoắn, Cầy Tây Nguyên... Tuy nhiên, trong những
năm gần đây, đa dạng sinh học ở nước ta bị suy giảm mạnh. Nguyên nhân
chủ yếu là do cháy rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai dẫn tới làm
thu hẹp nơi cư trú của các giống loài; khai thác và đánh bắt q mức, tình
trạng bn bán trái phép động vật, thực vật quý hiếm; ô nhiễm môi trường.
Trong gần 5 thập kỷ qua, diện tích rừng ngập mặn đã giảm 80%, khoảng
96% các rạn san hô đang bị đe dọa huỷ hoại nghiêm trọng, nhiều giống loài
hoang dã đã vĩnh viễn biến mất.
Sự cạn kiệt rừng và sự suy giảm nghiêm trọng của đa dạng sinh học ở
nước ta hiện nay thực sự là vấn đề kinh tế và sinh thái nhức nhối và cấp bách
nhất. Sự mất mát nhanh chóng của rừng đã đưa đến những hậu quả hết sức
tiêu cực cho môi trường sinh thái như làm biến đổi khí hậu, gây hạn hán, lũ
lụt, bồi lắng, xói mịn đất, làm ảnh hưởng xấu đến các cơng trình kinh tế và
năng lượng, trực tiếp đe doạ cuộc sống của hàng triệu con người.
Rừng có mối quan hệ chặt chẽ với đất đai, cũng như đối với rừng,
người dân Việt Nam quan niệm “ tấc đất, tấc vàng”. Vốn đất đai nước ta

khơng phải là ít, với hơn 33 triệu ha, đất đai Việt Nam đứng thứ 12 trên thế
giới, nhưng tính bình qn đất canh tác theo đầu người thuộc vào loại thấp
nhất của thế giới, vì 3/4 diện tích đất đai là đồi núi. Ngồi hai vùng châu thổ
lớn là châu thổ sơng Hồng và châu thổ sơng Cửu Long có đất canh tác tốt,
cịn các vùng khác, chất lượng đất đai nói chung kém, thiếu các thành phần
hoá chất cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây. Sự giảm nhanh
chóng độ che phủ rừng đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đất
đai. Thoái hoá đất là xu thế phổ biến trên toàn lãnh thổ nước ta từ đồng bằng
16


đến trung du, miền núi do xói mịn, rửa trơi, mất chất hữu cơ; khơ hạn và sa
mạc hố, ngập úng, lũ; trượt, sạt lở đất; mặn hoá, phèn hoá,v.v.. Thối hóa
đất dẫn đến nhiều vùng đất bị cằn cỗi khơng cịn khả năng canh tác và làm
tăng diện tích đất bị hoang mạc hố. Diện tích đất canh tác ở nước ta ngày
càng giảm, ước tính mỗi năm ở nước ta bị mất khoảng 74.000 ha đất canh
tác. Nguyên nhân của hiện tượng trên là do sự suy giảm nhanh chóng độ che
phủ rừng, đất canh tác bị chiếm dụng vào những mục đích phi nơng nghiệp.
Đất nơng nghiệp khơng chỉ bị thu hẹp về diện tích mà cịn bị ơ nhiễm. Tệ
lạm dụng hố chất và thuốc trừ sâu trong canh tác nông nghiệp, canh tác
không đúng kỹ thuật đã và đang gây ơ nhiễm và suy thối nhiều vùng đất
trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó một số vùng đất bị nhiễm độc chất độc
da cam, điôxin do hậu quả của chiến tranh.
Việc giảm sút về mặt số lượng lẫn chất lượng đất, cũng như sự ô
nhiễm môi trường trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đang đụng chạm đến
những vấn đề quan trọng nhất của xã hội như năng suất và chất lượng sản
phẩm nông nghiệp, sức khoẻ của con người. Do đó địi hỏi chung ta cần có
những giải pháp hợp lý để giải quyết vấn đề trên.
Đất gắn liền với nước, gắn liền với sự sống. Đất, nước không chỉ là
hai nguồn tài ngun thiên nhiên vơ giá, mà cịn là hai yếu tố quan trọng bậc

nhất của sự sống. Tài nguyên nước của Việt Nam nhìn chung khá phong
phú. Việt Nam là nước có lượng mưa trung bình vào loại cao, khoảng 2000
mm/năm, gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình của vùng lục địa trên Thế giới .
Là một nước nhiệt đới ẩm gió mùa, lắm mưa, lại có một hệ thống sơng ngịi
dày đặc, vấn đề nước, lẽ ra, khơng có gì đáng lo ngại và đáng bàn. Thế
nhưng ngày nay, nước ngọt, sạch không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà
còn là vấn đề sinh thái - xã hội gay cấn. Nguồn nước ngọt, sạch hiện nay ở
nước ta rất khan hiếm, bị thu hẹp và giảm chất lượng do bị ô nhiễm bởi nước
17


thải của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, nước thải sinh hoạt không được xử
lý đã và đang thải trực tiếp ra các dịng sơng. Chất lượng nước suy giảm
mạnh, nhiều chỉ tiêu như BOD (yêu cầu ôxy cho q trình hố sinh), COD
(u cầu ơxy cho phản ứng hoá học), tổng N, tổng P cao hơn tiêu chuẩn cho
phép nhiều lần. Chất lượng nước có thể được coi như vấn đề môi trường
nghiêm trọng nhất ở các thành phố của Việt Nam. Các bệnh tật nảy sinh từ
việc sử dụng nước không bảo đảm vệ sinh, bị ô nhiễm là một trong những
nguyên nhân gây ra tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao ở trẻ em Việt Nam. Bởi
vậy, đây thật sự là một vấn đề sinh thái xã hội rất đáng lo ngại.
Bên cạnh sự thiếu hụt và giảm sút chất lượng của nước ngọt thì nước
mặn ở Việt Nam cũng đang là một vấn đề cần được quan tâm. Đó chính là
vấn đề ơ nhiễm biển ở nước ta hiện nay. Nước ven biển đã có dấu hiệu bị ơ
nhiễm. Hàm lượng các chất hữu cơ, kim loại nặng, hoá chất bảo vệ thực vật
ở một số nơi vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Hàm lượng dầu trong nước biển
có xu hướng tăng nhanh do xảy ra nhiều sự cố tràn dầu.
Cùng với việc ô nhiễm môi trường biển là sự suy giảm của hệ sinh
thái biển. Việt Nam có bờ biển dài hơn 3.200 km với nhiều hệ sinh thái rừng
ngập mặn đặc thù và đa dạng sinh học cao. Trong những năm gần qua, do
khai thác quá mức và sử dụng các biện pháp đánh bắt mang tính huỷ diệt

làm cho các nguồn lợi thuỷ sản bị suy giảm nghiêm trọng. Việc nuôi trồng
thuỷ sản ven biển tràn lan đi liền với nạn phá rừng ngập mặn đã làm suy
thoái mạnh các hệ sinh thái ven biển.Chỉ trong vòng 20 năm qua, diện tích
rừng ngập mặn ở nước ta giảm hơn một nửa. Hậu quả là lũ quét, triều cường,
sóng biển dẫn tới sạt lở ờ biển làm cho các loài sinh vật bị mất nơi cư trú và
suy giảm mạnh về chủng loại và số lượng. Phát triển công nghiệp trên bờ và
dọc các lưu vực sông lớn cũng đang làm cho bờ biển nước ta bị ơ nhiễm, có
nơi tới mức nghiêm trọng. Nhiều rạn san hô bị chết, hiện tượng thuỷ triều đỏ
18


xuất hiện ở một số nơi. Những hiện trạng nêu trên đã, đang và sẽ đe doạ tới
môi trường biển và đa dạng sinh học ven bờ.
Trong các yếu tố của mơi trường sống, khơng khí được coi là yếu tố
quan trọng nhất. Một người có thể nhịn ăn tối đa trong 50 ngày, nhịn uống
trong 5 ngày, nhưng nhịn thở không thể qua 5 phút. Thế mới thấy không khí
cần cho sự sống như thế nào. Khơng khí thì khơng thiếu nhưng để có bầu
khơng khí trong lành, phù hợp với sức khoẻ con người là vấn đề cả thế giới
quan tâm. Vấn đề ơ nhiễm khơng khí ở nước ta đã có song nhìn chung chưa
đến mức nguy hiểm, vì q trình cơng nghiệp hố đơ thị hóa chưa phát triển
mạnh. Chất lượng khơng khí nói chung vẫn cịn khá tốt, đặc biệt là ở khu
vực nơng thơn, miền núi. Hiện tượng ơ nhiễm khơng khí chủ yếu tập trung
chủ yếu ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp và các khu dân cư, mà
nguyên nhân chủ yếu là do chất thải sinh hoạt và do chất thải của các
phương tiện giao thông, vận tải. Việc gia tăng các phương tiện giao thông
đang gây ô nhiễm ở nhiều nơi. Tại một số nút giao thông lớn, nồng độ khí
CO khá cao, trực tiếp gây hại đến sức khoẻ của người tham gia giao thơng.
Bên cạnh đó, nhiều vụ cháy rừng lớn trong thời gian gần đây đã làm suy
giảm chất lượng khơng khí và gây ra một số hiện tượng tự nhiên khơng bình
thường khác.

Khi nói đến các nguồn tài nguyên chúng ta không thể không kể đến
các nguồn tài nguyên không tái tạo như các loại khoáng sản , nhiên liệu hoá
thạch, các vật liệu xây dựng... Các nguồn tài nguyên khoáng sản này ở nước
ta chỉ đa dạng chứ không giàu, trữ lượng thấp. Một số khoáng sản của chúng
ta đã bị cạn kiệt mà nguyên nhân chủ yếu không phải là phục vụ cho sản
xuất công nghiệp, mà do sự khai thác không hợp lí và sử dụng lãng phí trong
q trình chế biến. Các khoáng sản quýy hiếm như vàng, bạc, đá quý - một
tài nguyên vô giá của quốc gia, nhưng lại đang bị tư nhân khai thác một cách
19


bừa bãi, điều này đã dẫn đến việc đánh mất các tài sản quốc gia và phá hoại
vùng sinh thái tự nhiên. Hiện nay, dầu mỏ và than đá là hai nguồn ngun
liệu cịn khá phong phú, đó là nguồn tài lực quan trọng cho cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá và phát triển đất nước, nếu chúng ta biết khai thác,
sử dụng hợp lí và kịp thời. Một vấn đề lớn đặt ra trong lĩnh vực sinh thái là
phải làm thế nào ngăn chặn và làm giảm đến mức tối thiểu độ ô nhiễm cho
môi trường sinh thái trong quá trình khai thác, chế biến các loại tài ngun
khống sản này.
Một loại ơ nhiễm nữa mà chúng ta cũng cần phải quan tâm hiện nay là
vấn đề ô nhiễm mơi trường xã hội. Đó là sự lan tràn các tệ nạn xã hội như
ma túy, mại dâm, rượu chè, cờ bạc...mà hậu quả không những làm băng hoại
thuần phong mỹ tục, đạo đức và tác động tiêu cực đến cấu trúc sinh học của
con người như gây ra bệnh tật , sự biến đổi gen theo hướng tiêu cực cho các
thế hệ tiếp theo... Bởi vậy, ngăn chặn và xoá bỏ các tệ nạn xã hội là một
trong những biện pháp quan trọng hướng đến sự phát triển lâu bền của xã
hội loài người.
II. Sự tác động của gia tăng dân số và phát triển kinh tế đối với môi
trường sinh thái ở Việt Nam
II.1. Sự tác động của gia tăng dân số đối với môi trường sinh thái ở Việt

Nam.
Một trong những nguyên nhân quan trọng đưa đến ô nhiễm môi
trường là sự phát ttiển của gia tăng dân số quá nhanh so với nhịp điệu phát
triển kinh tế - xã hội. Việt Nam là một trong số các quốc gia đơng dân trên
thế giới. Tính đến năm 2001, dân số nước ta gần 79 triệu người, đứng thứ 13
trên thế giới và thứ 2 ở Đông Nam A.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 dân số nước ta chỉ có 24-25 triệu
người thì ngày nay (2001) dân số đã tăng lên 79 triệu người, nghĩa là, tăng
20


gấp 3,3 lần trong vòng 56 năm. Tỷ lệ gia tăng dân số những năm gần đây tuy
có giảm hơn so với những năm 80 trở về trước song vẫn còn cao
(2,2%/năm). Cơ cấu dân số trẻ chưa đủ tuổi lao động chiếm 39,55%, trong
độ tuổi lao động chiếm 52,83%. Như vậy, cứ 100 người lao động phải nuôi
thêm 83 người khác. Mật độ dân số cao và cơ cấu dân số trẻ đã và đang gây
một sức ép hết sức nặng nề cho nền kinh tế, và gây ra những khó khăn lớn
trong việc giải quyết các vấn đề xã hội cấp thiết như công ăn việc làm, học
hành, chăm sóc sức khoẻ...
Sự gia tăng dân số nhanh khơng chỉ liên quan chặt chẽ với vấn đề kinh
tế - xã hội, mà thực chất nó cịn là vấn đề sinh thái - xã hội gây cấn. Trong
các vấn đề môi trường sinh thái cấp thiết hiện nay ở nước ta như vấn đề mất
rừng, giảm lượng đất đai canh tác, ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước ngọt,
ô nhiễm khơng khí, ơ nhiễm mơi trường xã hội... đều có nguyên nhân từ sự
tăng dân số nhanh so với sự phát triển còn chậm chạp của điều kiện kinh tế xã hội.
II.2. Sự kết hợp giữa mục tiêu kinh tế - xã hội và mục tiêu sinh thái. Việt
Nam hướng đến phát triển bền vững.
Mục tiêu phát triển của xã hội loài người mà hiện nay nhiều nước
đang hướng tới đó là sự phồn thịnh về kinh tế, sự cơng bằng về xã hội và sự
trong sạch về môi trường sinh thái.

Nước ta tuy là một nước nông nghiệp lạc hậu, đang mới bắt đầu cơng
nghiệp hố, song tình hình mơi trường sống của chúng ta đã có nhiều vấn đề
tiêu cực khơng kém gì các nước đã có nền công nghiệp phát triển. Bởi vậy,
việc chủ động đặt vấn đề kết hợp mục tiêu kinh tế - xã hội và mục tiêu sinh
thái ngay từ bây giờ là rất cần thiết.
Mục tiêu kinh tế - xã hội theo nghĩa chung nhất là sự phát triển kinh tế
xã hội, đó là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của
21


con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng
cao chất lượng văn hoá. Phát triển là xu hướng chung của từng cá nhân và cả
lồi người trong q trình sống. Mục tiêu sinh thái là sự khai thác và sử
dụng hợp lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và không ngừng cải
thiện môi trường sống.
Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với
nhau, môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là
nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường. Tác động của hoạt động
phát triển đến mơi trường thể hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo mơi trường tự
nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho cho sự cải tạo đó, nhưng cũng có
thể gây ra ơ nhiễm mơi trường tự nhiên. Mặt khác, môi trường tự nhiên cũng
đồng thời tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thơng qua việc làm suy
thối nguồn tài ngun đang là đối tượng của hoạt động phát triển hoặc gây
ra thảm hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực. Sự
kết hợp giữa hai mục tiêu đó là sự kết hợp giữa hai xu hướng đối lập nhau về
mặt hoạt động nhưng thống nhất với nhau về mục đích trong q trình phát
triển của chỉnh thể “tự nhiên - xã hội”.
Chính sự mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển dẫn đến sự xuất
hiện các quan niệm khác nhau và các lí thuyết khác nhau về phát triển. Một
số nhà khoa học đưa ra lí thuyết đình chỉ phát triển tức là làm cho sự tăng

trưởng kinh tế bằng (0) hoặc mang giá trị (-) để bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên của trái đất. Có thể nói rằng mọi vấn đề về mơi trường đều bắt nguồn
từ phát triển, nhưng con người cũng như tất cả các mọi sinh vật khác khơng
thể đình chỉ tiến hố và ngừng phát triển của mình. Con đường để giải quyết
mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển, nhưng
giữ sao cho phát triển không tác động một cách tiêu cực tới môi trường. Do
đó, năm 1987, Uỷ ban Mơi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa
22


ra khái niệm Phát triển bền vững. Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm
thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoã
mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai.
Thực tế ở nhiều nước đã cho thấy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu
quan trọng bậc nhất của sự phát triển xã hội, song đó khơng phải là mục tiêu
duy nhất và càng không phải là tất cả. Ngày nay, con người đã nhận thức ra
cái giá phải trả cho sự tăng trưởng đơn phương đó là một mơi trường tự
nhiên đã và đang bị tàn phá, một cuộc khủng hoảng sinh thái toàn cầu đang
đe doạ sự sống của trái đất. Những gì được gọi là thành tựu trong gần 300
năm qua do khoa học va công nghệ mang lại cũng đồng thời kèm theo
những tổn thất to lớn của môi trường tự nhiên như lỗ thủng ôzôn, hiệu ứng
nhà kính, mưa axit, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, rừng, đất, sa mạc hố...
hồn tồn có thể khẳng định rằng, con người hiện đại không thể sống thiếu
khoa học và công nghệ, cũng như không thể tách rời khỏi môi trường tự
nhiên.
Những năm qua, Việt Nam đã đạt được sự phát triển khá nhanh
chóng. Xuất khẩu hàng hố khơng ngừng tăng lên, cơng cuộc xố đói giảm
nghèo cũng đạt được những thành tựu nhất định. Có thể nói Việt Nam đang
tiến vào giai đoạn phát triển mà những tác động đối với môi trường ngày
càng tăng. Trong khoảng 10-15 năm tới, số người sử dụng xe hơi sẽ tăng lên,

các khu cơng nghiệp cũng mọc lên nhanh chóng. Điều đó tạo ra một áp lực
rất lớn đối với mơi trường. Là một nước đi sau, chúng ta phải biết rút ra bài
học của những nước đi trước, đó là không thể tách rời mục tiêu bảo vệ môi
trường ra khỏi mục tiêu kinh tế. Sự kết hợp giữa mục tiêu sinh thái và mục
tiêu kinh tế là một yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển xã hội nói
chung và của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta nói riêng.

23


Chúng ta tiến hành việc này điều đó khơng chỉ vì sự sống của chúng ta hơm
nay, mà cịn vì sự tồn tại và cơ hội phát triển tiếp tục của các thế hệ mai sau.

III. Các giải pháp thực hiện chiến lược để bảo vệ môi trường
III.1. Tuyên truyền, giáo dục nâng cao ýý thức và trách nhiệm bảo vệ mơi
trường
Phát động trên tồn quốc phong trào tồn dân bảo vệ môi trường, xây
dựng xã, phường đạt chuẩn môi trường. Giải pháp này bao gồm huy động
toàn dân tham gia bảo vệ mơi trường; duy trì, phát triển phong trào, hàng
năm tổ chức kiểm tra, đánh giá và rút kinh nghiệm cho các năm sau.
Phát huy tối đa hiệu quả của các phương tiện thông tin đại chúng
trong việc nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường của tồn xã hội. Các
phương tiện thơng tin đại chúng có vai trị rất to lớn trong việc chuyển tải
thơng tin, định hướng nhận thức của toàn xã hội. Để nâng cao nhận thức về
bảo vệ môi trường, phải khai thác triệt để các lợi thế này theo hướng: tổ
chức biên soạn hệ thống chương trình phát thanh, truyền hình để phổ cập và
nâng cao hiểu biết về môi trường.
Tăng cường giáo dục môi trường trong các trường học. Việc cung cấp
đầy đủ các tri thức và xây dựng ý thức tự giác bảo vệ môi trường của các
công dân được bắt đầu ngay từ lứa tuổi học đường, đặc biệt là tại các trường

mẫu giáo, tiểu học, trung học phổ thông là một việc làm hết sức cần thiết để
nâng cao ý thức bảo vệ mơi trường, thấm sâu tình yêu đất nước, thiên nhiên
vào mỗi con người.
III.2. Tăng cường quản lý nhà nước, thể chế và pháp luật về bảo vệ môi
trường
24


Tăng cường năng lực quản lý và các điều kiện bảo đảm cho hoạt động
của hệ thống quản lý môi trường ở Trung ương, đặc biệt là phục vụ công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát về mơi trường.
Hình thành và phát triển hệ thống quản lý ýmôi trường ở địa phương
theo hướng kết hợp quản lí tài nguyên với quản lý mơi trường. Kiện tồn các
Sở Tài ngun và Môi trường.
Tăng cường pháp chế về môi trường bao gồm các nội dung hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng quy
định rõ quyền lợi, trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân,
các chế tài cụ thể cho trường hợp vi phạm; xây dựng đội ngũ quản lý , lực
lượng thanh tra, kiểm tra; triển khai các đợt kiểm tra đột xuất, định kỳ và xử
lí nghiêm các trường hợp vi phạm nhằm bảo đảm Luật bảo vệ môi trường
được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Hiệu lực thi hành pháp luật, trong đó
có pháp luật bảo vệ mơi trường ở nước ta hiện nay vẫn cịn yếu. Trong giai
đoạn tới cần nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật về bảo vệ môi trường. Một
mặt nâng cao ý thức tự giác chấp hành luật của công dân; mặt khác, tăng
cường giám sát kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với việc thi hành
pháp luật về bảo vệ mơi trường.
III.3. Giải quyết hài hồ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội và bảo vệ môi trường
Để đảm bảo quá trình phát triển bền vững, cần thiết phải xác lập sự
cân đối giữa các yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường, kết hợp Chiến lược bảo

vệ môi trường với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội một cách hài hoà ở
tất cả các cấp. Giải pháp này bao gồm việc lồng ghép nội dung bảo vệ môi
trường vào các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cấp quốc gia, ngành và
địa phương; xác lập cơ chế cung cấp tài chính dài hạn và hàng năm cho lĩnh
vực bảo vệ môi trường với quan điểm đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu
25


×