Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ và nhà nước của dân do dân vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.41 KB, 30 trang )

Trang
Trang..................................................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................................................................2

Trang 1


LỜI NÓI ĐẦU
1.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam ta đang ngày một tiến lên sánh vai cùng
các cường quốc năm châu trên thế giới, đang dần khẳng định vị thế của mình với các nước bạn về
một nền độc lập, tự do, dân chủ. Để đạt được thành quả này là cả một quá trình đấu tranh gian khổ
với những hy sinh mất mát không thể bù đắp được của bao thế hệ cha ông chúng ta. Trong lịch sử
hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, cha ông ta đã tích lũy được biết bao kinh nghiệm quý báu
về xây dựng nhà nước, được phản ánh trong các bộ sử lớn của dân tộc như “Đại việt sử ký toàn thư”,
“Lịch triều hiến chương loạn chí”… Kinh nghiệm trị nước cũng ghi lại trong các bộ luật nổi tiếng
như “Hình thư, Quốc triều hình luật, Bộ luật Hồng Đức…”. Và cũng để có và giữ được nền độc lập
dân chủ của nước nhà thì ngoài sự cống hiến, hy sinh của cả một dân tộc, trong đó có những người
con “kiệt xuất” với phẩm chất anh dũng, kiên cường, không sợ khó, sợ khổ, sẵn sàng hy sinh cho Tổ
quốc. Những yếu tố tích cực của nhà nước thân nhân thời kỳ phong kiến hưng thịnh trong lịch sử
dân tộc: “ nước lấy dân làm gốc”, “tiếp thu nho giáo” … là những hành trang đầu tiên Hồ Chí Minh
mang theo trên con đường cứu nước và tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi
giành độc lập. Người đã một mình bôn ba khắp năm châu bốn bể để tìm ra con đường mang lại độc
lập tự do cho Tổ quốc mình. Nhắc tới Người là nhắc tới một vị anh hùng dân tộc, một danh nhân văn
hoá của nhân loại, một vị lãnh tụ tài ba và đặc biệt là người cha già kính yêu của dân tộc.
1.2.


Cơ sở thực tiễn

Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc - xây bản “Yêu sách của nhân dân An
Nam” đòi các quyền tự do tối thiểu cho dân tộc mình. Đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đặt vấn đề
kết hợp khăng khít quyền tự quyết của các dân tộc với các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, kết
hợp chặt chẽ quyền dân tộc và quyền con người. Trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã khảo sát
mô hình Nhà nước tư sản Mỹ, Pháp. Người phát hiện ra đằng sau những lời hoa mỹ về “quyền bình
đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” của tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ, đó
là sự bất bình đẳng, nghèo đói, nạn phân biệt chủng tộc và biết bao tàn bạo, bất công khác. Người
coi đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi” vì ở đó chính quyền vẫn ở trong tay một số ít
người. Sau khi đến Liên Xô, Người đã tìm thấy mô hình nhà nước kiểu mới: “… phát ruộng cho dân
cày, giao công xưởng cho thợ thuyền,… ra sức tổ chức kinh tế mới, để thực hành chủ nghĩa thế giới
đại đồng” đã gợi ý cho Người về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt Nam trong tương lai
mà Người đã nêu ra trong Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930. Từ mô hình nhà nước công
nông binh chuyển sang mô hình nhà nước đại biểu cho khối đại đoàn kết của toàn thể quốc dân là
một bước chuyển sáng suốt của Hồ Chí Minh, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc, phù
hợp với sự chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Trang 2


Trong suốt tiến trình Cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn khẳng định trong tư duy chính trị Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Cách mạng
chỉ có thể giành thắng lợi nếu được quần chúng nhân dân tham gia. Khi đất nước độc lập và trở
thành nước dân chủ thì lợi ích thuộc về nhân dân. Quyền hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân.
Sức mạnh của chính quyền là sức mạnh của nhân dân. Khi nhân dân yêu mến chính quyền
mình, hy sinh chiến đấu bảo vệ chính quyền thì chính quyền ấy mới mạnh. Nhận thức được vị trí, vai
trò của sức mạnh quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách
nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến

Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại,
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Đó là tư tưởng về sức mạnh của của nhân dân, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà
nước thật sự của dân, do dân, vì dân dựa trên nền tảng là tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây
dựng Nhà nước ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng hiện nay.
2.

Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng vấn đề dân chủ, thấy được tầm quan trọng
của nó trong đời sống xã hội và coi dân chủ là mục đích chính trị trực tiếp của cách mạng. Đời sống
xã hội cần đến dân chủ trong mọi lĩnh vực hoạt động của nó, trước hết là trong chính trị và kinh tế.
Đây là hai bộ phận quan trọng của hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của kinh tế tùy thuộc vào
nhiều nhân tố, trong đó không thể thiếu vai trò của dân chủ đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh,
mà hạt nhân là lợi ích của các chủ thể kinh tế. Cũng như vậy, dân chủ trong chính trị nhằm thúc đẩy
chính trị phát triển. Chính trị là những hoạt động liên quan đến lợi ích của các giai cấp, đảng phái,
dân tộc, quốc gia, mà vấn đề quan trọng nhất của nó là tổ chức chính quyền Nhà nước. Cho nên,
thiếu dân chủ trong chính trị tất sẽ dẫn đến chính trị độc tài, chuyên quyền, sẽ đi ngược lại xu thế
phát triển của thời đại. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ được kiến giải một cách
giản dị, dễ hiểu. Người không định nghĩa dân chủ theo kiểu hàn lâm, bác học nhưng lại phản ánh
được chiều sâu giá trị lý luận của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt giản dị định nghĩa khái niệm
dân chủ: “Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ”. Đây được xem là một định nghĩa kinh điển về dân
chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh - một định nghĩa ngắn gọn, nhưng lại bao quát đầy đủ nhất, sâu sắc
nhất bản chất của dân chủ. Định nghĩa này đã nhấn mạnh chủ thể chân chính của chế độ mới là nhân
dân. Họ trở thành người chủ của đất nước. Dân là chủ đã khẳng định rõ ràng địa vị người chủ trong
chế độ chính trị, trong xã hội và Nhà nước thuộc về người dân. Dân là chủ đối lập với nô lệ, thần dân
hay thảo dân trong chế độ phong kiến cũng như thân phận nô lệ trong tình cảnh bị bọn thực dân
thống trị.
Trong chế độ nhân dân làm chủ, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện chủ yếu bằng nhà
nước. Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn xã hội cũng chủ yếu bằng Nhà
nước và thông qua Nhà nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thật sự

của dân, do dân, vì dân, trong sạch, vững mạnh, quản lý có hiệu lực, hiệu quả cao mọi lĩnh vực kinh

Trang 3


tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại của đất nước luôn là mối quan tâm, là nhiệm vụ
hàng đầu của Ðảng và nhân dân ta.
Việt Nam đã lựa chọn cho mình con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã có quan điểm rõ ràng và đúng đắn về nhà nước
xã hội chủ nghĩa đó là: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Từ khi đổi mới đất nước, Đảng ta lại
càng chú trọng vận dụng, phát triển, cụ thể hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân. Do vậy, sự
quản lý của nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội lại càng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự
phát triển và bộ mặt của đất nước. Vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước là một vấn đề hết sức hệ
trọng; luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú ý và đưa ra trong các kỳ Đại hội Đảng. Mặc dù
nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của đất nước,
nhưng không phải không có những hạn chế. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu để tìm
ra những mặt tích cực cũng như hạn chế nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước, khi bộ máy nhà nước
được hoàn thiện thì việc phát triển mọi mặt của đời sống xã hội mới được cải thiện, phát triển bền
vững và tốt đẹp hơn
3.
Phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, nhóm chúng tôi đã nghiên cứu dựa trên những tài liệu như Giáo trình chủ nghĩa Mác –
Lênin, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tài liệu trên các báo điện tử
và nguồn internet như tapchicongsan.org.vn, dangcongsan.vn…
4.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và
bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh. Áp dụng kiến thức từ các
phép biện chứng của triết học để phân tích thực tế. Áp dụng các cặp phạm trù của triết học như:

nguyên nhân - kết quả, cái chung - cái riêng, tất nhiên - ngẫu nhiên để phân tích đề tài. Vận dụng sự
hiểu biết cá nhân và tham khảo thêm các tài liệu.
5.
Kết quả thực hiện đề tài
Làm rõ vấn đề lý luận Quản lý Nhà nước đối với công tác đào tạo phát triển nguồn nhân
lực. Xây dựng chế độ chính trị ổn định do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nền kinh tế phát triển
theo hướng XHCN, an ninh, quốc phòng mạnh mẽ và bền vững. Khẳng định quyết tâm chính trị của
Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng
cường pháp chế mà còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà
nước kiểu mới - một Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp
luật, đảm bảo cho nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững
chắc vào đời sống quốc tế. Góp phần củng cố bộ máy nhà nước,thống nhất quyền lực nhà nước. Xây
dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực và hiệu quả, đủ khả năng tổ chức và quản lí các quá trình
kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự an toàn cho sự phát triển đất nước, đồng thời đảm bảo khả năng
kiểm soát quyền lực và việc thực thi quyền lực nhà nước trên thực tế từ phía nhân dân và toàn thể xã
hội. Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà
nước. Xây dựng các khuôn khổ pháp lí cho tự do và dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội mà đặc biệt là lĩnh vực tự do dân chủ trong kinh tế và bảo vệ quyền con người. Xây dụng một
cơ chế pháp lí vững chắc cho việc thực hiện dân chủ trực tiếp của công dân.
Trang 4


Qua thời gian học tập, nghiên cứu, tìm tòi trên sách vở, báo chí, đặc biệt là sự chỉ dạy tận tình
của Giảng viên giúp chúng ta tiếp cận với hệ thống tư tưởng của Người, cho chúng ta hiểu được
tầm quan trọng của hệ thống tư tưởng này trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Hơn nữa
đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là độc lập, tự do, dân chủ, và thế nào là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Chính vì tầm quan trọng này và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi cũng như chia sẻ
những hiểu biết nhỏ bé của mình mà nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Để hiểu rõ hơn về đề tài, kính mời

Cô và các bạn cùng đi vào phần nội dung chi tiết.

Trang 5


1.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ

Dân chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Dân chủ trong xã hội
Việt nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…Trong đó dân chủ
thể hiện trong lĩnh vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong
hoạt động của Nhà nước bởi vì quyền lực của nhân dân được thể hiện trong hoạt động của Nhà nước
với tư cách nhân dân có quyền lực tối cao. Hồ Chí Minh khẳng định cả trên quan điểm cả trên thực
tế việc – khi có Nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhân dân cử ra, tổ chức
nên bộ máy Nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị.
Quan niệm dân chủ, theo Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở phương thức xã hội. Khẳng định một
chế độ dân chủ ở nước ta là “bao nhiêu lợi ích cũng vì dân”, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân” , đồng thời người cũng chỉ ra phương thức tổ chức, hoạt động của xã hội nước ta muốn khẳng
định là một nước dân chủ thì phải có cấu tạo quyền lực xã hội mà người dân, cả trực tiếp, cả gián
tiếp qua dân chủ đại diện, một hệ thống chính trị do “dân cử ra” và “do dân tổ chức nên”. Để hiểu rõ
về vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực trên, chúng ta cùng tìm hiểu nội dung chi tiết.
1.1.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.
Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân.
Dân chủ là khát vọng muôn đời của con người, là chìa khóa bằng vàng đề giải quyết những vấn
đề của đời sống xã hội “ở đâu có dân chủ thì ở đó có thắng lợi”. Hồ Chí Minh quan niệm dân
chủ có nghĩa là “dân là chủ” và “dân làm chủ”.
Dân chủ là cơ sở đảm bảo quyền làm chủ, các quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động : dân

chủ thể hiện ở việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân…
- Dân là chủ và dân làm chủ
+ Quan niệm của Hồ Chí Minh được thể hiện qua hai mệnh đề ngắn gọn có nghĩa là “Dân
là chủ” và “Dân làm chủ” – thể hiện vị thế, vai trò, quyền và trách nhiệm của dân
+ Quyền lực tối thượng trong cấu tạo quyền lực của Nhà nước là của nhân dân
+ Quyền hành và lực lượng là nơi dân
+ Dân lập ra Đảng, chính quyền
- Cơ chế đảm bảo quyền dân chủ : Tất cả vì lợi ích của nhân dân
+ Các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể phải phục vụ nhân dân
+ Cán bộ, đảng viên, chính quyền làm công bộc cho dân
+ Nhân dân phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
1.2. Dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
1.2.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Trong thời đại của chúng ta, con người là một tài nguyên, thậm chí là loại tài nguyên đặc
biệt. Chính vì thể có thể nói các nước đang phát triển với lợi thế về nguồn nhân lực là những dân tộc
có ưu thế. Nếu không phát huy được năng lực của loại tài nguyên đặc biệt này thì các nước thứ ba
không những không phát triển mà thậm chí không tồn tại được. Tuy nhiên, cũng đã đến lúc các nước
này phải nhận ra rằng sự đông dân, đồng thời là một con dao hai lưỡi. Không có một chế độ lãnh đạo
hợp lí thì sự đông dân là một gánh nặng. Nước CHND Trung Hoa là một ví dụ. Hơn một tỷ nhân dân
Trang 6


Trung Quốc đã từng là gánh nặng của Nhà nước và đến nay vẫn thế: nhưng sau 20 năm đổi mới thì
sự đông dân ấy đang trở thành một lợi thế. Chế độ chính trị giữ một vai trò cực kì quan trọng trong
việc giải quyết bài toán nhân lực này.Việt nam cũng vậy. Do đó, nếu không xây dựng chế độ dân chủ
để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con người tham gia một cách hiệu quả vào quá trình
cạnh tranh toàn cầu thì không thể phát triển được.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta phải trở thành thị trường vì chỉ có như vậy mới có thể phát
triển và làm tăng cả năng lực lẫn thu nhập của con người. Thu nhập không tăng lên thì sức mua của

cộng đồng không tăng và sức mua không tăng thì chúng ta sẽ không có thị trường nào khác ngoài thì
trường lao động đơn giản. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ
thuật,những ngành sản xuất đòi hỏi lao động giản đơn ít đi và thị trường lao động đơn giản sẽ mất
dần giá trị. Muốn nâng cao chất lượng của thị trường lao động thì phải đầu tư vào giáo dục - đào tạo.
Mặt khác, không thể tiếp tục vay mượn hay sử dụng những nguồn đầu tư nước ngoài để phát triển
những nguồn nội lực. Những nhà nước phi dân chủ không thể trốn tránh quá trình dân chủ hóa xã
hội. Người ta vẫn tưởng rằng, nhân dân đang ủng hộ nhà nước bằng lao động của mình, nhưng đến
một lúc nào đó các nhà nước phi dân chủ sẽ phải đối mặt với những cuộc cách mạng hay sự cướp
bóc dưới hình thức cách mạng. Những năm cuối thế kỉ XX, chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của
các chế độ độc tài như: Mohamed Suharto, Joshep Estrada, Seddam Hussein,..Rõ ràng những
phương pháp chuyên chính có thể kéo dài tuổi thọ các thể chế chính trị độc tài nhưng không thể nào
giúp nó tránh khỏi sự sụp đổ.
1.2.2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội– ngư diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm việc làm mới cho người lao động, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ
đối với Nhà nước; xây dựng nông thôn giàu đẹp,văn minh.
Thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,nông thôn, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp, quản lí và sử dụng đất hơp lí, tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, áp
dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên 1 đơn vị diện tích; thực
hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng (điện,đường, trường, trạm,..) theo phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm; quản lí và sử dụng tốt các nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng góp và các nguồn
vốn khác; phát triền sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính
sách xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
1.2.3.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hóa – xã hội
1.2.3.1.
Về văn hóa
Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hóa, nhằm nâng cao đời sống văn hóa vui tươi, lành
mạnh và trình độ văn hóa của nhân dân để phục vụ nhiệm vụ củng cố miền Bắc và đấu tranh thống

nhất nước nhà. Tăng cường công tác xuất bản, chú trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh
Việt nam; phát triển vững chắc và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ và văn hóa của quần
chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục, thể thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của
nền văn học, nghệ thuât; đào tạo, bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới, chú trọng khai thác hơn nữa
vốn cũ văn hóa dân tộc và tăng cường trao đổi văn hóa với các nước, học tập kinh nghiệm các nước
tiên tiến.
1.2.3.2.
Về giáo dục
Trang 7


Tiếp tục đẩy mạnh phong trào xóa nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng dạy văn hóa cho các cán
bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các cơ quan, xí nghiệp, quân đội.
Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tùy theo khả năng và nâng cao chất lượng cấp
2 và cấp 3, chú ý đào tạo bồi dưỡng giáo viên, tăng cường số lượng và chất lượng các sách giáo
khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo
dục miền núi, xúc tiến việc nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, có kế hoạch hướng dẫn
các lớp vỡ lòng.
Đối với đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển từng bước.
Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin, ra sức đào tạo và bồi dưỡng
giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình. Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến
việc bổ túc văn hóa cho cán bộ công nông để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp.
1.2.3.3.
Về tôn giáo
Chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên quan điểm cơ
bản của học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín ngưỡng, tôn giáo và căn cứ vào đặc
điểm tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt
Nam là tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc.
Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt nam, Đảng ta luôn có quan điểm, thái độ rõ ràng về
tín ngưỡng tôn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng năm
1991 đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và
Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình
đẳng, đoàn kết lương giáo và các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối
xử với đồng bào theo đạo. Chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập dân tộc và đoàn
kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân”. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ : “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu
cầu của một bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và
nhân dân.
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng Đảng coi quyền tự
do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một trong những quyền công dân, quyền
chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào
theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền
không theo bất kì tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được “phần hồn thong
dong, phần xác ấm no”.
1.3. Thực hành dân chủ
Ngay từ năm 1941, trong Chương trình của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt
Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế” một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng
do nhân dân thực hiện thắng lợi.
Đó là chương trình thực hiện mục tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm cùa nhân dân trước
vận mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng người dân.
Trang 8


1.3.1.
Xây dựng và hoàn thiện chế độ dân chủ rộng rãi:
Chương trình của Việt Minh đã khơi dậy sức mạnh vô biên của nhân dân giành
chính quyền về tay mình.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một tuyên bố về chế độ dân chủ ở Việt
Nam đã được Hồ Chí Minh nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ngày 2-9, trong đó các giá trị về dân chủ được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh
phúc.
Dân chủ ở nước Việt Nam mới được thể hiện và được bảo đảm trong đạo luật cơ bản nhất là
các bản Hiến pháp do Hồ Chí Minh chủ trì xây dựng và được Quốc hội thông qua.
Năm 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thể hiện rõ nhất và
thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh:
• Hiến pháp năm 1946 đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
• Năm 1959, Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định quan điểm bảo đảm dân chủ trong việc xác
lập quyền lực của nhân dân trong Hiến pháp.
• Cơ chế thực hiện quyền lực của nhân dân trong bản Hiến pháp năm 1959 được phát triển.
Điều đó thể hiện rõ ở các điều về quyền lực của nhân dân (điều 4); vấn đề đại biểu nhân dân trong
Quốc hội và Hội đồng nhân dân (điều 5) và đặc biệt ở Điều 6 ghi rõ: “Tất cả các cơ quan nhà nước
điều phải dựa vào nhân dân. Tất cả các nhân viên cơ quan nhà nước điều phải dựa vào nhân dân, liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Tất cả các nhân viên
nhà nước đều phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân”.
• Hồ Chí Minh chú trọng bảo đảm quyền lực của các giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc
trong thể chế chính trị nước ta.
• Đối với giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh khẳng định rằng, công nhân có quyền thực sự trong
xí nghiệp, và từ làm chủ về tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ trong việc quản lý, làm chủ trong
việc phân phối sản phẩm lao động.
• Đối với nông dân, Hồ Chí Minh cho rằng, bao giờ ở nông thôn nông dân thật sự nắm chính
quyền, nông dân được giải phóng thì mới có dân chủ thực sự.
• Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò của tầng lớp trí thức trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt
Nam và cho rằng, lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc.
• Người đặc biệt quan tâm vấn đề giải phóng phụ nữ để phụ nữ bình đẳng nam giới, thực sự
tham gia tích cực vào các công việc xã hội.
• Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi khác của nhân dân.

Người cũng đề cao vai trò làm chủ đất nước của thanh, thiếu niên.
Đối với một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc bảo đảm quyền làm
chủ của tất cả nhân dân các dân tộc và cho rằng, phải làm cho các dân tộc làm chủ đất nước, mau
chóng phát triển kinh tế, văn hóa, thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.
1.3.2.
Xây dựng các tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội
vững mạnh để bảo đảm dân chủ trong xã hội
Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chú trọng tới việc xây dựng
Đảng:
+ Với tư cách là Đảng cầm quyền.
+ Đảng lãnh đạo của Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội.
+ Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trang 9


+ Xây dựng Mặt trận với vai trò là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức
chính trị tự nguyện của tất cả các tổ chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung cho sự phát triển của
đất nước.
Có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới đảm bảo được dân chủ của toàn xã hội.
Đó là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh.
Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc
và của nhân dân.
Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội và là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất
dân chủ của xã hội.
Dân chủ trong Đảng, do đó, trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
Nhà nước thể hiện chức năng quản lý xã hội của mình qua việc bảo đảm thực thi ý chí của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động đối với sự phát triển của đất nước.
Nhà nước thể chế hóa toàn bộ bản chất dân chủ của chế độ.
• Các tổ chức Mặt trận và đoàn thể nhân dân thể hiện quyền làm chủ và tham gia quản lý xã
hội của tất cả các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.

• Tất cả các tổ chức đó điều có một mục tiêu chung là đạt tới trình độ dân chủ cao, dân chủ xã
hội chủ nghĩa.
• Đó cũng là động lực cơ bản nhất để các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam phấn đấu
trong sự nghiệp cách mạng.
• Thực hành dân chủ rộng rãi, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là trên nền tảng của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh công – nông – trí thức.
2. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN.
2.1. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước thể hiện quyền làm chủ của dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của
chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn “Đường Kách
Mệnh”, Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm xong
kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều
của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Tư tưởng về xây dựng một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của Bác Hồ được
hình thành rất sớm. Nhà nước của dân, do dân và vì dân được xây dựng trên cơ sở của một hiến
pháp, một hệ thống pháp luật. Nhà nước ấy quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức. Bản
thân nhà nước, các bộ phận cấu thành nhà nước, công chức và cán bộ của nhà nước cũng được hình
thành và hành động theo pháp luật và đạo đức.
Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh không
phải là nhà nước chung chung phi giai cấp. Bởi vì, đã là nhà nước, bao giờ nhà nước cũng mang bản
chất của một giai cấp nhất định. Cho nên Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam do nhân dân Việt
Nam không phân biệt trai gái, giàu nghèo, tôn giáo, đảng phái, dân tộc xây dựng nên, theo cơ chế đại
biểu, đại diện, rồi từ đó cử ra các cơ quan, hình thành bộ máy nhà nước. Nhà nước dân chủ nhân dân
được xây dựng trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,
Trang 10



dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của giai cấp công nhân và của toàn thể dân tộc
Việt Nam.
Nói nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ đất nước, làm chủ xã hội không phải là làm
chủ tự do vô kỷ luật, không phải nói làm chủ là ai muốn làm gì thì làm, làm chủ đất nước, làm chủ
xã hội là làm chủ bằng nhà nước, có trật tự, có kỷ cương, có tổ chức, có pháp luật bảo đảm và bảo
vệ. Cho nên, thực hiện quyền làm chủ của mình, nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, tham gia cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội- Nghị viện nhân dân và Hội đồng nhân dân địa
phương.
Ngay từ 1941, khi mới về nước, thành lập thí điểm Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh
Hội, Bác Hồ đã có chủ trương: “Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới, không phải thuộc
quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung, của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai của đế quốc
Pháp Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều
được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền
ấy”.
Với nhãn quan chính trị cực kỳ sắc bén, khi thời cơ đến, chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Bác Hồ
tính đến việc thành lập Chính phủ lâm thời bằng một Quốc dân Đại hội ở Tân Trào. Tức là, xét trên
bình diện chính trị và thông lệ quốc tế, Chính phủ lâm thời không phải do một giai cấp, một đảng
phái nào lập ra mà do nhân dân đại hội lập ra. Chính phủ ấy, ngay từ khi mới ra đời đã ít nhiều bảo
đảm và mang tính pháp lý.
Ngay sau ngày “Tuyên ngôn độc lập” 2-9-1945, ngày 3-9 Bác chủ trì phiên họp Chính phủ để
giải quyết hàng loạt những khó khăn cực kỳ phức tạp được ví như “ngàn cân treo sợi tóc”. Nhưng
trong hàng loạt những công việc phải giải quyết ấy, có một nội dung mà Bác đặc biệt quan tâm là
hoàn thiện về mặt pháp lý theo thông lệ quốc tế về sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa bằng phương thức tiến hành Tổng tuyển cử và cử ra Ủy ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ mới.

(Bản Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946)

Chính việc tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Nghị viện nhân dân Quốc hội khoá I và việc thông

qua bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc ta thể hiện ý chí của toàn dân tộc là một hoạt động chính trị
bảo đảm về mặt quốc tế của Nhà nước ta. Các nước khác lúc đó tuy không công nhận Nhà nước ta
do các lý do khác nhau, nhưng không nước nào bác bỏ được địa vị pháp lý đầy đủ của Nhà nước Dân
chủ nhân dân Việt Nam đầu tiên 1946.

Trang 11


Nhà nước Dân chủ nhân dân Việt Nam ra đời là thành quả của cả dân tộc ta trong quá trình
kháng chiến chống ngoại xâm dựng nước và giữ nước, đặc biệt là sự chiến đấu hy sinh anh dũng của
đồng bào, cán bộ đảng viên, Đảng ta từ khi Đảng ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân
dân ta.
Nhân ngày Tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Bác
đã chỉ rõ: “Các nhà nước trước đây do giai cấp thống trị đặt ra để thống trị nhân dân, còn Nhà nước
ta hôm nay do nhân dân ta lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu, thay mặt mình tham gia cơ quan
quyền lực nhà nước, quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh, những vấn đề đối nội và đối ngoại
của đất nước, quyết định tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý
đất nước và quản lý xã hội, giữ quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà
nước.
Việc xây dựng nhà nước do đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ, là quyền lợi của mỗi người dân Việt
Nam. Ngày mai là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày
mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân ta bắt đầu hưởng dựng quyền dân chủ của
mình… Ngày mai, mỗi người đều nên vui vẻ hưởng quyền lợi của một người dân độc lập, tự do”.
Một Nhà nước theo tư tưởng của Bác Hồ kính yêu được xây dựng trên đất nước ta là Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân., cụ thể là:
2.1.1.1.

Nhà nước của dân

Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và trong xã hội

đều thuộc về nhân dân.
Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: “Nước Việt Nam là một
nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Trang 12


Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc.
Điều 32 (Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân
dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở
nước ta.
Hoặc khi dân bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho họ bàn và quyết định những vấn đề quốc kế
dân sinh, thì nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm
những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật.
Đồng thời, là người chủ cũng phải thể hiện năng lực, trách nhiệm làm chủ của mình.
Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người
dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân; phải làm
đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế”
với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.
2.1.1.2. Nhà nước do dân
Xây dựng một nhà nước do dân theo Bác, nhà nước đó do nhân dân xây dựng nên. Nhân dân
bầu ra Nghị viện nhân dân (Quốc hội) - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất và Hội đồng nhân dân
- cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Từ cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất quyết định tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước do dân bãi miễn nếu không đáp ứng những yêu
cầu và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Nhà nước do dân được tổ chức theo phương thức đại
diện, đại biểu nhân dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra và có thể bãi miễn nếu người được bầu không
còn xứng đáng.Nhà nước do dân còn được tổ chức theo phương thức, nhân dân có quyền tham gia ý

kiến, tham gia quản lý Nhà nước và quản lý xã hội.
Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người nói: “Nếu chính phủ làm
hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”, nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và
nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người
có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách
nhiệm, nghĩa vụ.
2.1.1.3. Nhà nước vì dân
Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền
đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống
đều là công bộc của dân.
Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy
con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm thoả mãn những nhu
cầu thiết yếu của nhân dân, mà trước hết là:
“Làm cho dân có ăn
Làm cho dân có mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Trang 13


Làm cho dân có học hành”
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước là
công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà
nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì chính phủ
không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ
của nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính...; là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ
hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có
đức vừa có tài, vừa hiền lại vừa minh. Bác đã dạy rằng: “Phải xây dựng một nền chính trị liêm khiết,

kiên quyết đấu tranh với 3 thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu”
Hồ Chí Minh là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Người tâm sự: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi
non, hoặc vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn
kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi ghánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục
cố gắng - cũng vì mục đích đó”.
Xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân là một quá trình gắn liền với việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật và tăng cường pháp chế, gắn liền với quá trình nâng cao dân trí và dân chủ, gắn
liền với việc xây dựng đội ngũ công chức và bộ máy nhà nước, cho nên không phải xây dựng nhà
nước là có ngay một nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân.
Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thật sự là một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính dân tộc và hiện đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Một nhà nước pháp
quyền và đạo đức: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/Công việc đổi
mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/Chính
quyền từ xã, đến Chính phủ, Trung ương do dân cử ra/Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên/Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (4).
Hướng tới nhân dân là định hướng hành động suốt cuộc đời Bác. Xây dựng một Nhà nước vì
nhân dân phục vụ là một trong những tư tưởng chính trị đạo đức lớn của Người.
2.1.2.

Xây dựng Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Xây dựng Nhà nước, thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là trọng tâm quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở nước ta.Thực
hiện tốt mục tiêu ấy, có nhiều việc phải làm, song chúng ta cần tập trung vào một số vấn đề lớn sau.
2.1.2.1. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về Nhà nước
Đảng ta xác định Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nhà nước bảo đảm việc thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân.
Nhân dân là chủ thể nhà nước; nhà nước là công cụ thông qua hệ thống tổ chức, bộ máy luật pháp
thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Nhân dân ủy quyền cho các bộ máy, công chức nhà nước thực thi quyền làm chủ, bảo vệ lợi
ích của mình. Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dựa trên khối
Trang 14


liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà
nước xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên mục đích chung của các giai cấp, các tầng
lớp, các dân tộc, các tôn giáo…vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
Nhà nước ta được tổ chức và quản lý bằng pháp luật. Mọi hoạt động của nhà nước phải tuân
thủ theo pháp luật như Bác Hồ từng chỉ rõ “trăm điều phải lấy thần linh pháp quyền”. Nhà nước ta
không phải chỉ gắn với nhân dân mà mọi chính sách do nhà nước đề ra đều phục vụ lợi ích của nhân
dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Nhà nước có cơ chế, chính sách phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động nhân dân
kiểm tra, giám sát các hoạt động có thể nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, lộng quyền của các tổ chức, bộ máy, công chức nhà nước.
Bảo đảm nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ; bảo đảm quyền lực là thống
nhất, có sự phân công hoạt động các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp.
2.1.2.2.

Nhận thức rõ bản chất của dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân

Bác Hồ và Đảng ta luôn xác định dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân; nhân dân là chủ và
nhân dân làm chủ đất nước. Thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là “chìa khóa
vạn năng” để giải quyết mọi công việc. Vì thế thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Bác Hồ xác định dân là gốc; trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ hoặc chế độ nước ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân
là người chủ. Bác xác định, Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để
gánh vác chung cho dân.

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta xác định thực hiện dân chủ, phát huy quyến làm
chủ của nhân dân là mục tiêu và động lực của cách mạng. Chỉ có thực hiện dân chủ thực sự mới bình
đẳng, mới đoàn kết, mới phát huy sức mạnh của mọi tấng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước bền vững.
2.1.2.3.

Xây dựng đổi mới quan hệ giữa Nhà nước và thực hành dân chủ

Theo đó, mọi tổ chức, hoạt động của Nhà nước luôn bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp và gián
tiếp của nhân dân. Nhà nước có cơ chế, chính sách khơi dậy, phát huy mọi tiềm năng, trí tuệ của
nhân dân.
Cán bộ, công chức nhà nước thật sự gương mẫu, tận tụy phục vụ nhân dân, thật sự trong sạch
về đạo đức, lối sống, không sách nhiễu dân, không cửa quyền với nhân dân để nhân dân thật sự tin
tưởng yên tâm trao gửi quyền lực của mình.
Nhà nước thực sự công khai minh bạch về những chủ trương, chính sách, cơ chế, thiết chế, các
nguyên tắc lề lối, phương thức hoạt động; về chức năng, nhiệm vụ các tổ chức, cá nhân công chức
các cấp để nhân dân thuận tiện công việc và kiểm tra, giám sát thực hiện quyền làm chủ của mình.
Trang 15


Để thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Nhà nước phải nhận thức đúng,
đầy đủ về quyền làm chủ của nhân dân. Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật , cơ chế thực thi
dân chủ; tạo lập các yếu tố, các tiền đề kinh tế - xã hội thực thi dân chủ. Nhà nước có biện pháp nâng
cao dân trí, phát triển văn hóa dân chủ, cung cấp thông tin, định hướng phát triển đất nước. Xây
dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, xã hội hóa các giá trị, năng lực của tập thể, cá nhân.
Định rõ nội dung, hình thức, biện pháp, bước đi… trong thực hiện dân chủ.
Tóm lại, Nhà nước tiếp tục cải cách hành chính; tập trung, dân chủ trong tổ chức, vận hành nhà
nước; nâng cao hiệu quả lập pháp, hành pháp; có cơ chế công khai, minh bạch để dân kiểm tra, giám
sát; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức trong điều kiện kinh tế thị trường bảo đảm thực
hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách thực chất, thực sự có hiệu quả.

2.2.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân và tính dân tộc của Nhà Nước.
2.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà Nước
Khái niệm Nhà Nước: Nhà nước là 1 tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt kinh tế; được lập
ra nhằm bảo vệ, củng cố, duy trì địa vị của giai cấp thống trị và tiến hành đàn áp các giai cấp khác.
Qua định nghĩa này cho chúng ta thấy Nhà nước có các tính chất sau:
• Nhà nước luôn luôn mang bản chất của giai cấp thống trị.
• Nhà nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
• Nhà nước là 1 phạm trù lịch sử, ra đời và tồn tại trong những điều kiện nhất định của lịch sử.
Như vậy, ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ tất yếu còn tồn tại Nhà nước, nhưng điều cơ bản để phân
định bản chất của Nhà nước chính là Nhà nước đó mang bản chất của giai cấp nào và phục vụ lợi ích
cho ai.
Nhà nước ở thời kỳ quá độ mang bản chất của giai cấp công nhân. Khi khẳng định bản chất
giai cấp công nhân của Nhà nước, điều này có nghĩa là ở Việt Nam cũng như theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, Nhà nước đó không phải là Nhà nước phi giai cấp hay là Nhà nước đứng trên mọi giai
cấp, mà bản chất của Nhà nước đó luôn luôn mang bản chất của 1 giai cấp nhất định, đó là giai cấp
công nhân.
Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của tất cả các giai cấp, giai tầng trong xã
hội Việt Nam, mục đích của giai cấp công nhân không ngoài mục đích vì lợi ích của tất cả dân tộc.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Khi nói Nhà nước của dân, do dân, vì dân; điều này có nghĩa là Nhà nước bên cạnh chức năng
giai cấp, nó còn thực hiện chức năng “dân chủ” – nghĩa là nó chia sẻ quyền lực ở trong bộ máy Nhà
nước cho đại đa số nhân dân lao động.
Vậy thì, bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước được thể hiện qua những khía cạnh nào?
1). Nhà nước do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua chính Đảng tiên phong của nó - Đảng
Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN).
Trang 16



• Đảng CSVN lãnh đạo Nhà nước giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân. Việc xác định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước là 1 vấn đề rất cơ bản của Hiến
pháp 1959: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công
nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Trong quan điểm cơ bản xây dựng 1 Nhà nước do nhân
dân lao động làm chủ, 1 Nhà nước thể hiện tính chất nhân dân rộng rãi, Hồ Chí Minh vẫn nhấn
mạnh nòng cốt của nhân dân là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và trí
thức do giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là ĐCSVN lãnh đạo.


Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng phương thức thích hợp. Nói đến phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với Nhà nước là nói đến cách lãnh đạo cho phù hợp với từng thời kỳ. Những
vấn đề cơ bản về phương thức lãnh đạo của Đảng chung cho các thời kỳ:
• Đảng lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, chủ trương để Nhà Nước thể chế hóa
thành pháp luật, chính sách, kế hoạch.


Đảng lãnh đạo Nhà Nước bằng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên của

mình trong bộ máy, cơ quan Nhà Nước.


Đảng lãnh đạo Nhà Nước bằng công tác kiểm tra

2). Mục tiêu định hướng đưa cả nước quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội: thể hiện trong quan
điểm của Hồ Chí Minh ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời.
3). Nhà Nước đó xây dựng hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ: Hồ Chí Minh rất chú
ý đến tính dân chủ trong tổ chức và hoạt động của tất cả bộ máy, cơ quan Nhà Nước, nhấn mạnh
đến việc phát huy cao độ dân chủ, đồng thời phát huy cao độ tập trung, Nhà Nước phải tập trung
thống nhất quyền lực để tất cả mọi quyền lực vào tay nhân dân.

Kết luận: Trên cơ sở phân tích cho chúng ta thấy bản chất của Nhà Nước ở Việt Nam trong thời kỳ
quá độ chính là mang bản chất của giai cấp công nhân đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN nhằm thực
thi quyền làm chủ của nhân dân.
2.2.2. Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà Nước
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn đề giai cấp – dân tộc
trong xây dựng Nhà Nước VN mới. Người đã giải quyết hài hòa, thống nhất giữa bản chất giai cấp
với tính nhân dân, tính dân tộc và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:

Nhà Nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ của rất nhiều thế
hệ người Việt Nam. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc VN rơi vào khủng hoảng đường lối
cách mạng. Trong cuộc đấu tranh trường kỳ chống thực dân Pháp của dân tộc ta, tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của các nhà cách mạng tiền bối rất oanh liệt, tô thắm cho truyền
thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc nhưng độc lập, tự do cho dân tộc vẫn chưa trở thành
Trang 17


hiện thực. Từ đầu năm 1930, Đảng ta ra đời, thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên
phong của nó là Đảng CSVN đã vượt qua được tất cả các hạn chế và đã lãnh đạo thắng lợi cuộc
Cách mạng tháng Tám 1945, đấu tranh giành chính quyền, lập nên Nhà Nước dân chủ nhân dân đầu
tiên ở Đông Nam châu Á.


Tính thống nhất còn biểu hiện ở chỗ Nhà Nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi

ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà Nước ta không
những thể hiện í chí của giai cấp công nhân mà còn thể hiện í chí của nhân dân và của toàn thể dân
tộc.

Trong thực tế, Nhà Nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc giao phó, đã

lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc, xây
dựng một nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự
phát triển tiến bộ của thế giới. Con đường quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội và đi đến chủ nghĩa cộng
sản là con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định, cũng là sự nghiệp của chính Nhà Nước
ta.
2.4.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.

2.4.1. Xây dựng một Nhà nước hợp pháp, hợp hiến
Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một nhà nước hợp hiến.
Vì vậy sau khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó lập chính phủ và
các cơ quan nhà nước mới.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (3/9/1945),
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một trong sáu nhiêm vụ cấp bách của Chính phủ là: “Chúng ta phải
có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng tốt cuộc tổng tuyển cử
với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ
thông đầu phiếu bầu Quốc Hội, thành lập uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Ngày 2/3/1946, Quốc hôi họp phiên đầu tiên và Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí
bầu làm chủ tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là chính phủ hợp hiến đầu tiên do nhân dân
bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
2.4.2.
Hoạt động quản lý nhà nước bằng Hiến pháp, pháp luật và chú trọng đưa pháp luật
vào cuộc sống
Nhà nước dân chủ Việt Nam không thể thiếu pháp luật. Pháp luật là bà đở cho dân chủ.
Mọi quyền dân chủ của người dân đều được thể chế hóa bằng Hiến pháp và pháp luật; ngược lại hệ

thống pháp luật phải đảm bảo cho quyền tự do, dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế.
• Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa bảo
đảm được việc thực hiện quyền lực của nhân dân.

Trang 18


-

Từ năm 1919, Người khẳng định vai trò của pháp luật là: “Trăm điều phải có thần linh
pháp quyền”
- Là người sáng lập Nhà nước dân chủ mới ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng là người có
công lớn trong việc lập hiến và lập pháp.
• Hồ Chí Minh hết sức chăm lo đưa pháp luật vao đời sống, tạo ra cơ chế bảo đảm cho pháp
luật được thi hành, cũng như cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật trong các cơ quan nhà
nước và trong nhân dân.
- Để tuyên truyền, đưa pháp luật vào cuộc sống, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao
dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và sự giác ngộ của nhân
dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào công việc nhà nước, khắc phục mọi thứ dân
chủ hình thức.
• Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích người dân phê bình, giám sát
công việc của Chính phủ, Người yêu cầu các cán bộ phải “làm cho nhân dân biết hưởng quyền dân
chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Lúc dân biết và dám phê bình cán bộ,
người lãnh đạo, lúc đó dân đã biết nắm quyền dân chủ, tức là đã đến mức dân chủ hóa khá cao.
Hồ Chí Minh luôn luôn nêu gương trong việc khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát công việc
của chính phủ, đồng thời nhắc nhở cán bộ các ngành, các cấp phải gương mẫu trong việc tuân thủ
pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành tư pháp. Người viết: “Các bạn là những người phụ
trách thi hành pháp luật. lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao cái gương phụng công, thủ pháp, chí công,
vô tư cho nhân dân noi theo.
2.4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đủ đức và tài

Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ, Bác Hồ cho rằng, phải
nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn
hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm
chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ cán bộ
phải có đức và tài trong đó đức là gốc, đội ngũ này phải được tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể
là:
(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ.
(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm,
nhất là những tình huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
5) Phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, luôn có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong
sạch của nhà nước.
Trong việc dùng cán bộ Hồ Chí Minh lưu ý rằng: cần phải tẩy sạch óc bè phái. Người đã ký sắc
lệnh số 76, ban hành quy chế công chức, chú trọng chế đọ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc
hành chính. Điều này thể hieenjt ầm nhìn xa, tính chính quy, hiện đại, tinh thần công bằng, dân
chủ… của Hồ Chí Minh trong việc xây dụng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban
hành Quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển công chức
để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính
trị, kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa, tính chính quy
hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ ... của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng
cho pháp quyền Việt Nam.

Trang 19


Xuất phát từ nhận thức chỉ có trí tuệ và lòng dân mới có thể làm cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ và sáng suốt, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải “thân dân”, gần dân, trọng dân, không được lên
mặt “quan cách mạng” với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

2.5. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
2.5.1. Đề phòng và khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước.
Việc xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân không thể tách rời với việc làm cho Nhà
nước đó luôn trong sạch, vững mạnh. Khi nước nhà giành được độc lập, chính quyền Cách mạng còn
non trẻ, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn đến việc làm sao để bảo đảm cho sự trong sạch, vững mạnh
của cả một bộ máy Nhà nước, từ Trung ương đến địa phương. Bởi trên có trong sạch, nghiêm minh
thì dưới mới thực hiện nhiệm vụ của mình một cách công bằng nhất. Và bên cạnh một xã hội luôn
chuyển mình qua từng ngày, tích cực có mà tiêu cực cũng chẳng ít sẽ rất dễ dàng trở thành nguy cơ
làm biến chất Nhà nước thì gánh nặng đặt lên Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta càng cao và càng trở
nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Và chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã gửi
thư cho Ủy ban Nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ phải chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy
Nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc lột nhân dân, cán bộ, công chức không phải là những
“ông quan cách mạng”. Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phòng: trái phép, cậy thế, hủ hóa,
tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai
lầm thì phải ra sức sữa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi,
và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lầm lỗi trên này, thì phải hét sức sữa chữa; nếu
không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của
nước nhà, mà tôi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “công bình, chính trực” vào lòng”.
Hồ Chí Minh đã dung những cụm từ “công bộc”, “ đầy tớ” để chỉ ra một mặt trách nhiệm cả người
cán bộ, công chức trong xây dựng một Nhà nước mới-Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong quá trình lãnh dạo xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh thường chỉ
rõ những tiêu cực sau đây và nhắc nhở mọi người đề phòng và khắc phục:


Đặc quyền, đặc lợi:

Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải tẩy trừ những thói cậy mình là
người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền, hách dịch với dân, lạm quyền, đồng thời vơ vét tiền
của, lợi dụng chức trách để làm lợi cho cá nhân, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá nhân. Đi

ngược lại đạo đức, đường lối chính sách của Đảng.


Tham ô, lãng phí, quan liêu :

Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan lieu là “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ
giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Người phê bình những người “lấy của công dung vào việc tư,
quên cả thanh liêm, đạo đức”. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan lieu
dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến… Tội lỗi ấy cũng nặng như
tội Việt gian, mật thám”. Ngày 27-11-1946, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa
Trang 20


và nhận hối lộ với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đôi số tiền nhận hối lộ.
Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ô, trộm cắp của công dân là tội tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Chính bản thân người luôn làm
gương tích cực, thực hành chống lãng phí trong cuộc sống và công việc hằng ngày. Người biết quý
từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho hoạt động của Bộ máy Nhà nước. Lãng phí được Hồ Chí
Minh xác định ở đây là lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là biện pháp để tiết kiệm,
một vấn đề quốc sách của mọi quốc gia.
Một căn bệnh cũng nhức nhối không kém bên cạnh tham ô, lãng phí là bệnh quan liêu. Không
chỉ ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện mà còn ở ngay cả cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình
những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp trên xuống cấp dưới không sát công việc thực tế, không
theo dõi và giáo dục cán bộ, không gần gũi quần chúng. Công việc thì trọng hình thức mà không
xem xét hết mọi mặt, không đi vào từng vấn đề, tâm tư nguyện vọng của người dân mà chỉ chăm lo
cho bản thân, cho địa vị xã hội một cách vô nghĩa và sáo rỗng. Bệnh quan liêu làm cho chúng ta chỉ
biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm tra đến nơi đến chốn, làm lơ trước
những khó khăn của quần chúng nhân dân, hoặc có cũng chỉ là làm một cách qua loa, cưỡi ngựa xem
hoa cốt để lấy cái tiếng. Thành thử có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ
mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững… Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che

chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ô, lãng phí. Muốn trừ
cho sạch cái bệnh tham ô, lãng phí thì trước mắt phải tẩy cho sạch bệnh quan liêu. Phải diệt từ gốc
mới mong cắt hết được những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước


“Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”:

Đây là những hành động gây mất đoàn kết, gây rối cho công tác. Hồ Chí Minh kịch liệt
lên án tệ kéo bè, kéo cánh, tệ nạn bà con bạn hữu mình, không tài năng gì cũng kéo vào chức này
chức nọ. Người có tài có đức, nhưng không vừa lòng mình thì đẩy ra ngoài. Quên rằng việc nước là
việc công, chứ không phải việc riêng gì dòng họ của ai. Phải để cho những nhân tài thật sự, tài đức,
tài trí góp sức xây dựng đất nước. Những hành động như vậy sẽ làm mất đi lòng tin nơi nhân dân,
càng làm cho đất nước suy yếu. Trong chính quyền, còn hiện tượng gây mất đoàn kết, không biết
cách làm cho mọi người hòa thuận với nhau, còn có người “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác”.
“Đục nước béo cò”, thừa cơ hội người này hiềm khích với người kia để làm lợi cho bản thân; chỉ
nghĩ đến làm giàu cho bản thân mà không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình. Ngoài
bệnh cậy thế, có người còn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi…
cử chỉ lúc nào cũng vác mặt quan cách mạng”, làm mất uy tín của Chính phủ trong lòng dân chúng.
Dần dần sẽ tạo cho người dân có niềm tin không tốt về sự lãnh đạo của Đảng, bởi trong khi đường
lối của Đảng một đằng, quan lại, những người có chức sắc lại thực hiện một nẻo, làm biến tướng,
làm lệch đi đường lối, chính sách ấy.
Và để thực hiện được tốt mọi đường lối do Đảng đề ra không gì khác hơn chính là bồi
dưỡng và rèn luyện đạo đức. Chỉ có giáo dục mới làm cho con người hoàn thiện hơn dù là trong bất
kỳ bối cảnh xã hội nào đi chăng nữa.
Trang 21


2.5.2.
cách mạng


Tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức

Xuất phát từ thực trạng đất nước là đi lên từ một nền kinh tế tiểu nông, quen sống theo
luật tục hơn là sống và làm việc theo hiến pháp. Hơn nữa, chúng ta bỏ qua chế độ tư bản, đi lên Chủ
nghĩa xã hội, lại trải qua nhiều năm chiến tranh nên theo Người việc cần làm trước tiên là phải khẩn
trương xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, đẩy mạng việc tuyên truyền giáo dục, pháp luật
trong nhân dân. Song không nên vì thế mà đề cao một chiều vai trò của pháp luật, coi pháp luật là tối
thượng, bỏ qua vai trò hỗ trợ của các nhân tố khác, trong đó có vấn đề giáo dục đạo đức. Do vậy,
phải tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Kết hợp nhuần nhuyễn cả “pháp
trị” và “đức trị”.
Trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí
Minh bao giờ cũng thể hiện là một người sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm,
nghiêm khắc, bao dung, nhân ái nhưng không bao che cho những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ ai.
Kỷ cương, phép nước thời nào cũng luôn được đề cao và phải được áp dụng cho tất cả mọi người.
Kể cả là những người có chức sắc hay dân thường đều phải tuân thủ đúng luật lệ và phù hợp với
chuẩn mực đạo đức xã hội. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ
bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh dung sức mạnh
uy tín của mình để cảm hóa những người có lỗi lầm, kéo họ đi với Cách mạng, giáo dục những
người mắc khuyết điểm để họ tránh phạm pháp. Dưới ngọn cờ đại nghĩa, bao dung của Hồ Chí
Minh, nhiều người vốn rất mặc cảm với cách mạng đã dần hiểu ra và không “sẩy chân”.
Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật thì pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định một
chuẩn mực đạo đức nào đó và biến nó thành thói quen, chuẩn mực đạo đức càng khó bao nhiêu thì
vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Thi hành pháp luật phải đảm bảo được tính vô tư,
công bằng, bình đẳng đối với mọi công dân trước pháp luật. Có như vậy mới tạo được niềm tin nơi
quần chúng nhân dân và tạo ra một thước đo cho một xã hội có công bằng, dân chủ văn minh hay
không!
3.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN NGÀY NAY, TRONG ĐIỀU KIỆN NÀY CẦN PHẢI LÀM GÌ
ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TA NGÀY CÀNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH? THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.

3.1.
Thực trạng và giải pháp khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà
nước đặc biệt là nạn tham ô, lãng phí, quan liêu
3.1.1. Hoàn thiện đồng bộ các văn bản pháp luật
Ông Ðinh Tiến Dũng, Thứ trưởng Bộ Xây dựng nói: “ Tình trạng thất thoát, lãng phí
trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lớn, phổ biến là do sai phạm từ khâu khảo sát, thiết kế, lập
dự án cho đến công tác đấu thầu xây dựng, nghiệm thu, thanh quyết toán khống khối
lượng, sai đơn giá vật tư, v.v. Trong các sai phạm nêu trên, có thể nói sai phạm từ chủ
trương đầu tư, hay quyết định đầu tư làm cho thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản
là rất lớn (chiếm đến 70% số thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản). Có nhà máy
trong quá trình xây dựng thì không thấy lãng phí, nhưng khi xây xong mới thấy lãng phí
vì hoạt động không hết công suất, thậm chí là không hoạt động do thiếu nguyên liệu,
Trang 22


hoặc thị trường tiêu thụ sản phẩm không đáng kể. Có chợ làm xong không có người đến
họp, bỏ đấy, mới thấy sự lãng phí không nhỏ. Những sai phạm từ chủ trương đầu tư
thường khó kiểm tra, thanh tra và sau khi kiểm tra kết luận cũng khó xử lý.
Rồi chất lượng công trình yếu kém, nợ đọng xây dựng cơ bản đang là những vấn đề bức xúc
trong lĩnh vực này.
Ðể ngăn chặn tình trạng nêu trên, chúng tôi xin đề nghị một số giải pháp sau:
• Tập trung hoàn thiện các quy định, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực này.
Trước hết, nên có sự chỉ đạo rà soát tổng thể các văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực đầu tư xây
dựng cơ bản, nhất là xây dựng bằng ngân sách Nhà nước. Hệ thống văn bản này phải đồng bộ, như
các luật: Ðầu tư, Xây dựng, Ðấu thầu, Ðất đai và kể cả Luật Ngân sách. Có một số quy định trong
các luật nêu trên chưa đồng bộ, gây khó khăn cho quá trình thúc đẩy đầu tư và gây thất thoát, lãng
phí. Ðẩy mạnh việc quản lý chất lượng các công trình, cần có biện pháp quản lý hiệu quả. Các quy
định chế tài quản lý chất lượng công trình của chủ đầu tư, chủ nhà thầu, tư vấn... đã có, nhưng phải
tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng để đội ngũ cán bộ làm công việc này nắm vững và thực hiện tốt hơn.
• Về quản lý chi phí trong đầu tư xây dựng cơ bản hiện chưa có văn bản nào mang tầm Nghị

định của Chính phủ mà mới có văn bản ở dạng thông tư liên bộ. Các loại văn bản này
cần được ban hành có giá trị pháp lý như Nghị định với nội dung được đổi mới phù hợp
tiến trình hội nhập kinh tế thế giới; quản lý giá, quản lý chi phí trong xây dựng phải gắn
liền với thị trường. Xóa bỏ việc quản lý giá theo địa bàn, nên quản lý giá theo từng công
trình, bởi hai nhà xây cạnh nhau, có thiết kế như nhau, cùng được khởi công và hoàn
thành trong một thời điểm, nhưng chi phí có thể sẽ khác nhau vì việc xử lý móng không
hẳn giống nhau do nền đất của hai nhà khác nhau.
• Xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể; giải quyết bình đẳng mối quan hệ giữa các chủ thể
trong hoạt động xây dựng, nhất là giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Ðề cao vai trò của hợp đồng xây
dựng. Khi làm hợp đồng phải theo thông lệ quốc tế, điều này rất quan trọng, nó gần như cơ sở pháp
lý cao nhất để xử lý các tranh chấp giữa nhà thầu và chủ đầu tư, giữa các chủ thể tham gia ký
hợp đồng. Tăng cường tính minh bạch, rõ ràng và trách nhiệm của các chủ thể thì sẽ có
tác dụng tích cực để hạn chế thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng.
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các định mức để tiết kiệm, chống lãng phí
Ông Nguyễn Văn Ðua, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh:
“Triển khai Chương trình kiểm tra số 07 của Ban Bí thư T.Ư Ðảng, Thành ủy TP Hồ Chí
Minh tập trung chỉ đạo ráo riết, gắn với thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội của thành phố, để thành phố phát triển nhanh và bền vững; đồng thời góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.
Thành ủy vừa chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Thành ủy, các cơ quan chức năng tăng
cường kiểm tra việc sử dụng đất, đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản từ tài chính
công, vừa chỉ đạo Ban Cán sự đảng UBND thành phố thanh tra hàng loạt các vấn đề và
xử lý nghiêm khắc cán bộ sai phạm, như vụ hầm chui cầu Văn Thánh II, đường Nguyễn
Hữu Cảnh, v.v. Không chỉ chỉ đạo xử lý những vụ việc cụ thể, Thành ủy còn ra các chỉ
thị về tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, điều hành của chính quyền,
nhằm kiên quyết khắc phục những sai phạm trong quản lý kinh tế, quản lý trật tự đô thị;
sử dụng đất đai; giao đất, thu hồi đất; xử lý việc tự chuyển mục đích sử dụng đất trái
phép và nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Thành ủy chủ trương thu hồi đất của các dự án
chậm triển khai; cho lập quỹ chuyển đổi nghề, học nghề cho con em nhân dân trong
vùng quy hoạch phải giải phóng mặt bằng... Do vốn có hạn, cho nên thành phố tập trung
đầu tư cho các dự án có chương trình, dự án triển khai nhanh, hạn chế tình trạng đầu tư

dàn trải. Ðặc biệt là Thành ủy luôn lãnh đạo rà soát các quyết định đầu tư, các dự án đầu
tư để tập trung vào các dự án cấp bách, có khả năng phát huy tác dụng, sớm phục vụ
Trang 23


phát triển kinh tế - xã hội. Thành phố cũng quyết định thành lập các ban bồi thường giải phóng mặt
bằng của các quận, huyện; kiện toàn nhân sự các ban quản lý dự án, phân
cấp cho quận, huyện trực tiếp làm công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và tái định
cư. Chương trình kiểm tra số 07 của Ban Bí thư đã giúp các cấp ủy đảng Thành ủy TP
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc hơn nội dung, tầm quan trọng của vấn đề, tập trung chỉ
đạo kiên trì, kiên quyết và hiệu quả chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Ðể tiếp tục đẩy mạnh chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong năm
nay và những năm tiếp theo, đề nghị T.Ư cần nghiên cứu, rà soát, bổ sung hoàn thiện
các loại định mức. Quản lý định mức là cơ sở cực kỳ quan trọng, là căn cứ để theo dõi,
kết luận đúng, sai trong quá trình thực hiện. Về đầu tư xây dựng cơ bản, chất lượng, tiến
độ thực hiện các dự án đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc nhiều khâu. Trong đó, chất
lượng của khâu tư vấn giám sát là khâu hết sức hệ trọng. Song hiện nay, chi phí cho tư
vấn giám sát lại chưa thật phù hợp. Thành phố Hồ Chí Minh đã có quyết định mời tư
vấn nước ngoài giám sát một số dự án. Nhưng mức chi phí cho khâu này theo quy định
hiện nay không còn phù hợp. Vấn đề đặt ra là, muốn nâng cao chất lượng tư vấn giám
sát thì phải thay đổi chi phí giám sát, nhất là khi mời tư vấn giám sát nước ngoài. Có
một số quy định rất cụ thể, tỉ mỉ, tưởng là tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện giám sát.
Nhưng không hẳn như vậy, mà có khi nó lại là quy định máy móc, rườm rà, vô hình
trung làm cho ta tự trói mình. Một số loại đơn giá tổng hợp chẳng hạn, phải phụ thuộc
vào giá cả thị trường biến động từng ngày từng giờ trong khi phải được phê duyệt mới
được mua. Do vậy, nhiều văn bản phải được rà soát, điều chỉnh, tạo sự đồng bộ, phù
hợp cơ chế quản lý kinh tế mới và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.”
3.1.3. Mạnh dạn phân cấp
Ông Nguyễn Công Soái, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Hà Nội: “Nhận thức rõ
tầm quan trọng của công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Thành ủy Hà Nội đã

đề ra các biện pháp tăng cường lãnh đạo của Ðảng trong thời gian tới. Cụ thể là triển
khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị T.Ư 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của
Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng và lãng phí, Thành ủy đã có kế hoạch,
thời gian phân công cụ thể từng đồng chí phụ trách các lĩnh vực để khắc phục những
tồn tại nhất là việc thanh toán, quyết toán dứt điểm các công trình xây dựng đã hoàn
thành và đưa vào sử dụng. Xử lý kiên quyết, triệt để những dự án công nghiệp, khu đô
thị mới có vi phạm về quản lý, sử dụng đất. Nâng cao công tác cải cách hành chính trên
ba lĩnh vực: đầu tư xây dựng cơ bản, quy hoạch; quản lý và sử dụng đất đai; mua sắm
trang thiết bị tài sản công, v.v. Xây dựng các quy chế liên thông và kiện toàn Ban chỉ
đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Phân cấp, ủy quyền cho cơ sở xây dựng một số
cơ chế liên thông trong các lĩnh vực đầu tư; cấp đất; quản lý vốn nhằm thực hiện ngay
các kiến nghị của Ðoàn kiểm tra T.Ư.
Ðể thực hiện tốt những biện pháp nêu trên, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội kiến
nghị với T.Ư một số nội dung cụ thể:
• Ðề nghị Chính phủ bảo đảm đủ, kịp thời vốn cho tiến độ cho các dự án của T.Ư trên
địa bàn, đặc biệt là vốn cho công tác giải phóng mặt bằng. Kế hoạch vốn phải đồng bộ
với tiến độ, phương án giải phóng mặt bằng của dự án để dự án sớm đưa vào sử dụng
theo kế hoạch.
• Sửa đổi một số quy định quản lý vốn ODA như quản lý ngân sách Nhà nước để sự
theo dõi, giám sát hoạt động của các cơ quan liên quan. Quy định về quản lý, kiểm soát,
thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng tăng cường chức năng giám đốc của
ngành tài chính...
Trang 24


• Ban hành các cơ chế, chính sách đồng bộ về tài chính nhằm quản lý sử dụng tài sản
Nhà nước theo đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức quy định pháp luật của Luật thực
hành tiết kiệm chống lãng phí, như phân cấp quản lý xử lý tài sản, thực hiện đăng ký tài
sản Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý quỹ nhà chuyên dùng thuộc sở hữu Nhà nước...
• Nghiên cứu cơ chế đấu thầu dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng tài sản cho các cơ quan,

đơn vị hành chính sự nghiệp. Từng bước thay thế phương thức chi ngân sách cho đơn vị
sự nghiệp mua sắm tài sản bằng việc cơ quan, đơn vị tự đặt mua sản phẩm.
3.1.4. Cần có Nghị quyết chuyên đề về công tác kiểm tra, giám sát của BCH Ðảng
Ông Ðinh Thanh Ðồng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phú Yên: Kết
quả đạt được trong việc tăng cường công tác kiểm tra của Ðảng theo tinh thần Chỉ thị 29 của Bộ
Chính trị khóa VIII là cố gắng rất lớn của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp. Nhờ đó đã
tạo bước chuyển biến đáng kể trong nhận thức và hành động đối với đội ngũ những
người làm công tác này. Tuy nhiên so với yêu cầu còn nhiều hạn chế, bất cập.
Ðể tạo bước đột phá, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi
hành kỷ luật của Ðảng, đề nghị T.Ư cần có Nghị quyết chuyên đề về công tác này. Về
nhận thức, cần xác định công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Ðảng là
nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của toàn Ðảng, trước hết là nhiệm vụ của cấp ủy, do cấp ủy
trực tiếp tiến hành. Từ khi có Chỉ thị 29 của Bộ Chính trị, hằng năm, các cấp ủy đảng
địa phương đã xây dựng chương trình công tác kiểm tra của cấp ủy, có tổng kết rút kinh
nghiệm đề ra phương hướng nhiệm vụ cho thời gian tiếp theo. Ðề nghị hằng năm, T.Ư
tổng kết và chỉ đạo phương hướng, nhiệm vụ công tác kiểm tra năm sau, làm cơ sở cho
địa phương, các cấp, các ngành thực hiện thống nhất. T.Ư cũng cần giao trách nhiệm
cho ban cán sự Ðảng, Ðảng đoàn các cơ quan, bộ, ngành có chương trình kiểm tra đối
với các lĩnh vực quản lý nhà nước, để tạo điều kiện cho công tác kiểm tra thuận lợi hơn;
có điều kiện kiểm tra hiệu quả hơn. Qua đó, chính đội ngũ cán bộ có điều kiện khắc
phục các mặt hạn chế, yếu kém. Mặt khác, chú trọng củng cố tổ chức bộ máy và xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra bảo đảm số lượng, đặc biệt là chất lượng,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác kiểm tra trong hình tình mới. Ðồng thời, tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình kiểm tra số 07 của Ban Bí thư về thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, qua đó đề ra những giải pháp khắc phục các mặt yếu kém, chứ không phải
kiểm tra rồi để đấy; nhất là phải xử lý nghiêm mọi trường hợp sai phạm, để
xử lý bằng kỷ luật Ðảng, pháp luật nhà nước.
Trong công tác kiểm tra, chúng ta đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy là
rất quan trọng và đúng, đồng thời phải gắn liền với phát huy vai trò, trách nhiệm của tập
thể ban thường vụ cấp ủy, Ðảng Ðoàn, Ban Cán sự đảng, nhất là khi xây dựng chương

trình công tác kiểm tra tránh sự cửa quyền trong chỉ đạo, lãnh đạo và điều hành.
3.1.5. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa UBKT các cấp với các cơ quan quản lý nhà nước
Ông Nguyễn Sĩ, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bắc Ninh: Từ việc kiểm tra theo
Chương trình 07, chúng tôi có một số kiến nghị với UBKT T.Ư như sau: Việc kiểm tra
này là cần thiết nhưng với ba nội dung là hơi nhiều. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Ninh
đã phải tập trung lãnh đạo và phân công một đồng chí Thường vụ và hai cán bộ có năng
lực của UBKT Tỉnh ủy để phục vụ và làm thư ký cho Ðoàn kiểm tra. Các cuộc kiểm tra
lần sau nên chọn nội dung kiểm tra gọn hơn, nội dung còn lại giao địa phương tự kiểm
tra theo các chương trình, hướng dẫn của UBKT T.Ư. Mặt khác, cần có sự phối hợp
giữa UBKT T.Ư với các bộ, ngành T.Ư liên quan đến nội dung kiểm tra tạo ra sự thống
nhất, thông suốt những việc cần kiểm tra. Thí dụ, vấn đề đất đai liên quan Bộ Tài
nguyên và Môi trường, vấn đề xây dựng cơ bản liên quan Bộ Xây dựng và các bộ liên
quan... cần trao đổi, đối thoại để thống nhất khi xem xét kết quả kiểm tra. Nhất là khi
Trang 25


×