VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI
BÀI TẬP CÁ NHÂN
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Đề tài: Quyền của người biểu diễn theo quy định của Luật sở hữu trí
tuệ 2005 và định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Họ và tên: Phan Quốc Nghiệp
Lớp: K1B
Mã số sinh viên: 1353801010057
Hà Nội, 2015
1
2
MỞ ĐẦU
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam được Quốc hội Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005
và có hiệu lực vào ngày 01 tháng 07 năm 2006, là luật quy định về quyền tác
giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó.
Trước một thực trạng, ngày nay số lượng ca sĩ, diễn viên… (gọi chung là
người biểu diễn) ngày càng nhiều và nhiều người trong số họ đang bị xâm
phạm đến tác phẩm biểu diễn của mình. Những tác phẩm đó bị sửa đổi, biến
tấu gây ảnh hưởng đến uy tín và danh dự của mình mà thực tế những người
biểu diễn này không am hiểu đến quyền và lợi ích của mình khi bị xâm phạm.
Vậy xuất phát từ những thực trạng đó nên tôi đã quyết định chọn đề tài:
“Quyền của biểu diễn theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005 và
định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật.” là bài tập lớn của
mình. Ở đây, tôi có nêu quyền của người biểu diễn là gì? Tại sao lại phải bảo
hộ quyền của người biểu diễn? Nội dung quyền của người biểu diễn và những
bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về quyền này. Từ đó, các bạn có thể
hiểu một các khái quát các quyền của người biểu diễn mà pháp luật sở hữu trí
tuệ quy định cho họ.
3
NỘI DUNG
1. Lý luận chung.
1.1. Người biểu diễn là gì?
Loại hình của các tác phẩm văn học, nghệ thuật nói chung nói chung
hết sức đa dạng và phong phú. Trong đó, có những loại hình tác phẩm đến với
công chúng một cách trực tiếp như tác phẩm văn học, nghệ thuật và điêu
khắc. Mỗi người đều có thế đọc nhưng tập thơ, tập truyện và cảm nhận nó hay
của nó một các trực tiếp hay trực tiếp chiêm ngưỡng nhưng bức ảnh, pho
tượng… và cảm nhận vẻ đẹp của chúng. Mặt khác, có nhiều loại hình tác phẩm
chỉ có thể đến với công chúng khi có người chuyển tải tác phẩm thông qua
loại hình nghệ thuật nhất định. Người biểu diễn là người chuyển tải tác phẩm
đến công chúng thông qua các loại hình nghệ thuật khác nhau hay nói một
các khác người biểu diễn là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần
truyền bá, lưu giữ và phát triển các tác phẩm có giá trị. Do đó pháp luật đã
công nhận và bảo hộ các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn của
mình.
Quy mô và tính chất cuộc biểu diễn không ảnh hưởng đến quyền của
người biểu diễn. Cuộc biểu diễn có thể chỉ đơn giản có một người biểu diễn
như nhạc công độc tấu một bản nhạc, cũng có thể có rất nhiều người biểu
diễn cùng tham gia như một bộ phim, một vở kịch hay một buổi biểu diễn ca
nhạc lớn. Để thực hiện một cuộc biểu diễn lớn như vậy thường cần có sự hợp
tác của rất nhiều người nhưng chỉ những người trực tiếp trình diễn, thể hiện
tác phẩm mới được coi là người biểu diễn và về nguyên tắc họ là chủ sở hữu
quyền đầu tiên đối với cuộc biểu diễn.
Những ai được coi là người biểu diễn được quy định rõ tại điều 3 (a)
Công ước quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức
phát sóng (Công ước Rome): “Người biểu diễn là các diễn viên, ca sĩ, nhạc
4
công, vũ công và các người khác nhập vai, hát, đọc, ngâm, trình bày hoặc biểu
diễn khác các tác phẩm văn học, nghệ thuật”1
Trong Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT)
năm 1996, khái niệm người biểu diễn được quy định như sau :"Người biểu
diễn" là diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công, và những người khác nhập vai,
hát, đọc, ngâm, thể hiện, diễn xuất hoặc biểu diễn khác các tác phẩm văn học
hoặc nghệ thuật hoặc những thể hiện tác phẩm văn học dân gian. 2
Giống như mọi khái niệm pháp lý, khái niệm người biểu diễn không chỉ
biến đổi theo thời gian mà còn có những khác biệt theo phạm vi lãnh thổ.
Pháp luật các nước tuỳ thuộc điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và kỹ năng lập
pháp đã có những điều chỉnh trong việc đưa ra khái niệm người biểu diễn và
cuộc biểu diễn, cũng như điều kiện để được bảo hộ quyền của người biểu diễn.
Trên cơ sở khái niệm người biểu diễn của Công ước Rome, Điều 16 Luật Sở
hữu trí tuệ Việt Nam liệt kê các tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền liên quan
theo pháp luật Việt Nam, trong đó quy định trực tiếp người biểu diễn gồm:
“diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người khác trình bày tác phẩm
văn học, nghệ thuật”.3
1.2.
Quyền của người biểu diễn.
Người biểu diễn là người chuyển tải tác phẩm đến công chúng thông
qua các loại hình nghệ thuật khác nhau hay nói một các khác người biểu diễn
là cầu nối giữa tác giả và công chúng, góp phần truyền bá, lưu giữ và phát
triển các tác phẩm có giá trị. Vì vậy, quyền của người biểu diễn là loại hình
quyền được hầu hết luật pháp các quốc gia, trong đó có Luật Sở hữu trí tuệ
Việt Nam công nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, mỗi quốc gia lại có những quy định
riêng để bảo hộ quyền của người biểu diễn. Tại Việt Nam do tính chất phức
tạp của loại hình quyền này, cũng như do nhận thức của các chủ thể có liên
1 Điều 3 (a) Công ước quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng
(Công ước Rome)
2 Điều 2a- Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT) năm 1996.
3 Điều 16 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
5
quan còn hạn chế nên công tác bảo hộ quyền của người biểu diễn gặp nhiều
khó khăn. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ quyền của người
biểu diễn, các chủ thể liên quan mà trước hết là người biểu diễn cần nắm
vững các quy định pháp luật về quyền của người biểu diễn, cũng như lý giải
được tại sao pháp luật công nhận quyền của người biểu diễn và điều kiện của
người biểu diễn được bảo hộ.
1.3.
Lý do phải bảo vệ quyền biêu diễn.
Có lẽ bất cứ ai cũng có thể nhận ra người biểu diễn đã đóng góp không
nhỏ sức sáng tạo trong quá trình biểu diễn các tác phẩm, vì vậy các công ước
quốc tế cũng như luật pháp các quốc gia đã thừa nhận và bảo hộ quyền của
người biểu diễn. Trong đó, pháp luật Việt Nam cũng có quy định về việc này.
Nó được quy định cụ thể trong Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
Thực tế, người biểu diễn trình diễn tác phẩm và đưa tác phẩm đến với
công chúng được bảo hộ một cách đúng đắn. Nhưng việc người biểu diễn chỉ
thể hiện và chuyển tải tác phẩm đến với công chúng dựa trên tác phẩm văn
học nghệ thuật đã có trước. Vì vậy theo tôi, người biểu diễn chỉ đơn thuần
trình diễn lại tác phẩm, mức độ sáng tạo thấp hơn so với các tác phẩm thông
thường, do đó cho người biểu diễn được hưởng quyền đối với buổi biểu diễn
của mình ở cấp độ thấp hơn dưới dạng quyền liên quan đến quyền tác giả
được gọi tắt là quyền liên quan.
Dù cuộc biểu diễn được bảo hộ như một sản phẩm sáng tạo độc lập hay
như một đối tượng của quyền liên quan, việc bảo hộ quyền của người biểu
diễn là rất cần thiết. Bởi sự phát triển của công nghiệp ghi âm, công nghiệp
điện ảnh và đặc biệt gần đây là Internet đã giúp người biểu diễn định hình,
sao chép và truyền phát cuộc biểu diễn của mình tới đông đảo công chúng
một cách nhanh chóng, nhưng cũng chính những bản sao cuộc biểu diễn đó đã
ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng kiểm soát công chúng tiếp cận với cuộc
biểu diễn. Nếu như đối với buổi biểu diễn trực tiếp chỉ cần thông qua kiểm
soát vé vào cửa là có thể khống chế được công chúng tiếp cận buổi biểu diễn,
6
thì nay với vô số bản sao băng từ hay bản lưu dưới dạng điện tử, khả năng
kiểm soát và khống chế các cá nhân, tổ chức tiếp cận, sử dụng và khai thác
cuộc biểu diễn của người biểu diễn bị thu nhỏ, khả năng thụ hưởng thù lao,
thu hồi chi phí và đầu tư cho cuộc biểu diễn bị đe doạ. Vì vậy yêu cầu bảo hộ
quyền của người biểu diễn càng trở nên bức thiết.
Mặt khác, việc bảo hộ quyền liên quan, trong đó có quyền của người
biểu diễn, góp phần củng cố và hoàn thiện cơ chế bảo hộ quyền tác giả. Khi
quyền của người biểu diễn được bảo hộ, người biểu diễn nhận được thù lao
tương xứng với công sức đã bỏ ra trong quá trình thể hiện, truyền bá tác
phẩm sẽ càng nỗ lực truyền tải các sản phẩm sáng tạo của các tác giả, nâng
cao giá trị của các tác phẩm. Đồng thời khi biểu diễn các tác phẩm, người
biểu diễn trước tiên phải tuân thủ các nghĩa vụ xin phép và trả tiền bản quyền
cho tác giả theo quy định của pháp luật, khi đó tác giả được thụ hưởng các
quyền mà pháp luật cho phép.
2. Cuộc biểu diễn được pháp luật bảo hộ.
Các công ước quốc tế và pháp luật các quốc gia đã công nhận và quy
định về quyền của người biểu diễn. Tuy nhiên, không phải bất kỳ người tham
gia cuộc biểu diễn nào cũng đều là đối tượng được bảo hộ quyền liên quan.
Theo quan điểm của luật sở hữu trí tuệ, chỉ những người tham gia vào cuộc
biểu diễn các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học mới được hưởng các
quyền của người biểu diễn. Để xác định thế nào là một tác phẩm văn học,
nghệ thuật và khoa học lại cần đối chiếu với khái niệm tác phẩm theo quy
định của pháp luật từng nước.
Theo luật Việt Nam, tác phẩm là “sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức
nào”4 . Do đó, mọi thành quả của quá trình sáng tạo trong văn học, nghệ thuật
hay khoa học đã được định hình đều có thể trở thành đối tượng để biểu diễn
4 Khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
7
và người biểu diễn các thành quả đó sẽ được hưởng các quyền của người biểu
diễn theo quy định pháp luật.
Theo nguyên tắc hiệu lực lãnh thổ của luật bản quyền, nơi thực hiện
cuộc biểu diễn cũng là một trong những điều kiện bảo hộ cuộc biểu diễn. Pháp
luật các nước thường chỉ bảo hộ cuộc biểu diễn của công dân nước mình, cuộc
biểu diễn được thực hiện trên phạm vi lãnh thổ quốc gia mình và các trường
hợp khác tuỳ thuộc vào các Hiệp định song phương hoặc đa phương về các
vấn đề có liên quan mà quốc gia tham gia hoặc ký kết. Luật Sở hữu trí tuệ Việt
Nam quy định với các cuộc biểu diễn mà người biểu diễn là công dân Việt
Nam dù được thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài đều được Pháp luật
Việt Nam bảo hộ. Ngoài ra, cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại
Việt Nam cũng được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam và một số trường hợp cụ
thể khác theo quy định của pháp luật như sau :
1. Cuộc biểu diễn được bảo hộ nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc
nước ngoài;
b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam;
c) Cuộc biểu diễn được định hình trên bản ghi âm, ghi hình được bảo hộ
theo quy định tại Điều 30 của Luật này;
d) Cuộc biểu diễn chưa được định hình trên bản ghi âm, ghi hình mà đã
phát sóng được bảo hộ theo quy định tại Điều 31 của Luật này;
đ) Cuộc biểu diễn được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.5
3. Nội dung quyền của người biểu diễn.
Khi thoả mãn các điều kiện luật định thì người biểu diễn được hưởng
các quyền đối với cuộc biểu diễn của họ. Theo quy định của Luật Sở hữu trí
5 Khoản 1, Điều 17 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
8
tuệ Việt Nam, quyền của người biểu diễn gồm có quyền nhân thân và quyền
tài sản. Tuy nhiên, không phải người biểu diễn nào cũng được hưởng đầy đủ
hai quyền này mà được quy định cụ thể như sau : “Người biểu diễn đồng thời
là chủ đầu tư thì có các quyền nhân thân và các quyền tài sản đối với cuộc
biểu diễn; trong trường hợp người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư
thì người biểu diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư có các quyền tài sản
đối với cuộc biểu diễn.”6
3.1. Quyền nhân thân.
Được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình,
phát sóng cuộc biểu diễn.7
Khi tác phẩm biểu diễn của mình được chuyển tải đến khán giả thì rất
nhiều người biểu diễn mong muốn khán giả biết đến mình và hâm mộ mình
mà hơn nữa danh tiếng của một diễn viên ca sĩ, nhạc công, vũ công và các
nghệ sĩ khác chỉ được công chúng biết đến khi tên của họ được giới thiệu
thông qua các buổi biểu diễn. Nhằm để cá biệt hóa hình tượng biểu diễn,
người biểu diễn phải được nêu tên mình trong mọi cuộc biểu diễn.
Bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của người biểu diễn.8
Hình tượng biểu diễn là khái niệm trừu tượng và có nội hàm khá rộng
được tạo nên bởi nhiều yếu tố khác nhau như phong cách biểu diễn, âm giọng,
thái độ, cử chỉ … Sự sáng tạo riêng, phong cách biểu diễn của mỗi người tạo
nên hình tượng biểu diễn và gắn liền với tên tuổi của họ. Vì vậy, người biểu
diễn cần được bảo hộ về hình tượng biểu diễn để tránh việc người khác lợi
dụng hoặc xuyên tạc. Mặt khác, danh dự, uy tín, của người biểu diễn được
thường được thể hiện trong toàn bộ cuộc biểu diễn với hàng loạt các động
thái khác nhau theo trình tự nhất định. Nếu bản định hình hoặc chương trình
6 Khoản 1, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
7 Điểm a, khoản 2, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
8 Điểm b, khoản 2, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
9
phát sóng cuộc biểu diễn cắt xén hoặc thay đổi trình tự của các động thái đó
sẽ gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của người biểu diễn.
3.2. Quyền tài sản.
• Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình. 9
Quyền này được hiểu là quyền được ghi âm, ghi hình trực tiếp các cuộc
biểu diễn. Với tư cách là quyền tài sản nên quyền này luôn thuộc về chủ sở hữu
quyền liên quan cuộc biểu diễn. Theo đó, chủ sở hữu quyền liên quan có thể tự
mình thực hiện việc ghi âm, ghi hình, có thể thông qua người khác thực hiện
công việc này theo mục đích và lợi ích của mình hoặc có quyền cho hay không
cho phép người khác ghi âm , ghi hình trực tiếp cuộc biểu diễn đó.
•
Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định
hình trên bản ghi âm, ghi hình.10
Sao chép cuộc biểu diễn là việc tạo ra các bản sao ghi âm, ghi hình cuộc
biểu diễn. Trong đó, được coi là sao chép trực tiếp nếu bản sao ghi âm, ghi
hình được tạo ra từ bản định hình lần đầu tiên về âm thanh, hình ảnh của
cuộc biểu diễn (còn gọi là băng gốc, đĩa gốc), được coi là sao chép gián tiếp
nếu bản sao ghi âm, ghi hình không được tạo ra từ chính bản ghi âm, ghi hình
gốc. Điều này còn được quy định như sau :
Sao chép trực tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm,
ghi hình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí
tuệ là việc tạo ra các bản sao khác từ chính bản ghi âm, ghi hình đó. 11
Sao chép gián tiếp cuộc biểu diễn đã được định hình trên bản ghi âm,
ghi hình theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí
tuệ là việc tạo ra các bản sao khác không từ chính bản ghi âm, ghi hình
đó như việc sao chép từ mạng thông tin điện tử, chương trình phát
9 Điểm a, khoản 3, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
10 Điểm b, khoản 3, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
11 Khoản 1, Điều 31 nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định về chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
10
sóng, dịch vụ mạng bưu chính viễn thông liên quan và các hình thức
tương tự khác.12
• Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn
của mình chưa được định hình mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ
trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng. 13
Phát sóng là việc truyền âm thanh hoặc hình ảnh hoặc cả âm thanh và
hình ảnh của tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng đến công chúng bằng phương tiện vô tuyến hoặc hữu tuyến, bao
gồm cả truyền qua vệ tinh để công chũng có thể tiếp nhận được tại địa điểm
và thời gian mà chính họ lựa chọn.14
Truyền theo cách khác là việc phổ biến cuộc biểu diễn chưa được định
hình đến công chúng bằng bất kì phương tiện kĩ thuật nào ngoài phát sóng
được quy định tại khoản 3 điều 31 nghị định số 100/2006/NĐ-CP. 15
Luật sở hữu trí tuệ đã xác định quyền phát sóng là quyền tài sản luôn
thuộc về chủ sở hữu quyền liên quan đỗi với cuộc biểu diễn. Trừ trường hợp
cuộc biểu diễn được thực hiện với mục đích để phát sóng.
• Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình
thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương
tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. 16
Khi xác định người biểu diễn được hưởng các quyền nào trong các
quyền nói trên cần phải căn cứ vào tư cách chủ thể của họ đỗi với cuộc biểu
diễn. Như đã xác định chủ thể của quyền liên quan ở trên thì người biểu diễn
có thể mang một trong hai tư cách chủ thể; hoặc là chủ sở hữu quyền liên
quan hoặc là chỉ mang tư cách người biểu diễn. Nếu được xác định là chủ sở
12 Khoản 2, Điều 31 nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định về chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
13 Điểm c, khoản 3, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
14 Khoản 11, điều 3 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
15khoản 3 điều 31 nghị định số 100/2006/NĐ-CP: “Truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa
được định hình quy định tại điểm c khoản 3 Điều 29 của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phổ biến cuộc biểu diễn
chưa được định hình đến công chúng bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào ngoài phát sóng.”
16 Điểm d, khoản 3, điều 29 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
11
hữu quyền liên quan thì người biểu diễn có tất cả các quyền nhân thân và
quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn của mình. Nếu chỉ là người biểu diễn mà
không đồng thời là chủ sở hữu quyền liên quan thì người biểu diễn chỉ có các
quyền nhân thân. Tuy nhiên, trong trường hợp này, ngoài các quyền nhân
thân, người biểu diễn được hưởng một khoản tiền thù lao khi người khác sử
dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố nhằm mục đích thương mại để
thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc tiền dưới bất cứ
hình thức nào hoặc được sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã được công bố trong
hoạt động kinh doanh, thương mại. Việc hưởng tiền thù lao của người biểu
diễn trong các trường hợp này tùy thuộc vào thỏa thuận giữa người biểu diễn
với nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình khi thực hiện chương trình ghi âm, ghi
hình.
Ngoài ra, với tư cách là người sủ dụng tác phẩm của người khác, người
biểu diễn phải có các nghĩa vụ nhất định đối với tác giả của tác phẩm mà họ
biểu diễn, bao gồm:
• Phải xin phép tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm trước khi sủ dụng tác
phẩm của họ để trình diễn, chỉ được biểu diễn khi có sự đồng ý của tác
giả hoặc của chủ sở hữu tác phẩm nếu tác phẩm đó chưa được công bố.
• Phải trả thù lao cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm trừ trường hợp
biểu diễn các tác phẩm sân khấu và các loại hình biểu diễn nghệ thuật
khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa tuyên truyền cổ động ở nơi công
sộng.
Người biểu diễn thông qua việc thực hiện hoặc cho phép thực hiện hay
chuyển giao các quyền tài sản để thu các lợi ích kinh tế. Pháp luật quy định tổ
chức, cá nhân muốn sử dụng khai thác cá quyền này thì phải xin phép và trả
thù lao cho chủ sở hữu quyền là hoàn toàn hợp lý. Chỉ khi người biểu diễn, nhà
đầu tư thu được lợi ích tương xứng mới có thể khuyến khích họ tiếp tục đầu
tư, sáng tạo các sản phẩm trí tuệ nói chung, cũng như cuộc biểu diễn có giá trị
xã hội và nghệ thuật nói riêng. Nhưng đồng thời để đảm bảo cho công chúng
được quyền tiếp cận với các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học có giá
12
trị, mà trực tiếp là các cuộc biểu diễn, nhằm đạt được mục đích tối cao của
Luật sở hữu trí tuệ là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
cũng như các loại hình quyền khác, quyền tài sản của người biểu diễn được
bảo hộ có thời hạn. Thời hạn bảo hộ quyền tài sản của người biểu diễn là năm
mươi năm, chính xác là đến 24 giờ ngày 31 tháng 12 năm thứ năm mươi, tính
từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình. 17 Đồng thời, trong
những trường hợp luật định, tổ chức cá nhân được phép khai thác, sử dụng
bản ghi âm cuộc biểu diễn mà không phải xin phép nhưng vẫn phải trả thù lao
cho chủ sở hữu quyền của người biểu diễn. Các trường hợp này được quy định
tại Điều 33 Luật Sở hữu trí tuệ cụ thể như sau :
Điều 33. Các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao
1. Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi
hình đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng có tài trợ, quảng
cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải
trả tiền nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể
từ khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy
định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình
đã công bố nhằm mục đích thương mại để phát sóng không có tài trợ, quảng
cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép,
nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ
khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
17 Khoản 1, Điều 34 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009: “Quyền của người biểu diễn được bảo
hộ năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình”.
Khoản 3, Điều 34 luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009: “Thời hạn bảo hộ quy định tại
các khoản 1, 2 và 3 Điều này chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo
hộ các quyền liên quan”
13
2. Tổ chức, cá nhân sử dụng bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt
động kinh doanh, thương mại không phải xin phép, nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả,
người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng kể từ
khi sử dụng; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định
của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
3. Tổ chức, cá nhân sử dụng quyền quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường cuộc
biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng và không gây phương
hại đến quyền của người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức
phát sóng.
Tuy nhiên, các quyền của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn không
phải luôn luôn thuộc về người biểu diễn. Ngoài các quyền nhân thân là quyền
không thể chuyển giao, chủ sở hữu quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn có thể
là tổ chức, cá nhân khác được chuyển giao quyền hoặc tổ chức, cá nhân đã
đầu tư tài chính, kinh phí và cơ sở vật chất để thực hiện cuộc biểu diễn. Khi đó
người biểu diễn chỉ còn lại các quyền nhân thân, còn chủ sở hữu quyền tài sản
đối với cuộc biểu diễn được quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực
hiện các quyền tài sản theo luật định. Các quyền tài sản gắn liền và là cơ sở
pháp lý để khai thác các lợi ích kinh tế từ cuộc biểu diễn, do đó trong hợp
đồng chuyển giao quyền hay hợp đồng biểu diễn cần xác định rõ chủ sở hữu
quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Trên thực tế, tại Việt Nam trong những
năm trước đây, khi thực hiện cuộc biểu diễn, ghi âm cuộc biểu diễn các bên
thường thiếu thoả thuận bằng văn bản đối với vấn đề này, dẫn đến phát sinh
tranh chấp trong quá trình khai thác và sử dụng cuộc biểu diễn, đặc biệt đối
với việc sử dụng lại bản ghi âm cuộc biểu diễn vào mục đích thương mại.
4. Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật.
Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã quy định cụ thể các quyền của người
biểu diễn. Nhưng để các quy định pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, người
14
biểu diễn thực sự được thụ hưởng các quyền mà pháp luật cho phép, cần đẩy
mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho công chúng và trước hết là người
biểu diễn để từ đó hình thành ý thức tôn trọng, khai thác và sử dụng hợp pháp
quyền của người biểu diễn. Chỉ khi các chủ sở hữu quyền hiểu rõ các quy định
pháp luật và biết cách tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì công
tác bảo hộ quyền của người biểu diễn mới đạt hiệu quả cao.
Khác với các loại hình quyền khác, quyền của người biểu diễn là quyền
độc lập nhưng được hình thành và khai thác trong mối quan hệ đa dạng và
phức tạp giữa người biểu diễn, tác giả tác phẩm được biểu diễn, nhà sản xuất
bản ghi âm, các hãng phim và các nhà đầu tư cho cuộc biểu diễn. Vì vậy khi
thực hiện cuộc biểu diễn người biểu diễn cần đặc biệt lưu ý thoả thuận và làm
rõ trong hợp đồng mối quan hệ cũng như quyền và nghĩa vụ giữa người biểu
diễn với nhau, người biểu diễn với tác giả và người biểu diễn với người sản
xuất. Các thoả thuận hợp đồng sẽ giúp giảm thiểu tranh chấp và đồng thời
cũng là cơ sở để giải quyết nếu tranh chấp phát sinh.
Quyền của người biểu diễn có thể được thực hiện trực tiếp bởi từng nghệ
sĩ nhưng một cá nhân riêng lẻ, đặc biệt trong điều kiện môi trường kỹ thuật số
khó có thể kiểm soát và quản lý toàn bộ việc khai thác, sử dụng cuộc biểu diễn
và bản ghi âm cuộc biểu diễn của mình. Vì vậy, việc thành lập một tổ chức
nghề nghiệp hay hiệp hội chịu trách nhiệm quản lý tập thể quyền của người
biểu diễn góp phần tăng cường hiệu quả công tác bảo hộ loại hình quyền này.
Với thực trạng người biểu diễn tại Việt Nam có thể là một lao động trong biên
chế nhà nước, là lao động của một doanh nghiệp ngoài quốc doanh hay một
lao động tự do, cần thiết thành lập một tổ chức quản lý tập thể quyền của
người biểu diễn, tổ chức này có thể là đại diện và quản lý quyền cho người
biểu diễn thuộc mọi thành phần kinh tế và hoạt động biểu diễn trong mọi lĩnh
vực.
15
KẾT LUẬN
Trên đây là bài viết của tôi nói về quyền của người biểu diễn, có nêu
quyền của người biểu diễn là gì? Tại sao lại phải bảo hộ quyền của người biểu
diễn? Nội dung quyền của người biểu diễn theo pháp luật sở hữu trí tuệ Việt
Nam. Từ đó nêu lên những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về quyền
này. Qua đó, các bạn có thể hiểu một các khái quát các quyền của người biểu
diễn mà pháp luật sở hữu trí tuệ quy định cho họ.
Từ những nội dung này, tôi thấy chúng ta cần phải nhìn nhận quyền của
người biểu diễn một cách triệt để hơn. Từ đó mới có thể phát huy một các tốt
nhất sự sáng của người biểu diễn. Để làm được việc này, chúng ta cần tăng
cường việc tuyên truyền giáo dục về quyền của người biểu diễn, hoàn hiện hệ
thông pháp luật về quyền của người biểu diễn, thành lập các tổ chức để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người biểu diễn….
Trong quá trình thực hiện đề tài, với vốn kiến thức chuyên môn còn hạn
chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, tôi hy vọng cung cấp cho các
bạn một cái nhìn tổng quan về nội dung của các quyền của người biểu diễn.
Vậy nên, tôi rất mong các bạn và thầy cô góp ý để bài viết của tôi được hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
Giáo trình luật sở hữu trí tuệ Việt Nam- Đại học luật Hà Nội.
Bộ luật dân sự 2005.
Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự,
Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 17 tháng 10 năm 2006.
5. Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP
ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về
quyền tác giả và quyền liên quan, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10
tháng 11 năm 2011.
6. Công ước quốc tế bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và
tổ chức phát sóng (Công ước Rome).
7. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT) năm
1996.
8. Hiệp định Trips.
9. Web của cục sở hữu trí tuệ Việt Nam.
17
MỤC LỤC
18