Lời mở đầu
Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh dấu một bước ngoặt lịch sử
phát triển và tiến bộ của con người. Lênin đã coi sự ra đời của ngân
hàng như “sự phát minh ra bánh xe”. Theo thời gian, vai trò to lớn của
ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đã được khẳng định.
Một trong những vai trò lớn lao ấy và cũng là hoạt động thường
xuyên, chủ yếu của ngân hàng là cấp tín dụng. Trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tín dụng đặc biệt quan trọng trong
việc tài trợ cho các nhu cầu đầu tư của xã hội, góp phần phát triển và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra của cải và những lợi ích xã hội cho
đất nước.
Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động đều gắn liền với những bất trắc có
thể xảy ra, và trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, người ta gọi đó
là “rủi ro ngân hàng”. Tín dụng cũng là nghiệp vụ chứa đựng rất nhiều
rủi ro. Bất kỳ một sự tác động nào ảnh hưởng đến tính khả thi và tính
sinh lời của dự án đều có thể gây thiệt hại cho ngân hàng. Và do bản
chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nên khi các thiệt hại này lớn
đến mức độ nhất định, nó sẽ kéo theo tổn thất cho người gửi tiền và
cho toàn bộ nền kinh tế. Lịch sử đã chứng kiến hàng loạt những vụ đổ
bể tín dụng cảu các ngân hàng lớn, kể cả ở những đầu tàu kinh tế như
Mỹ, Nhật, EU... mà nguyên nhân trực tiếp và sâu xa chính là không
đảm bảo tín dụng. ở Việt Nam, Techcombank cũng hàng ngày hàng
giờ phải đối mặt với rủi ro tín dụng, nhất là khi thực hiện chủ trương
tăng tỷ lệ cho vay đối với nền kinh tế trong cơ cấu sử dụng vốn vay
như hiện nay. Và nguy cơ rủi ro cũng tăng theo tình hình chính trị,
kinh tế thế giới liên tục có nhiều biến động hết sức phức tạp, gây
khủng hoảng lòng tin của giới đầu tư vào những năm đầu của thiên
niên kỷ mới này.
Rủi ro tín dụng là vấn đề bức xúc hiện đang được quan tâm đặc
biệt ở nước ta trong kỳ chuyển đổi với việc phát triển cơ sở hạ tầng
hàng loạt và những dự án đầu tư vào những ngành xây dựng, các khu
công nghiệp. Là một ngân hàng mới đi vào hoạt động ở Việt Nam 15
năm, Techcombank phấn đấu trở thành một ngân hàng đô thị đa năng.
Muốn vậy, bản thân ngân hàng cần có các biện pháp hữu hiệu để ngăn
ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng một khi môi trường còn nhiều bất cập
và việc cho vay còn thiếu định hướng như hiện nay. Với mong muốn
được góp phần nhỏ bé vào mối quan tâm chung của toàn ngân hàng,
sau quá trình thực tập bổ ích tại Techcombank, em chọn đề tài nghiên
cứu cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “Một số phân tích đánh giá về
rủi ro tín dụng và biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam-Techcombank".
Chuyên đề chia làm 4 phần như sau:
1
Chương 1 : Tổng quan về rủi ro tín dụng cảu NHTM trong nền kinh
tế thị trường.
Chương 2 : Các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng và các
nghiệp vụ phòng ngừa.
Chương 3 : ứng dụng phân tích rủi ro tín dụng tại NHTM cổ phần
Kỹ thương Việ Nam-Techcombank.
Chương 4 : Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng tại NHTM cổ phần Kỹ thương Việt Nam-Techcombank.
Chuyên đề sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, sử dụng các số liệu thực tế để luận chứng thông qua các
phương pháp so sánh, thống kê, đồ thị, biểu đồ... Đặc biệt là phần
mềm Eviews đã giúp phần không nhỏ vào việc phân tích các mô hình
thực tế lượng hoá rủi ro tín dụng.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị trong phòng Kế hoạch tổng
hợp và quản trị rủi ro tại Hội sở chính Techcombank đã tạo điều kiện
giúp đỡ em trong quá trình thực tập. Đặc biệt xin chân thành cảm ơn
sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Trần Bá Phi giúp cho em hoàn thành
chuyên đề này.
2
Danh mục các từ viết tắt
*
*
*
1. Techcombank: Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương Việt
Nam (Technological Commercial Join-Stock Bank of Viet Nam).
2. NHTM:
Ngân hàng thương mại.
3. NHNN:
Ngân hàng Nhà nước.
4. DN:
Doanh nghiệp.
5. DNNH:
Doanh nghiệp Nhà nước.
6. TCTD:
Tổ chức tín dụng.
7. CQ HCSN:
Cơ quan Hành chính sự nghiệp.
8. NQH:
Nợ quá hạn
3
Chương I: Tổng quan về rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương
mại (NHTM) trong nền kinh tế
thị trường.
I.Tín dụng của NHTM
1.Khái niệm NHTM
Có rất nhiều định nghĩa về NHTM
• Luật Ngân hàng Pháp (năm 1941) định nghĩa: “ Được coi là Ngân
hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên
nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay các hình thức
khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiêt
khấu, tín dụng hay các nghiệp vụ tài chính”.
• Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam thì: “Ngân hàng
thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng ới trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm nhiệm vụ thanh toán”.
Định nghĩa trên khẳng định NHTM là một doanh nghiệp hoạt động
vì mục tiêu lợi nhuận, đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ . Trong
đó hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện bằng cách
thu vốn trong xã hội để cho vay.
Ngày nay, trong xu thế hiện đại, rất nhiều tổ chức tài chính phi
ngân hàng như bảo hiểm, công ty kinh doanh chứng khoán, công ty
môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ đều cố gắng cung cấp các dịch vụ
ngân hàng. Tuy nhiên, ta có thể phân biệt được NHTM với các tổ
chứcc phi tài chính này ở chỗ: NHTM là ngân hàng kinh doanh tiền
gửi, chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn, chính từ những hoạt động đó
đã tạo cho NHTM có thể làm tăng bội số tiền gửi của khách hàng
trong hệ thống ngân hàng cảu mình. Đó là đặc trưng cơ bản để phân
biệt NHTM với các tổ chức tín dụng khác. NHTM cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, có phạm vi rộng lớn; trong khi
các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một lĩnh vực hẹp và
theo hướng chuyên sâu.
2. Tín dụng và vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
2.1 Khái niệm và đặc điểm tín dụng của Ngân hàng
2.1.1.Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng là quan hệ vay mượn dưới dạng tiền tệ hoặc hàng hoá, có
hoàn trả gốc và lãi giữa bên cho vay (như ngân hàng và các tổ chức tín
dụng khác) và bên đi vay (như chính phủ, doanh nghiệp, dân cư...)
Khái niệm tín dụng có nguồn gốc từ thuật ngữ Latinh Credittum và
được hiểu là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được hình thành từ rất
sớm, không ngừng phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Lúc đầu
tín dụng được xuất hiện dưới hình thức cho vay nặng lãi, nhưng hình
thức tín dụng này đã kìm hãm sản xuất kinh doanh hàng hoá do tính
4
chất trục lợi cao của nó. Do nhu cầu phát triển của nền kinh tế, hình
thức tín dụng mới phù hợp đã xuất hiện, đó là tín dụng thương mại.
Hình thức tín dụng này tồn tại khá lâu với nhiều điểm tích cực, nhưng
cũng có những điểm hạn chế: quan hệ tín dụng chỉ diễn ra trong phạm
vi nhỏ, đó là các đơn vị có quan hệ trực tiếp, có thông tin đầy đủ về
nhau. Vì vậy, để khăc phục những nhược điểm của tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng đã ra đời vào năm 1694 tại Anh. Cùng với
những ưu việt của mình, ngày nay tín dụng ngân hàng đã được phát
triển khắp toàn cầu.
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ, giữa một bên
là ngân hàng-một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với
một bên là các tổ chức, các cá nhân trong xã hội. Bằng nhiều hình thức
cho vay, chiết khấu thương phiếu và cá giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho
thuê tài chính, tín dụng ngân hàng đã trở thành công cụ quan trọng,
thúc đẩy sự tích tụ và tạo lập vốn . Khác với tín dụng thương mại, tín
dụng ngân hàng không cung cấp tín dụng dưới nhiều hình thức hàng
hoá (hiểu theo nghĩa hẹp), mà dưới hình thức tiền tệ, bao gồm tiền
mặt và bút tệ.
2.1.2.Đặc điểm của tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng là một loại hình kinh doanh tiền tệ phức tạp và
mang tính đặc trưng trong hoạt động ngân hàng. Tính phức tạp của nó
do đối tượng kinh doanh là tiền tệ; và ở đây tiền tệ đã bị tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền sử dụng khi cho vay. Theo Các Mác thì: “Tín
dụng - dưới hình thức biểu hiện của nó là sự tín nhiệm, ít nhiều có căn
cứ đã khiến cho người này giao cho người khác một số tư bản nào đó
dưới hình thái hàng hoá được đánh giá thành một số tiền nhất định. Số
tiền này bao giờ cũng phải được trả lại trong một thời hạn đã được ấn
định”. Sự hoàn trả này không chỉ bảo toàn về mặt giá trị mà còn được
tăng thêm dưới hình thức lợi tức. Như vậy, tín dụng ngân hàng có đặc
điểm cơ bản sau:
♦ Huy động vốn và cho vay đều thực hiện dưới hình thức tiền tệ.
Nguồn vốn tín dụng mà ngân hàng cho vay được hình thành từ
những khoản tiền trong xã hội mà ngân hàng huy động được.
♦ Các ngân hàng đóng vai trò trung gian trong qua trình huy
động vốn và cho vay. Khi huy động vốn của xã hội, ngân hàng được
xem là người đi vay; trong hoạt động tín dụng, ngân hàng lại là
người cho vay.
♦ Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng
không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá. Khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì nhu cầu về
vốn đầu tư tăng mạnh nhưng nguồn vốn trong nền kinh tế lại giảm
và ngược lại.
5
Như vậy, sự vận động của tín dụng ngân hàng mang tính chất
độc lập tương đối so với sự vận động của quá trình tái sản suất xã
hội và sự hoàn trả là sự đặc trưng cơ bản của tín dụng, là cơ sở
phân biệt tín dụng với phạm trù kinh tế khác.
2.2.Vai trò của tín dụng trong nền kinh tế thị trường
2.2.1.Ý nghĩa hoạt động tín dụng đối với ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh
tế cơ bản của ngân hàng.Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín
dụng thường chiếm hơn tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm
khoảng từ 1/3 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Thêm nữa, rủi ro
trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu voà danh
mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn
nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng
của ngân hàng. Việc ngân hàng không thu hồi được vốn, có thể là do
ngân hàng đã buông lỏng quản lý, cấp tín dụng không minh bạch, áp
dụng một chính sách tín dụng kém hiệu quả, hay do nền kinh tế đi
xuống không lường trước. Chính vì vậy, điều không ngạc nhiên khi
thanh tra đến ngân hàng, họ luôn kiểm tra toàn bộ danh mục tín dụng
ngân hàng, bao gồm: phân tích chi tiết các hồ sơ tín dụng và hồ sơ bảo
đảm tín dụng đối với các khoản tín dụng lớn, kiểm tra ngẫu nhiên các
khoản tín dụng vừa và nhỏ, trên cơ sở đó đánh giá chính sách tín dụng
của ngân hnàg nhằm đảm bảo lành mạnh và hiệu quả để bảo vệ những
người gửi tiền và cổ đông của ngân hàng.
2.2.2.Vai trò của tín dụng đối với doanh nghiệp
♦ Tín dụng là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho doanh nghiệp:
Các nguồn vốn của doanh nghiệp chủ yếu do ba loại: nguồn từ ngân
sách Nhà nước (đối với các doanh nghiệp nhà nước), nguồn tự có dưới
dạng các quỹ, nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng. Nguồn tự có và nguồn
từ Ngân sách nhà nước lại có hạn nên vốn từ ngân hàng là cứu cánh
cho doanh nghiệp. Thông qua tín dụng của ngân hàng, doanh nghiệp
có được nguồn ngân sách để tăng quy mô sản suất, tăng năng suất lao
động, đổi mới trang thiết bị. Đó là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp.
♦ Tín dụng ngân hàng có vai trò nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp:
Trong thời đại công nghệ thông tin, cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa
các doanh nghiệp về các mặt nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm,
hạ giá thành nhằm giành thị phần lớn hơn. Điều đó không có gì khác
hơn là đầu tư vào việc áp dụng tiến bộ khao học công nghệ vào sản
suất. Cũng có nghĩa là đầu tư để đổi mới, để huy động thêm các nguồn
lực mới. Không ai khác, chính ngân hàng là một ông chủ đầu tư cho
6
doanh nghiệp. Điều đó cũng có nghĩa là tín dụng ngân hàng đã góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
♦ Tín dụng ngân hàng có vai trò duy trì sự cân bằng trong hoạt
động doanh nghiệp thông qua chi trả các khoản nợ;
Doanh nghiệp thường có nhu cầu vay trung và dài hạn để thanh
toán cho các khoản nợ khi không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ vay
đến hạn; vay dài hạn ngân hàng để thanh toán cho trái phiếu được
quyền mua lại (có lãi suất lúc phát hành cao). Việc đi vay trung và dài
hạn ngân hàng để thanh toán các khoản nợ là cần thiết.
2.2.3.Vai trò của tín dụng đối với nền kinh tế
♦ Tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả cho nền
kinh tế:
Tín dụng ngân hàng đáp ứng vốn để duy trì quá trình tái sản suất,
đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. Do đặc điểm của tuần
hoàn vốn, nên trong quá trình sản suất kinh doanh của các doanh
nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa
lượng tiền cần thiết để dự trữ vật tư, hàng hoá cho quá trình sản suất
kinh doanh trước đó. Do đó, luân chuyển tiền tệ của các nguồn tiết
kiệm từ dân cư, nguồn kết dư từ ngân sách... được NHTM huy động và
sử dụng để đầu tư cho các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho
nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá nhu cầu của dân chúng, cũng như
cho yêu cầu chi của Ngân sách Nhà nước trong lúc chưa có nguồn
thu... Như vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn một cach
có hiệu quả trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy qúa trình tập trung vốn và tập trung
sản suất thông qua việc tập trung và ưu tiên vốn cho các ngành kinh tế
mũi nhọn, kinh tế trọng điểm, là những nơi có nhu cầu vốn cực lớn. Từ
đó tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao sức mạnh sức cạnh tranh của
nền kinh tế, tạo điều kiện để phát triển nền kinh tế với nước ngoài.
Tín dụng ngân hàng thúc đẩy quá trình luân chuyển hàng hoá và lưu
chuyển tiền tệ thông qua việc tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực
hiện các cơ hội đầu tư cho sản suất kinh doanh của mình. Ngoài ra, tín
dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tăng thêm sức mạnh trong cạnh
tranh, vươn lên tồn tại và phát triển trên thương trường như đã trình
bày trên.
♦ Tín dụng ngân hàng là công cụ của Nhà nước điều tiết khối lượng
tiền tệ lưu thông trong nền kinh tế:
Như chúng ta đã biết, khi ngân hàng cấp tín dụng cho nền kinh tế,
cùng với khả năng “tạo tiền”, các bút tệ sẽ được phân rộng, tức là đã
tạo ra một khả năng cung ứng tiền tệ. Và hiệu ứng ngược lại sẽ xảy ra
khi các NHTM thu hẹp tín dụng. Chính từ khả năng này, tín dụng ngân
hàng đã được Nhà nước sử dụng như là một công cụ để điều tiêt khối
lượng tiền tệ lưu thông qua hệ thống các chính sách tiền tệ của NHNN
7
như: dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất chiết khấu, công cụ
thị trường mở,...
♦ Tín dụng ngân hàng thoả mãn nhu cầu đầu tư tiết kiệm và mở
rộng đầu tư của nền kinh tế:
Tín dụng NHTM là công cụ giúp Nhà nước thực hiện tốt chính sách
tiền tệ, đồng thời cũng giúp NHTM có một môi trường kinh doanh tốt.
Với sức mua đồng tiền ổn định sẽ tạo tâm lý an tâm trong dân chúng,
từ đó huy động được tối đa các nguồn vốn tiềm tàng trong xã hội, thoả
mãn cao nhất nhu cầu mở rộng đầu tư của nền kinh tế. Mặt khác với
hoạt động tín dụng, NHTM trở thành trung gian tài chính đặc biệt có
khả năng giảm thiểu chi phí và rủi ro, do đó đã thoả mãn nhu cầu tiết
kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế.
2. Phân loại tín dụng ngân hàng
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng cho nhiều đối tượng
khách hàng với những mục đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn
và có cai nhìn tổng quát về các loại tín dụng, người ta phân loại tín
dụng theo một số tiêu chí sau:
3.1.Theo thời hạn tín dụng
Dựa theo tiêu thức này tín dụng được chia làm ba loại:
• Tín dụng ngán hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm,
thường được sử dụng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về
vốn lưu động của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu
sinh hoạt, tiêu dùng của các cá nhân.
• Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm.
Loại tín dụng này được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu
mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng
và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
• Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại
tín dụng này được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ
bản, cải tiến và mở rộng sản suất có quy mô lớn, thời gian thu
hồi vốn lâu hơn.
3.2.Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn tín dụng
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
• Tín dụng sản suất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng được
cung cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành sản suất và kinh
doanh.
• Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng sử dụng cho cá nhân
để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, được cung ứng dưới hình thức
bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hoá. Ngày nay, tín dụng
tiêu dùng đã trở thành một trong những xu hướng phát triển và
trở thành một thị trường tín dụng rộng lớn.
3.3.Căn cứ vào sự đảm bảo tín dụng
8
Theo tiêu thức này, tín dụng được chia làm hai loại:
• Tín dụng không đảm bảo (tín chấp): là loại tín dụng không có tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc
cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách hàng.
• Tín dụng có đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay đòi hỏi
người vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh
của người thứ ba.
3.4.Căn cứ vào hình thái giá trị tín dụng
Gồm hai loại:
• Tín dụng bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị tín dụng
được cấp bằng tiền.
• Tín dụng bằng tài sản: là loại tín dụng mà hình thái giá trị của
tín dụng được cấp bằng tài sản (chủ yếu là hình thức thuê muaLeasing).
3.5.Căn cứ vào phương pháp cho vay
Gồm hai loại:
• Tín dụng trực tiếp: là loại tín dụng mà người vay trực tiếp nhận
tiền vay và trực tiếp hoàn trả nợ vay cho NHTM.
• Tín dụng gián tiếp: là loại tín dụng mà quan hệ tín dụng có thông
qua hay liên quan đến người thứ ba.
3.6.Căn cứ vào phương thức hoàn trả
Gồm ba loại:
• Tín dụng trả góp: là loại tín dụng mà khách hàng hoàn trả vốn
gốc và lãi theo định kỳ.
• Tín dụng phi trả góp: là loại tín dụng được thanh toán một lần
theo kỳ hạn đã thoả thuận.
• Tín dụng trả theo yêu cầu: là loại tín dụng mà người vay có thể
hoàn trả bất cứ lúc nào khi có thu nhập.
3.7. Căn cứ theo rủi ro
• Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi
cao.
• Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng chậm tiếp thu tiến độ, thực hiện kế hoạch
bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo
cáo tài chính.
• Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với
thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản
đảm bảo có giá trị lớn.
• Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất
kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị tụt giá, chây ì...
3. Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng tín dụng ngân hàng
9
Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng
là rất khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào:
4.1.Các đặc trưng thuộc lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cung cấp
Mỗi ngân hàng phải đáp ứng những nhu cầu cụ thể về tín dụng
của khách hàng trong lĩnh vực dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Ví dụ,
các ngân hàng hoạt động ở vùng ngoại ô thường có đội ngũ khách
hàng đông đảo là những hộ gia đình, các cửa hàng mua bán lẻ, các cá
nhân với những khoản tín dụng nhỏ. Ngược lại, các ngân hàng hoạt
động ở thành phố thường có đội ngũ khách hàng đông đảo là các siêu
thị, trụ sở các công ty, các cơ sở sản xuất với những khoản tín dụng
lớn.
4.2. Quy mô ngân hàng
Nhìn chung, các nước đều quy định, dư nợ tín dụng cho một
khách hàng phụ thuộc vào quy mô vốn tự có của ngân hàng. Các ngân
hàng thường cung cấp các khoản tín dụng lớncho các doanh nghiệp và
công ty; các ngân hàng nhỏ lại tập trung vào các khoản tín dụng nhỏ
cho các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa hàng tư nhân. Như
vậy, quy mô ngân hàng cũng là nhân tố xác định quy mô tín dụng và
chủng loại tín dụng của ngân hàng.
4.3. Tỷ suất lợi nhuận dự tính
Tính đa dạng của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào tỷ suất lợi nhuận
dự tính đối với từng nhóm tín dụng. Với các nhân tố khác không đổi,
ngân hàng sẽ ưu tiên cấp nhưng khoản tín dụng mang lại lợi nhuận
ròng lớn nhất sau khi đã trừ các chi phí và rủi ro tín dụng dự tính. Quy
mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận ròng đối
với các nhóm tín dụng khác nhau. Nhìn chung, các ngân hàng nhỏ
thường có tỷ suất lợi nhuận cao đối với tín dụng thương mại và bất
động sản; trong khi đó các ngân hàng lớn lại có ưu thế trong việc cấp
thẻ tín dụng cho các cá nhân và hộ gia đình. Điều hiển nhiên là quy
mô khách hàng cũng giống như quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng
kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng. Ví dụ, ngân hàng lớn cấp tín dụng
cho khách hàng lớn thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn, bởi vì mức
rủi ro tín dụng thấp và áp lực cạnh tranh cao hơn. Ngược lại, tín dụng
của ngân hàng nhỏ cấp cho công ty vừa và nhỏ thường có mức lãi suất
cao hơn.
5.Chất lượng tín dụng và xếp hạng ngân hàng
Chất lượng danh mục tín dụng và chính sách tín dụng của ngân
hàng luôn là đối tượng kiểm tra của thanh tra ngân hàng. ở Mỹ, cán bộ
thanh tra tiến hành xếp hạng chất lượng tài sản có của ngân hàng (bao
gồm cả tín dụng) theo các cấp độ bằng số như sau:
1 = Hoạt động tốt (strong performance).
2 = Hoạt động khá (satisfactory performance).
3 = Hoạt động trung bình (fair performance).
10
4 = Hoạt động bên bờ thua lỗ (marginal performace).
5 = Hoạt động thua lỗ (unsatisfactory performance).
Ngân hàng nào được đánh giá càng cao thì càng it bị nhà chức để
ý và bị thanh tra. Cán bộ thanh tra thường kiểm tra tất cả các khoản tín
dụng có số dư lớn hơn một mức quy định nào đó, còn các khoản tín
dụng nhỏ hơn thì chỉ tiến hành kiểm tra ngẫu nhiên. Những khoản tín
dụng hoạt động tốt, nhưng có một vài điểm yếu nhỏ như đã không tuân
thủ chính xác quy trình tín dụng hay không lưu trữ đầy đủ hồ sơ khách
hàng được gọi là “tín dụng có thiếu sót” (criticized loans). Những
khoản tín dụng chứa đựng những điểm yếu căn bản hay theo nhà thanh
tra là nguy hiểm như tập trung quá lớn cho một khách hàng hay một
ngành nghề nào đó được gọi là “tín dụng tập trung” (scheduled loans).
Khi cán bộ thanh tra phát hiện ra những khoản tín dụng chứa đựng
rủi ro không trả được nợ ngay lập tức theo nhơ thoả thuận, thì chúng
được xếp vào tín dụng xấu (adversely classified). Các khoản tín dụng
xấu được phân thành 3 nhóm:
• Tín dụng dưới tiêu chuẩn (substandard loans): Ngân hàng bộc lộ
rủi ro do chất lượng bảo đảm tín dụng giảm sút hay khách hàng
có biểu hiện mất khả năng trả nợ.
• Tín dụng có vấn đề (doubtful loans): Khả năng tổn thất tín dụng
là rất lớn đối với ngân hàng.
• Tổn thất tín dụng (loss loans): Bao gồm những khoản tín dụng
không thu hồi được gốc và lãi.
Tổng tổn thất tín dụng đối với ngân hàng được tính theo quy tắc
chung là:
- Lấy dư nợ nhóm “tín dụng dưới tiêu chuẩn” nhân với hệ số
0,20.
- Lấy dư nợ nhóm “ tín dụng có vấn đề” nhân với hệ số 0,50.
- Lấy dư nợ nhóm “tổn thất tín dụng” nhân với hệ số 1,00.
Cộng kết quả của các nhóm lại ta tính được tổng tổn thất tín
dụng đối với ngân hàng. Nếu tổng tổn thất tín dụng lớn hơn quỹ dự trữ
tổn thất tín dụng và vốn cổ phần của ngân hàng, thì cán bộ thanh tra có
thể yêu cầu ngân hàng thay đổi chính sách cho vay hay yêu cầu ngân
hàng phải bổ sung quỹ dự trữ tổn thất tín dụng và vốn cổ phần.
Tuy nhiên, chất lượng tín dụng và các tài sản có khác của ngân
hàng mới chỉ là một khía cạnh phản ánh chất lượng hoạt động của
ngân hàng nói chung. Việc xếp hạng ngân hàng còn dựa vào sự xem
xét của cán bộ thanh tra về các tiêu chí như: vốn chủ sở hữu, chất
lượng quản lý, biểu đồ thu nhập. Khả năng thanh khoản, và mức độ
nhạy cảm của rủi ro thị trường. Các tiêu chí này được biết đến khá
rộng rãi với tiêu đề “CAMELS”, bao gồm: Capital adequacy, Asset
quality, Management quality, Earnings record, Liqudity position,
Sensitivity to market risk.
11
Những ngân hàng có hệ số xếp hạng tổng hợp theo tiêu chí
CAMELS càng thấp, thì càng bộc lộ rủi ro, nên được các nhà thanh tra
xếp vào nhóm 4 hay 5; những ngân hàng có hệ số xếp hạng tổng hợp
cao hơn sẽ được xếp vào các nhóm từ 1 đến 3.
4. Chính sách tín dụng ngân hàng
Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng ngân
hàng đáp ứng được tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc hình
thành một “chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả”. Chính sách tín
dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn
chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng danh mục đầu tư
tín dụng của ngân hàng. Thông qua kết cấu danh mục tín dụng của một
ngân hàng, ta có thể biết được chính sách tín dụng của ngân hàng này
là như thế nào. Nếu một chính sách tín dụng hoạt động không hiệu quả
thì phải tiến hành kiểm tra hoặc phải được tăng cường quản lý bởi ban
lãnh đạo ngân hàng.
Vậy những nội dung cơ bản của chính sách tín dụng là gì? Sau đây
là những yếu tố quan trọng nhất thường cấu thành trong chính sách tín
dụng của một ngân hàng:
1.Mục đích của danh mục tín dụng ngân hàng, bao gồm các
đặc điểm của một danh mục tín dụng tôt xét theo các tiêu chí
như: các loại tín dụng, các độ lớn tín dụng và chất lượng tín
dụng.
2.Phân hạng thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín
dụng và từng hội đồng tín dụng (quy định mức cho vay tối đa,
các loại tín dụng được phép và chữ ký của người có trách
nhiệm).
3.Phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo
thông tin trong nội bộ phòng tín dụng.
4.Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định
đối với đơn xin vay của khách hàng.
5.Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì
phải được lưu giữ tại ngân hàng (ví dụ như các báo cáo tài chính,
hợp đồng boả đảm tín dụng...).
6.Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ ngân hàng, cụ
thể ai là người chịu trách nhiệm duy trì và kiểm tra hồ sơ tín
dụng.
7.Các chỉ dẫn nhận, định giá và hoàn tất hồ sơ bảo đảm tín
dụng.
8.Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín
dụng, mức phí và các điều kiện hoàn trả nợ vay.
9.Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung
cho tất cả các loại tín dụng.
12
10.Quy định giới hạn tín dụng tối đa, nghĩa là quy địng tỷ
lệ “tổng dư nợ/tổng tài sản” được phép tối đa.
11.Quy định lĩnh vực hoạt động chính của ngân hàng, từ đó
có xu hướng cụ thể.
12.Các phương án ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích
và xử lý tín dụng có vấn đề.
Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng ngân hàng, nhà quản lý có thể
bổ sung thêm những quy định cho phù hợp. Ví dụ, có ngân hàng quy
định không cấp một số loại tín dụng nhất định, nhưng lại quy định ưu
tiên đối với một số loại tín dụng khác...
Chính sách tín dụng ngân hàng mang lại nhiều ưu điểm trong
quá trình thực hiện cho vay. Trước hết đối với cán bộ tín dụng, họ biết
được cần phải làm như thế nào khi tiến hành một khoản cho vay và
biết được trách nhiệm của mình đến đâu. Đối với ngân hàng, thông
qua chính sách tín dụng, ngân hàng có thể đạt được một danh mục tín
dụng đa mục đích, như làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được
tiềm ẩn rủi ro và đáp ứng được đòi hỏi từ nhà quản lý. Bất kỳ một
ngoại lệ nào trong chính sách tín dụng ngân hàng cũng phải được quy
định đầy đủ, và các lý do tại sao lại có sự ngoại lệ cũng phải được liệt
kê.
II.Rủi ro tín dụng của NHTM trong nền kinh tế thị trường
1.Rủi ro trong kinh doanh của NHTM
Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
1.1.Các loại rủi ro trong kinh doanh của NHTM
NHTM, như đã trình bày, là loại hình doanh nghiệp kinh doanh
loại hàng hoâ đặc biệt - hàng hoá tiền tệ. Đa phần trong đó là các
khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các NHTM
đang có thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân
hàng, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính dưới ảnh hưởng
của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hoá. Nguồn tiền gửi của
cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với
lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một ngân hàng trong việc
tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định
của cả hệ thống. Tài sản của ngân hàng chủ yếu là các động sản tài
chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi
ro tín dụng rất cao. Công nghệ ngân hàng cho phép ngân hàng có thể
chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng, các thị trường khác
nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này một mặt cho phép ngân hàng
giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hoá khách hàng, đa dạng sản phẩm
và thị trường, song mặt khác cũng làm tăng tính rủi ro do tính biến
động lớn trên thị trường thế giới và khu vực, do thông tin sai lệch...
Sau đây là một vài dẫn chứng về tổn thất trong hoạt động của
ngân hàng:
13
-Vào những năm 70, các NHTM nước ngoài các nước kém
phát triển (LDSs) vay hàng trăm tỷ đô la. Vào những năm 80,
các khoản cho vay này trở nên khó thu hồi (khủng hoảng nợ),
các NHTM bị thua lỗ rất lớn.
-Ngân hàng Llinoi 1984, ngân hàng BOA 1991 cả hai đều
gặp phải sự giảm sút rất lớn của tiền gửi, dẫn đến mất khả năg
thanh toán.
-Vào những năm 90, NHTM Nhật và các hãng chứng khoán
gặp nguy khốn bởi sự sụp đổ của thị trường bất động sản và thị
trường chứng khoán ở Nhật.
-1987 Merrill Lynch mất 350 triệu USD do việc năm
chứng khoán thế chấp khi lãi suất tăng đột ngột.
-1992 JP Morgan mất 200 triệu USD trong trường hợp
tương tự khi lãi suất giảm.
-Đầu những năm 90, các quỹ tín dụng ở Việt Nam sụp đổ
hàng loạt (khủng hoảng dây chuyền) gây tổn thất lớn cho những
người gửi tiền tiết kiệm.
Trong các trường hợp trên, các trung gian tài chính đều
thất bại trong quản lý thanh khoản và rủi ro. Rủi ro của ngân
hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song
đều có bản chất chung, đó là khả năng xảy ra những tổn thất cho
ngân hàng.
Một số quan điểm cho rằng rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể
xảy ra đối với ngân hàng. Một số khác lại cho rằng rủi ro chỉ là
những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Ví dụ, ngân hàng
đang chuyển hoán từ nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài
hạn sẵn sàng chấp nhận chi phí nguồn vốn cao hơn khi lãi suất
thay đổi để thu lãi cao hơn. Chỉ khi nào lãi suất nguồn tăng vượt
dự kiến làm lợi nhuận của ngân hang giảm sút thì lúc đó mới nảy
sinh rủi ro lãi suất. Như vậy rủi ro của ngân hàng phải gắn liền
với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm có: Rủi ro trong
quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro rín dụng, rủi ro trong
quản lý và kinh daonh chứng khoán, rủi ro trong thuê và rủi ro
đối với các tài sản khác của ngân hàng. Phân chia rủi ro theo
nguyên nhân - các nhân tố tác động - gồm có rủi ro do người vay
không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do
tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân kkhác như: mất trộm,
cháy, giấy tờ giả...Sau đây là các phân loại rủi ro phổ biến.
1.1.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc
không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ
14
thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy
nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến
cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự
kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến
lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự
kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý.
1.1.2 Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong
cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng
với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc
thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên, có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến
dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
1.1.3. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay
đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn
vốn) thường xuyên biến động với mức độ khác nhau có thể dẫn đến
tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng.
1.1.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân
hàng khi nhu cầu thanh toán thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự
kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc
làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
1.1.5. Rủi ro tồn đọng vốn
Rủi ro tồn đọng vốn xảy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho
vay và đầu tư làm thu nhập của ngân hàng giảm sút.
1.1.6. Các rủi ro khác
Các rủi ro khác là khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn
trong thanh toán, hoả hoạn...
1.2 ảnh hưởng của rủi ro đối với ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động NHTM, phản ánh các tình huống
bất thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra,
trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và
thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá, nếu
không được kịp thời chấn chỉnh, sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt
cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp
nhập, hoặc thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng và lãi suất
có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người gửi tiền rút
tiền ra khỏi ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa hoặc tuyên bố
phá sản. Tổn thất (ở mức thấp), làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và
quỹ của ngân hàng. Để đối phó với tình huống trên, ngân hàng có thể
phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động...đẫn đến các
ảnh hưởng không tốt về nhân sự, về thị trường nguồn hoặc công nghệ.
15
1.3.Các nguyên nhân gây ra rủi ro trong kinh daonh của ngân
hàng
Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng:
Thứ nhất, do chủ quan khách hàng: làm ăn thua lỗ hoặc kém
hiệu quả, cố tình chây ì hoặc lừa đảo của khách hàng... dẫn đến không
trả được nợ cho ngân hàng.
Thứ hai, do quản lý yếu kém hoặc tham ô của nhân viên, hoặc
cố tình làm sai quy định để mưu lợi riêng.
Thứ ba, do các thay đổi bất thường trên thị trường vượt quá khả
năng phán đoán của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng
hoảng nợ dây chuyền, những thay đổi trong quyết định của Chính phủ.
2.Rủi ro tín dụng
2.1Bản chất rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng không trả, hoặc không
trả đúng hạn, hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy
mô lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt
động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người
vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết
định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên,
không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính
xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng
có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân
hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do
vậy trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là
không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng,
rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn
chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy rủi ro dự kiến luôn được xác định
trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
2.2. Các nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Có nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng:
2.2.1.Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm
họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ví dụ: thiên tai, chiến
tranh hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi từ Chính phủ, chính
sách kinh tế, hàng rào thuế quan...) vượt qua tầm kiểm soát của người
vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới
người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người
vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc
phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể
bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho ngân hàng đúng hạn, đủ
gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả
16
kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy
giảm.
2.2.2. Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh
doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng,
chây ì... là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất nhièu người vẫn sàng
mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích
của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như
cung cấp thông tin sai, mua chuộc... Nhiều người vay đã không tính
toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích
ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn
lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng
đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay
càng lâu càng tốt.
2.2.3. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng
hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai... là một trong những nguyên
nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều
ngành nghề, nhiều vùng, thâm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ
phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi
trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề
liên quan đến người vay... Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự
đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho
vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kỹ lưỡng, rủi
ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều
nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi sự cám dỗ cảu đồng tiền. Họ
tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân
viên ngân hàng bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không bảo
đảm là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
3. Một số biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng
Trên cơ sở nghiên cứu về rủi ro tín dụng, đặc biệt là các nguyên
nhân gây ra rủi ro tín dụng, để ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng,
các NHTM thường áp dụng các biện pháp sau:
3.1. Các biện pháp phòng ngừa
3.1.1. Xây dựng chính sách cho vay
Mỗi một NHTM đều xây dựng cho mình một chính sách tín dụng
riêng dưới những hình thức khác nhau. Song nói chung, nó là một văn
bản đưa ra những triết lývà khái niêm cơ bản trong hoạt động cho vay
bao gồm các tiêu chuẩn, các hướng dẫn và phạm vi áp dụng quy trình
đưa ra các quyết định cho vay.
Trên cơ sở nghiên cứu về thị trường, môi trường kinh doanh,
chính sách tín dụng đưa ra các tiêu thức sau:
17
• Xác định mục tiêu: Tăng trưởng tài sản có, tồn tại dư nợ, tăng
lợi nhuận, khống chế tỷ lệ thua lỗ, hạn chế sự tập trung vốn để
phân tán rủi ro, nâng cao chất lượng đầu tư,tuân thủ các quy
định của các cơ quan có thẩm quyền...
• Xác định thẩm quyền của từng bộ phận và cán bộ: Quy định
trách nhiệm của ban giám đốc, chức năng và quyền hạn của
phòng tín dụng, các cán bộ quan sát, quản lý...
• Thiết lập các tiêu thức tín dụng: Quy định các khoản cho vay có
thể chấp nhận, các yếu tố cần xem xét khi quyết định cho vay,
các tiêu thức đối với các khoản vay không được đảm bảo, quy
định quan hệ giữa vốn vay và tài sản đảm bảo, cách xác định kỳ
hạn cho vay, phương pháp và mức độ điều tra tín dụng, quy định
việc gia hạn nợ vay...
• Xác lập các phương pháp kiểm tra kiểm soát: Các loại tài liệu
chứng từ cần có trong hồ sơ tín dụng, lịch trình kiểm soát các
khoản vay, quy định việc báo cáo các vấn đề liên quan với các
cấp quản lý ngân hàng...
3.1.2. Phân tích đánh giá về khách hàng
• Phân tích về mặt pháp lý: Thông qua các tài liệu về tư cách pháp
nhân, năng lực pháp lý của khách hàng.
• Phân tích tình hình sản suất kinh doanh: Thông qua việc xem xét
chiến lược kinh doanh của khách hàng về: chính sách sản phẩm;
chính sách khách hàng; tổ chức mạng lưới kinh doanh; khả năng
sinh lợi...
• Phân tích tình hình tài chính: Quy mô hoạt động; hiệu quả hoạt
động tài chính; năng lực kinh doanh, tình hình công nợ, các tỷ số
tài chính....
• Đánh giá chủ DN: Năng lực và phẩm chất của người điều hành
về khả năng kinh doanh và uy tín trên thị trường, với ngân
hàng...
3.1.3. Phân tích dự án vay vốn của người vay
• Phân tích tính pháp lý trên các mặt: Mục đích đầu tư của dự án
phù hợp với mục đích hoạt động của DN, không trái pháp luật và
được cấp có thẩm quyền phê duyệt...
• Phân tích tính khả thi của dự án về các mặt: thị trường nguyên
liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm; hiệu quả kinh tế do
dự án đêm lại; giá thành và giá bán của sản phẩm; khả năng đáp
ứng về vốn cho dự án, nguồn trả nợ của dự án...
3.1.3 Phân tán rủi ro
Thông qua việc đa dạng hoá danh mục cho vay; cho vay nhiều
ngành, nhiêu lĩnh vực; nhiều thành phần kinh tế; nhiều DN; phối hợp
18
với các ngân hàng khác cho vay hợp vốn; mở rộng nhiều hình thức tín
dụng...
3.1.4 Cơ chế đảm bảo tiền vay
Phối hợp thực hiện nhiều biện pháp nợ vay: cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh...; có các quy định rõ ràng và đủ hiệu lực pháp luật về tiêu
chuẩn tài sản đảm bảo; căn cứ để định giá trị tài sản đảm bảo; các
nguyên tắc, điều kiện, thủ tục của quan hệ đảm bảo tiền vay; các
nguyên tắc xử lý tài sản đảm bảo; để thu hồi nợ...
3.1.5 Cơ chế quản lý theo dõi nợ
Có một quy định cụ thể về quy trình, cách thức, các bước tiến
hành kiểm tra, thẩm định trước, trong và sau khi cho vay, đối với từng
loại cho vay; quy trình xét duyệt cho vay, trách nhiệm, nghĩa vụ của
các cấp tiến hành thẩm định, xét duyệt và quyết định cho vay.
3.1.6. Thiết lập các hồ sơ tín dụng đảm bảo tính pháp lý
Cần phải đánh giá chính xác về tính hợp pháp và hợp lệ của hồ
sơ vay vốn. Đảm bảo hồ sơ vay vốn phải đủ các cơ sở về mục đích vay
tiền, khả năng tài chính của người vay, tính khả thi của phương án
hoặc dự án xin vay và khả năng tài chính của người vay, khả năng
hoàn trả nợ đầy đủ đúng hạn của người vay từ chính hiệu quả dự án
đầu tư mang lại; hồ sơ đảm bảo nợ vay được thiết lập theo đúng cơ chế
về đảm bảo tiền vay; các giấy tờ, văn bản trong hồ sơ phải đảm bảo
tính thông nhất, chặt chẽ và có hiệu lực pháp lý cao.
3.1.7. Nâng cao chất lượng công tác thông tin ứng dụng
Đảm bảo các NHTM luôn nhận được các thông tin tín dụng đầy
đủ, chính xác và nhanh chóng, các luồng thông tin phải có tính cập
nhật cao, đảm bảo tính pháp lý khi đưa vào hồ sơ tín dụng...
3.1.8. Chọn lọc đội ngũ cán bộ tín dụng
Cần phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi thể hiện, được đào
tạo có hệ thống, am hiểu và có kiến thức phong phú về thụ trường đặc
biệt trong lĩnh vực tham gia đầu tư vốn, nắm vững những văn bản
pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng. Ngoài ra cần phải có
đạo đức và sự liêm khiết.
3.1.9. Bảo hiểm tín dụng
Các NHTM cần tham gia bảo hiểm tín dụng để phân tán rủi ro,
giảm bớt gánh nặng cho NHNN và chi phí trong việc khắc phục những
tác hại do rủi ro tín dụng gây ra.
3.1.10. Xây dựng quỹ phòng ngừa rủi ro
Xây dựng một cơ chế hợp lý về việc trích lập và sử dụng quỹ
phòng ngừa rủi ro sao cho ngân hàng đảm bảo đủ khả năng chống đỡ
các rủi ro có thể xảy ra và linh hoạt trong việc sử dụng.
3.1.11. Phân loại doanh nghiệp
19
Thông qua việc phân tích tình hình tài chính và hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN mà phân loại đánh giá DN theo chất lượng
hoạt động, từ đó có các cư xử tín dụng cho phù hợp.
3.2. Các biện pháp khắc phục
Các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng là quan trọng nhất.
Tuy nhiên cũng cần nhắc lại là rủi ro tín dụng vẫn có thể xảy ra ngay
cả khi ngân hàng đã tự trang bị những biện pháp phòng ngừa cần thiết.
Ngay khi phát hiện những dấu hiệu của khoản cho vay có thể dẫn tới
NQH, các NHTM thường áp dụng một số các biện pháp khặc phục như
sau:
3.2.1. Giám sát chặt chẽ khoản vay có vấn đề
Ngay khi khoản vay xuẩt hiện các vấn đề bất thường, ngân hàng
có một chế độ quan sát chặt chẽ và thường xuyên để kịp thời cho
khách hàng các tư vấn đúng lúc; kiểm soát được các luồng tiền để kịp
thời thu nợ; nắm chắc tình hình khoản vay để có thể áp dụng các biện
pháp thích hợp hơn.
3.2.2. Thuê chuyên gia cho khách hàng lời khuyên tư vấn
Nhân viên ngân hàng hoặc ngân hàng có thể mời các chuyên gia
để cho khách hàng các lời khuyên tư vấn về những chủ đề đang có
biểu hiện ách tắc như bán hàng, thu ngân, sản xuất...
Ngân hàng có thể đề nghị các chủ DN, hoặc các công ty mẹ cấp
thêm vón. Nếu xí nghiệp là một công ty kinh doanh có thể kích thích
bán thêm cổ phiếu để tăng nguồn vốn mới, tuy nhiên việc bán thêm cổ
phiếu mới thượng mất nhiều thời gian và khó thực hiện khi DN đang
có những khó khăn.
Ngân hàng có thể khuyến khích người vay hợp nhất với người
khác sau khi nghiên cứu và định giá cẩn thận tất cả các yếu tố có thể
ảnh hưởng. Nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính, ngân hàng nên
khuyên người vay loại bỏ chúng cho đến khi DN đã cải thiện tình hình
tài chính của nó. Những kế hoạch như thế có thể chiếm vốn từ hoạt
động kinh doanh.
Khi các DN có hàng tồn kho quá mức trong chu trình kinh
doanh, DN có thể đưa thêm một vài khoản trong mức chiết khấu bán
hàng và như vậy sẽ phát triển doanh số bán. Việc này sẽ đặt doanh
nghiệp vào vị trí có thể trả được nợ.
Ngân hàng nhận thêm tài sản đảm bảo, thêm sự bảo lãnh. Mặc dù
người vay có thể nghi ngờ về biện pháp này, nó có thể vào vị trí tốt
hơn để sắp xếp lại khoản cho vay và giúp người vay dễ trả nợ hơn.
3.2.3. Kết cấu lại khoản nợ
Ngân hàng có thể kéo dài kỳ hạn và rút bớt mức phí trả hàng
tháng hoặc huỷ bỏ sự trả vốn gốc trong một khoảng thời gian. Ngân
hàng cũng có thể giới thiệu một người cho vay dài hạn hơn hay cộng
tác với một người cho vay khác và như vậy giảm bớt rủi ro.
20
3.2.4.Gia tăng khối lượng của khoản cho vay
Thông thường các ngân hàng không muốn tăng thêm lượng chi
vay mặc dù nó là một giải pháp dễ dàng và hấp dẫn, bởi vì nó giống
như việc bước vào một canh bạc. Nó chỉ được thực hiện sau khi tất cả
các điều kiện do ngân hàng ấn định đã được đáp ứng và rõ ràng là DN
ấy có thể được đặt vào đường phục hồi.
3.3. Các biện pháp xử lý
Sau khi các biện pháp khắc phục không đạt được kết quả và món
vay đi theo nhiều hướng xấu với kết cục là nằm lại trên tài khoản
NQH thù ngân hàng tiếp tục áp dụng các biện pháp xử lý. Việc xử lý
những khoản cho vay có vấn đề như là một nghệ thuật hơn là một khoa
học, nó bao gồm hai sự lựa chọn: Khai thác hoặc thanh lí và khó nói
được các yếu tố như sự khó khăn trong thu ngân, tổn thất có thể xảy
ra, thái độ của người vay ảnh hưởng đến quyết định của ngân hàng đến
mức nào trong việc lựa chọn. Tuy nhiên, ngân hàng thường áp dụng
các biện pháp sau:
3.3.1. Tổ chức khai thác
Tổ chức khai thác trong trường hợp người vay có thái độ thoả
đáng về trách nhiệm trả nợ. Phương pháp này được mô tả như là một
chương trình phục hồi khắc khổ áp đặt lên người vay với sự thoả thuận
và cộng tác của họ, thậm chí ngân hàng phải nắm quyền chủ động
trong quản lý kinh doanh.
3.3.2. Thực hiện mua bán nợ
NHTM có thể cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi bằng việc bán cho
các công ty chuyên khai thác các khoản nợ chậm thu hồi, tất nhiên với
những tổn thất tương ứng.
3.3.3. Xem xét việc giảm lãi
Nhiều khi tiền lãi chiếm phần rất lớn trong tổng số các khoản nợ
đọng, ngân hàng có thể xem xét miễn giảm lãi tuỳ thuộc vào các cơ
chế cụ thể của mình với ý nghĩa cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng.
3.3.4. Thanh lý các khoản vay khó đòi
Nếu ngân hàng thấy rõ việc tổ chức khai thác không tiện lợi, sự
thanh lý dưới một vài hình thức có thể coi là cách hay nhất để xử lý
một khoản cho vay đã trở thành khó đòi tuy rằng đôi khi các thủ tục
pháp lý rắc rối và tẻ nhạt:
- Xiết nợ và thanh lý các tài sản của nó cho các chủ nợ nếu được họ
đồng ý. Nếu không thoả thuận được các tài sản có thể dược thanh lý
tại một trung tâm bán đấu giá.
- Thông qua pháp luật: Trong trường hợp ngân hàng quyết định sử
dụng biện pháp pháp lý để thu hồi số nợ vay không đảm bảo, cần phải
có phán quyết từ toà án thích hợp. Phán quyết này cho phép nắm giữ
và bán tài sản của người thiếu nợ với số lượng phù hợp, thường thì quá
trình này đi đôi với sự phá sản của một DN.
21
3.3.5. Sử dụng quỹ phòng chống rủi ro hàng năm
Với những khoản nợ khó đòi đã áp dụng các biện pháp cần thiết,
nằm rìa mép bờ vực tổn thất thường được các ngân hàng cho thanh lý
bằng quỹ dự phòng rủi ro của mình. Tuy nhiên, nó vẫn được theo dõi
ngoại bảng và tiếp tục được truy đòi ở người vay vốn, nếu thu dược sẽ
là thu nhập của ngân hàng trong tương lai.
III. Kinh nhgiệm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng ở một số nước
trên thế giới
1. Kinh nghiệm của một số nước trong việc hạn chế và xử lý nợ
quá hạn
1.1. Ngân hàng Dresner (CHLB Đức)
Deresner là một trong các NHTM hàng đầu của CHLB Đức. Khi
thực hiện cấp các khoản tín dụng cho các công ty, ngân hàng đã sử
dụng một hệ thống đánh giá cho điểm khách hàng đã được vi tính hóa.
Việc cho điểm khách hàng được củng cố thêm bằng việc cho điểm theo
ngành kinh tế: khi có một hiện tượng kinh tế bất lợi ở một ngành nào
đó, thì hệ thống sẽ tự động hạ điểm của tất cả các khách hàng là công
ty hoạt động trong ngành kinh tế đó. Đối với các khách hàng là người
nước ngoài, để phụ trợ cho hệ thống đánh giá cho điểm nói trên, ngân
hàng còn sử dụng việc cho điểm có tính đến đặc trưng của mỗi nước
cụ thể. Việc đánh giá rủi ro theo nước dựa trên cơ sở hệ thống đánh
giá cho điểm theo nước trong nhiều năm qua đã đem lại hiệu quả rất
cao.
1.2. Kinh ngiệm của Canada
ở Canada, để giúp các ngân hàng, các nhà đầu tư có được những
thông tin tin cậy và cần thiết, người ta đã thành lập các công ty chuyên
kinh doanh thông tin tín dụng. Một trong những công ty hàng đầu về
thông tin tín dụng, đó là “services finaucis Ben”. Công ty Ben thu thập
các thông tin tín dụng để cung cấp cho các NHTM theo cách sau:
Trước hết, cần tra cứu những thông tin đã có được cập nhật và
lưu trữ một cách khoa học. Bước tiếp theo, thu thập qua các việc
nghiên cứu và tài liệu, tin tức của các cơ quan và các tổ chức dịch vụ
của Nhà nước như một cơ quan thống kê, tài chính, thuế... Đồng thời
cũng phải quan tâm đến thông tin bên ngoài như báo chí, các nhà cung
cấp, khách hàng...
Công ty Ben cũng thu thập thông tin từ việc điều tra tại chỗ. Các
nhân viên điều tra thông tin tín dụng phải là người chuyên nghiệp.
Điều quan trọng là sau cuộc tiếp xúc, nhân viên thông tin tín dụng
phải có một khả năng nhận xét.
Cuối cùng, công ty Ben sẽ phân tích, tổng hợp các thông tin đã
có và tiến hành “phân dạng rủi ro” để cụng cấp cho các ngân hàng.
1.3. Kinh nghiệm giải quyết nợ quá hạn của Mỹ
22
Để giải quyết nợ quá hạn, Mỹ đã thành lập các công ty quản lý
tài sản (asset management company – AMC). Công ty này có nhiệm vụ
mua lại số nợ khó đòi của các NHTM. AMC phát hành trái phiế do
Chính phủ (Bộ Tài chính) đứng ra bảo lãnh và các ngân hàng sẽ mua
toàn bộ số trái phiếu này. AMC dùng số tiền thu được từ việc phát
hành trái phiếu đó để mua lại toàn bộ số nợ của cá ngân hàng(thường
là theo một tỷ lệ chiết khấu nhất định). Sau đó, AMC sẽ dùng mọi cách
để tối đa hóa khả năng thu nợ thông qua các biện pháp khác nhau như
sử dụng tài sản thế chấp để góp vốn liên doanh, liên kết, cho thuê,
chuyển nợ thành cổ phần...
Như vậy, thực chất của quá trình trên là ngân hàng đổi nợ của
mình để lấy trái phiếu do AMC phát hành và thu lại tiền khi trái phiếu
đến hạn.
Mô hình này đã tỏ ra rất thành công ở Mỹ, đã được Trung Quốc
thử nghiệm và các NHTM Việt Nam cũng đang tham khảo mô hình
hoạt động của các AMC của Mỹ để áp dụng vào các công ty quản lý
tài sản của Việt Nam.
1.4. Kinh nghiệm giải quyết nợ quá hạn của Nhật Bản
Có thể nói từ sau cuộc khủng hoảng 1998 đến nay, hệ thống
ngân hàng Nhật Bản luôn đứng trước nguy cơ rơi vào cuộc khủng
hoảng mới. Cho đến đầu năm 2002, số nợ quá hạn trên tổng dư nợ tín
dụng đã lên tới gần 70% (237000 tỷ Yên). Chính phủ Nhật Bản đã giải
quyết số nợ quá hạn này thông qua Công ty thu và xử lý nợ
(Resolution and Collection Company – RCC) được thành lập vào năm
1999. RCC có nhiệm vụ là mua lại các khoản nợ từ những ngân hàng
có các khoản nợ khó đòi. Mặc dù cho đến nay, RCC đã chi khoảng 1
ngàn tỷ Yên, nhưng vấn đề là các ngân hàng không muốn bán nợ cho
RCC vì lý do mức giá mà RCC nói là giá thị trường trả cho các ngân
hàng khi mua nợ chỉ bằng 5% giá trị nợ. Vì thế giải pháp của Chính
phủ Nhật là:
• Trong vòng 2 năm, các ngân hàng phải phân loại những người
đi vay trong tình trạng phá sản và sắp phá sản. các khoản nợ
quá hạn mới phải giảm đi trong vòng 3 năm kể từ ngày ngân
hàng phân loại những công ty này.
• RCC tham gia mua lại các khoản nợ khó đòi và bất động sản
thế chấp. RCC sẽ mua lại nợ quá hạn với giá mua linh hoạt
hơn.
• Ban tài chính sẽ tăng cường công tác kiểm tra ở các ngân
hàng lớn với những đợt kiểm tra đặc biệt vào các con nợ có
đánh giá tín dụng và cổ phiếu thay đổi. Cùng với kiểm toán,
Ban tài chính hy vọng sẽ đảm bảo được tính chính xác, kịp
thời trong phân loại các con nợ.
1.5. Kinh nghiệm giải quyết nợ quá hạn của Trung Quốc
23
Nhằm giải quyết các khoản nợ quá hạn hiện nay lên tới 500 600 ngàn tỷ đô la, Trung Quốc thành lập 4 công ty thanh toán nợ để
giải quyết các khoản nợ quá hạn ở các ngân hàng quốc doanh lớn là
ngân hàng Trung Hoa, ngân hàng Công Thương, ngân hàng Xây Dựng
và ngân hàng Nông Nghiệp Trung Quốc. Học tập mô hình thanh lý nợ
của Mỹ, Các công ty thanh lý nợ đã tiến hành đổi nợ lấy cổ phần ở các
công ty quốc doanh đang mắc nợ quá hạn. Cùng lúc đó, hoạt động cổ
phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và hoạt động sát nhập, thâu tóm
cũng như việc đóng cửa các doanh nghiệp làm ăn yếu kém cũng diễn
ra mạnh mẽ.
2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Qua kinh nghiệm quản lý rủi ro của một số nước trên cũng giúp
cho chúng ta có được một số kinh nghiệm cho mình. Cần phải thường
xuyên quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Cũng như
ngân hàng Dresner, việc phân tích khách hàng cần được lượng hóa
thông qua hệ thống điểm số. Quản lý rủi ro tín dụng nên phân tích theo
từng ngành kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp,... để có được những
biện pháp quản lý và ngăn ngừa rủi ro thích hợp. Phải thường xuyên
quan tâm đến tổng khối lượng tín dụng của cả hệ thống, cũng như từng
chi nhánh. Hay như theo kinh nghiệm của Nhật Bản, thì sự kiểm soát
chặt chẽ các cơ quan quản lý chức năng và các tổ chức chuyên môn sẽ
tạo ra sự hoàn chỉnh trong khâu kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp
hay các con nợ. Đây cũng là một cách quản lý hỗ trợ từ bên ngoài hệ
thống ngân hàng.
Mỗi một khoản tiền cho vay cần phải được giám sát chặt chẽ.
Đối với những hợp đồng tín dụng phức tạp, chứa đựng rủi ro cao thì
phải phân công các bộ tín dụng có trình độ quản lý. Đối với rủi ro lãi
suất, rủi ro tỷ giá hối đoái... thì ngân hàng phải luôn theo dõi, phân
tích và kiểm tra khung lãi suất có phù hợp hay không... đồng thời, việc
phân loại nợ cùng với chương trình giải quyết nợ qú hạn của Nhật Bản
là một giải pháp có tính chiến lược mà có thể áp dụng khi hệ thống
ngân hàng gặp khủng hoảng nợ cũng như là một biện pháp theo dõi để
ngăn ngừa tình trạng thiếu kiểm soát đối với nợ quá hạn.
Qua kinh nghiệm của Canada, các NHTM Việt Nam cũng cần
quan tâm nhiều hơn nữa đến tính chính xác, đầy đủ, kịp thời của thông
tin tín dụng. Muón vậy, cần phải có các biện pháp thu thập thông tin
tín dụng như nghiên cứu qua tài liệu, qua khách hàng, hoặc qua việc
điều tra tại chỗ... và điều quan trọng là phải biết giữ bí mật và bảo vệ
quyền lợi của người cung cấp thông tin.
Thành lập công ty quản lý mua bán nợ AMC. Đây rõ ràng là một
biện pháp dài hạn đã được áp dụng ở cả Mỹ và Trung Quốc với những
thành công nhất định. Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng cũng đã
triển khai việc thành lập các AMC của riêng mỗi ngân hàng để xử lý
24
số nợ tồn đọng dưới dạng tài sản đảm bảo. Tuy nhiên, cơ chế hoạt
động của AMC đang còn nhiều tranh cãi. Các NHTM Việt Nam có
tham khảo cơ chế hoạt động của AMC học từ kinh nghiệm cảu Mỹ và
Trung Quốc như trên và biến đổi chúng cho phù hợp hơn với hoàn
cảnh Việt Nam.
Bộ Tài chính sẽ thành lập Công ty quản lý tài sản và xử lý nợ
của Nhà nước để giải quyết khối lượng nợ quá hạn cảu các doanh
nghiệp Nhà nước đối với các NHTM, mà trước hết là đối với NHTM
quốc doanh. Chỉ có công ty này mới có khả năng đủ thẩm quyền xử lý
những tài sản của Nhà nước có liên quan tới các khoản nợ quá hạn,
đặc biệt là nợ quá hạn phát sinh do cho vay chính sách theo chỉ định
của Chính phủ. Một nguyên nhân cần được quán triệt trong suốt quá
trình xử lý nợ quá hạn của công ty quản lý tài sản nợ quá hạn của Nhà
nước cũng như của NHTM là không cho phép xuất hiện rủi ro đạo đức,
nghĩa là việc các ngân hàng và các doanh nghiệp mà con nợ lợi dụng
trút bỏ mọi trách nhiệm về nợ quá hạn lên vai Nhà nước để làm sạch
bảng cân đối và tiếp tục gây ra những khoản nợ quá hạn mới với hy
vọng Nhà nước sẽ gánh chịu giúp. Chính vì vậy, các AMC chỉ nên
hoạt động có thời hạn nhất định (có thể là 5 - 7 năm) sau đó việc mua
bán nợ và tài sản có liên quan sẽ do loại định chế tài chính khác đảm
nhiệm dựa trên sự phát triển của thị trường tài chính.
Tóm lại, qua các lý thuyết về rủi ro và qua kinh nghiệm của các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển cũng đã từng trả giá cho
những rủi ro trong tín dụng cho chúng ta nhận thấy rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng nói chung và trong kinh doanh tín dụng nói riêng là
điều không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra cho các ngân hàng là làm thế
nào để phòng chống và hạn chế ở mức thấp nhất. Muốn vậy, bản thân
mỗi ngân hàng phải biết đánh giá đúng thực trạng của chính mình
trong bối cảnh của nền kinh tế - xã hội từng thời kỳ để qua đó đề ra
những biện pháp phù hợp nhằm phòng chống và hạn chế rủi ro tín
dụng một cách tốt nhất.
Chương II. Các mô hình phân tích đánh giá rủi ro tín dụng và các
nghiệp vụ phòng ngừa
Các nhà kinh tế, các nhà phân tích ngân hàng đã sử dụng nhiều
mô hình khác nhau để đánh giá rủi ro tín dụng. Các mô hình này rất đa
dạng, bao gồm các mô hình phản ánh về mặt định lượng (quantity
models và những mô hình phản ánh về mặt định tính - còn được gọi là
phương pháp chất lượng, phương pháp chủ quan, phương pháp chuyên
25