Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với việc phân tích quá trình phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.35 KB, 15 trang )

Đề tài : Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lợng sản xuất với việc phân tích quá trình phát triển
của nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam .

lời mở đầu
Vào giữa những năm 80 kinh tế xã hội nớc ta lâm vào khủng hoảng
trầm trọng , chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và đông Âu chao đảo. Nhng
chính lúc ấy Đảng ta đã quyết định đờng lối đổi mới, chủ trơng xây dựng và
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị tr ờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng XNCN hôi nhập và mở cửa với
bên ngoài . Có thể nói với những quyết sách của Đảng ta trong thời kỳ này thể
hiện sự năng động về t duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tế cùng
bản lĩnh chính trị vững vàng . Đó là khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới ở
nớc ta : Đổi mới để phát triển, đổi mới để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng,
để vợt qua những cản trở kìm hãm mô hình cũ mô hình quan liêu bao cấp...
Thực tế tình hình công cuộc đổi mới ở nớc ta cho thấy chúng ta đã thu đợc rất nhiều thành tựu đáng chú ý : Từ một nớc nghèo đói phải nhập gạo thì
giờ đây chúng ta đã trở thành một trong ba nớc xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới
cùng với Mỹ và Thái Lan. Quan hệ quốc tế ngày càng đợc mở rộng trên cơ sở
Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới vì vậy chúng ta đã
tham gia vào các tổ chức quốc tế nh ASEAN, AFTA...và sắp tới Việt Nam sẽ
tham gia vào tổ chức WTO-Tổ chức thơng mại thế giới . Với những bớc tiến
mới nh vậy không thể không khẳng định rằng nền kinh tế Việt Nam trong tình
hình hiện nay đang dần đi vào thế ổn định. Không chỉ có ngành kinh tế mà
trong những ngành khoa học cơ bản cũng đang đợc quan tâm đầu t và phát
triển . Để đạt đợc những thành tựu nh vậy ngoài sự nỗ lực gồng mình trong xu
thế hội nhập với thế giới để không trở thành kẻ bị đào thải thì một trong
những điều quan trọng nhất là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng ta . Đảng và
nhà nớc đã kiên trì đờng lối lãnh đạo quán triệt t tởng chủ nghĩa Mac-Lênin
coi đó là nền tảng t tởng và kim chỉ nang cho mọi lý luận khoa học, xã hội.
Tuy nhiên chúng ta xây dựng CNXH trong điều kiện toàn cầu hoá do
CNTB chi phối nên bên cạnh tiếp thu những nền văn minh của nhân loại
chúng ta cần nghiên cứu chọn lọc có phát triển để phù hợp với lối sống của


ngời dân Việt Nam. Trong quá trình xây dựng CNXH phải giải phóng sức sản
xuất, phải xoá bỏ mọi trở ngại kìm hãm để đem lại lực đẩy cho nền kinh tế tạo
ra mức tăng trởng ngày càng cao trong lĩnh vực này góp phần thực hiện công
bằng xã hội . Có thể nói đổi mới đã đem lại cho chúng ta cơ sở để nhận thức

1


một cách đúng đắn hơn mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất.
Trên cơ sở vấn đề đổi mới đất nớc và thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại
hoá ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay đồng thời tầm quan trọng của chủ nghĩa
duy vật biện chứng Mac-Lênin ở Việt Nam mà trong bài tiểu luận này em xin
làm rõ vấn đề về mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất và
ảnh hởng của nó đến việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta
hiện nay.

Nội dung
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là nét đặc trng có tính
quy luật của nền kinh tế nớc ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH . Đó chính là
sự biểu hiện của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ phát triển của lực lợng sản xuất ở nớc ta trong quá trình đổi mới, xây
dung và bảo vệ đát nớc.
ở nớc ta sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc(1954) và cả nớc thống nhất
(1975) Chúng ta đã tiến lên CNXH bỏ qua chế độ T bản chủ nghĩa(TBCN)
trong điều kiện sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Vào buổi đầu do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan chúng ta đã xây dung CNXH theo mô hình kế
hoạch hoá tập trung trong điều kiện chiến tranh mô hình đó đóng vai trò tích
cực nhng trong điều kiện hoà bình mô hình đó dần bộc lộ những hạn chế và
không còn phù hợp với tình hình mới nữa.


2


Trớc tình hình đó đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã đa ra đờng lối đổi mới đất nớc. Đại hội khẳng định chúng ta
tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN không phải là bỏ qua những bớc đi tất
yếu hợp quy luật từ đó Đảng cộng sản Việt Nam đã định ra đờng lối chuyển từ
mô hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xã
hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phù hợp
với đặc điểm phát triển của lực lợng sản xuất ở nớc ta hiện nay.
Mục tiêu hàng đầu trong việc phát triển các thành phần kinh tế đợc tóm
tắt trong 3 điểm: Giải phóng sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội,
cải thiện đời sống nhân dân. Mục tiêu này cũng đã thể hiện nhất quán từ hội
nghị trung ơng lần thứ 6 khoá IV.
Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn
giải phóng và phát triển sức sản xuất đa lại những thành tựu to lớn vèe kinh tế
xã hội ở nớc ta trong 10 năm đổi mới. Văn kiện đại hội VIII khẳng định tiếp
tục thực hiện nhất quán, lâu dài tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo định hớng XHCN, phát huy mọi nguồn lực để phát triển
lực lợng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá [văn kiện đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 1996,
trang 168]
Trong những năm tiến hành công nghiệp hoá mặc dù chúng ta đã mắc
phải nhiều sai lầm, thiếu sót song chúng ta đã đạt đợc một số thành tựu đáng
kể về kinh tế, văn hoá, giáo dụcNhiều công trình xây dung , khoa học công
nghệ đợc phát triển nhanh . Vì vậy trong thời kỳ này chúng ta phải biết kế
thừa những thành tựu ở thời kỳ trớc, rút kinh nghiệm từ những sai lầm thiếu
sót để bổ sung, phát triển và đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển hơn

nữa nền kinh tế nớc nhà.
Đại hội đảng lần thứ VIII còn khẳng định: Ngày nay công nghiệp hoá
gắn liền với hiện đại hoá, với việc ứng dụng những thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến của thời đại. Khoa học và công nghệ trở thành nền tảng của
công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Nâng cao dân trí, bồi dỡng và phát huy nguồn
nhân lực to lớn của con ngời Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá [văn kiện đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, nhà xuất bản chính trị quốc gia , Hà Nội 1996, trang 21]
Trong tình hình quan hệ quốc tế hoà bình ổn định hợp tác để phát triển
ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia dân tộc trên thế giới .
Các nớc giành u tiên cho phát triển kinh tế coi phát triển kinh tế có ý nghĩa
quyết định đối với việc tăng cờng sức mạnh tổng hợp quốc gia tham gia ngày
3


càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực , liên kết quốc tế về kinh
tế . Do vậy những mục tiêu chủ trơng đề ra của đảng là hoàn toàn đúng đắn
phù hợp với yêu cầu nguyện vọng của nhân dân.
Vấn đề đặt ra là tại sao ở nớc ta hiện nay lại phải duy trì và phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần : Thực chất của nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc
ta là gì? Cơ sở phơng pháp luận và t duy cho vấn đề này là tính quy luật về
mối quan hệ gia lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất . Đây chính là vấn đề đợc tập trung nghiên cứu trong bài tiểu luận triết học này.
1.Khái niệm về phơng thức, quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất.
1.1.Phơng thức sản xuất .
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phơng thức sản
xuất biểu thị cách thức con ngời thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài ngơì. Phơng thức sản xuất là cái mà
nhờ nó mà ngời ta thể phân biệt đợc sự khác nhau của những thời đại kinh tế
khác nhau. Dựa vào phơng thức sản xuất đặc trng của mỗi thời đại lịch sử ngời
ta hiểu thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã- hội nào.

Vậy: Phơng thức sản xuất, cách thức mà con ngời ta tiến hành sản xuất
chính là sự thống nhất giữa lực lợng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan
hệ sản xuất tơng ứng.
1.2.Lực lợng sản xuất .
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lực lợng sản xuất
và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mac gọi là
quan hệ song trùng của bản thân sự sản xuất xã hội : Quan hệ của con ngời
với tự nhiên và quan hệ của con ngời với nhau . Vậy lực lợng sản xuất là tổng
thể các nhân tố vật chất kỹ thuật tạo thành cách thức kỹ thuật công nghệ mà
một xã hội sử dụng để tiến hành sản xuất . Nó nói lên năng lực thực tế của con
ngời trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của loài ngời .
Lực lợng sản xuất bao gồm: T liệu sản xuất do xã hội tạo ra mà trớc hết
đó là công cụ lao động , ngời lao động với những thói quen kinh nghiệm sản
xuất họ là những ngời biết sử dụng t liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Với những trí tuệ của mình cuàng với khoa học công nghệ ngày
càng phát triển con ngời trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất, là một
nguồn lực cơ bản , nguồn lực vô tận . Lê nin đã viết: lực lợng sản xuất sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân là ngời lao động [V.I.Lê
Nin. toàn tập , trang 38 nhà xuất bản tiến bộ].

4


Cùng với con ngời thì công cụ lao động cũng là một nhân tố cơ bản của
lực lợng sản xuất . Trình độ phát triển của công cụ lao động là thớc đo trinh
phục tự nhiên của con ngời . Ngày nay khoa học công nghệ tạo ra bớc nhẩy
vọt lớn trong lực lợng sản xuất. Khoa học ngày càng có vị trí quan trọng trong
lực lợng sản xuất, nó trở thành điểm xuất phát cho những biến đổi to lớn trong
kỹ thuật sản xuất, trong việc tạo ra những ngành mới .

1.3.Quan hệ sản xuất .
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phơng thức sản
xuất cũng nh lực lợng sản xuất quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật
chất của xã hội , nó tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con ngời.
Trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình con ngời ta dù muốn hay
không cũng buộc phảI duy trì và thực hiện những mối quan hệ nhất định với
nhau. Những quan hệ này mang tính tất yếu và không phụ thuộc vào ý muốn
của con ngời . Đó là những quan hệ sản xuất . Vậy quan hệ sản xuất là mối
quan hệ giữa con ngời với con ngời trong quá trình sản xuất , những quan hệ
đó thờng đợc phân tích theo một cơ cấu gồm:
-Quan hệ giữa ngời với ngời trong việc sở hữu về t liệu sản xuất .
-Quan hệ giữa ngời với ngời trong việc tổ choc quản lý .
-Quan hệ gia ngời với ngời trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó quan hệ thứ nhất có
ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Các hệ thống quan hệ sản
xuất ở mỗi giai đoạn lịch sử đều tồn tại trong một phơng thức sản xuất nhất
định. Hệ thống các quan hệ sản xuất thống trị mỗi hình thái kinh tế xã hội và
quyết định tính chất, bộ mặt hình thái kinh tế xã hội ấy . Vì vậy khi nghiên
cứu xem xét tính chất của một hình thài kinh tế xã hội nào đó thì không chỉ
nhìn ở trình độ phát triển của lực lợng sản xuất mà còn phải xét đến tính chất
của các quan hệ sản xuất .
2.-Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và
trình độ của lực lợng sản xuất .
2.1.Khái niệm về tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất .
Khuynh hớng sản xuất của xã hội là không ngừng phát triển và biến đổi
theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó xét cho cùng bao giờ cũng bắt đầu từ sự
biến đổi và phát triển của lực lợng sản xuất mà trớc hết là công cụ lao động.
Do đó lực lợng sản xuất là yếu tố quyết định đối với sự biến đổi của phơng
thức sản xuất . Khái niệm trình độ của lực lợng sản xuất nói lên khả năng của
con ngời thông qua việc sử dụng công cụ lao động thực hiện quá trình cải biến

của giới tự nhiên mhằm đảm bảo cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình
5


độ của lực lợng sản xuất thể hiện ở : Trình độ của công cụ lao động, trình độ
tổ chức lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất , kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con ngời, trình độ phân công lao động xã hội
có thể nói trình độ của lực lợng sản xuất càng cao thì phân công lao động
càng tỷ mỷ.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lợng sản xuất còn có khái niệm về
tính chất của lực lợng sản xuất đó là tính chất của quá trình sản xuất ra sản
phẩm. Quá trình này phụ thuộc vào tính chất của t liệu sản xuất và lao động.
Khi nền sản xuất đợc thực hiên với những công cụ ở trình độ thủ công thì lực
lợng sản xuất chủ yếu mang tính cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí
hoá thì lực lợng sản xuất đòi hỏi phải đợc vận động trong sự hợp tác xã hội
trên cơ sở của chuyên môn hoá. Tính chất tự cấp tự túc, cô lập của nền sản
xuất nhỏ lúc đó phải đợc thay thế bởi tính chất xã hội hoá . Trên thực tê tính
chất và trình độ của lực lợng sản xuất không tách biệt với nhau. Sự phù hợp
của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
là một trạng thái mà trong các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn
đầy đủ cho lực lợng sản xuất phát triển [C.Mac và Ph.Anghen toàn tập , nhà
xuất bản chính trị quốc gia]
2.2.Nội dung quy luật.
Lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phơng thức sản
xuất , chúng không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau hình thành
quy luật phổ biến của toàn bộ lịch sử loài ngời: Quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất .
Quy luật này chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào
sự phát triển của lực lợng sản xuất. Đến lợt mình quan hệ sản xuất tác động
trở lại đối với lực lợng sản xuất .

Sự phát triển khách quan của lực lợng sản xuất dẫn đến việc xã hội phảI
xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan hệ sản xuất cũ và thay vào đó quan
hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất , nó làm thay đổi và mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển . Việc xoá
bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay vào đó là quan hệ sản xuất mới có nghĩa là sự
diệt vong của cả một phơng thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phơng
thức sản xuất mới phù hợp hơn. C.Mac đã nhận định: Tới một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng các lực lợng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất hiện có. Từ chỗ là hình thức phát triển của nó thì những
quan hệ đó trở thành xiềng xích của lực lợng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại
một cuộc cách mạng xã hội [C,Mac, PhAnghen: Toàn tập, tập 13 trang 15,
nhà xuất bản chính trị quốc gia 1993]. Đó chính là nội dung của quy luật trên.
6


Trên cơ sở tìm hiểu nội dung của quy luật chúng ta đI phân tích mối quan
hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất để từ đó rút ra tác động của
chúng trong cuoọc sống .
2.3.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản
xuất .
Lực lợng sản xuất là nhân tố thờng xuyên biến đổi do bản thân ngời lao
động trong quá trình lao động không ngừng thay đổi kỹ năng và kinh nghiệm
sản xuất của mình, mặt khác khoa học công nghệ ngày càng đợc vận dụng
nhiều hơn vào sản xuất chính những nguyên nhân đó mà lực lợng sản xuất là
nhân tố quyết định đến sự hình thành biến đổi và phát triển của quan hệ sản
xuất. Lực lợng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất còn
quan hệ sản xuất là yếu tố tơng đối ổn định và có khuynh hớng lạc hậu hơn.
Lực lợng sản xuất là nội dung của phơng thức sản xuất còn quan hệ sản xuất
là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì
nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung. Tuy nhiên

trong mối quan hệ đó hình thức không phải là thụ động nó cũng tác động đến
việc phát triển của nội dung. Sự tác động đó thể hiện ở chỗ quan hệ sản xuất
có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nếu quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
sản xuất thì nó thúc đẩy , mở đờng cho lực lợng sản xuất phát triển ngợc lại
khi không phù hợp nó trở thành xiềng xích trói buộc kìm hãm lực lợng sản
xuất phát triển.
Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là quy
luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Tuy nhiên
hình thức bớc đi cụ thể nh thế nào lại tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của
mỗi nớc. Vận dụng quy luật này vào tình hình nớc ta Đảng đã chủ trơng xây
dung nền kinh tế nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
3. Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta trong
giai đoạn hiện nay.
Mỗi chế độ phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất , có một chế độ sở hữu về t liệu sản xuất và do đó có một thành phần kinh
tế thích hợp . Trong thời kỳquá độ lên CNXH chế độ sở hữu về t liệu sản xuất
bao gồm các hình thức sở hữu khác nhau . Tơng ứng với mỗi hình thức sở hữu
là một thành phần kinh tế , thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất nhất định và chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế nhất
định. Từ chế độ sở hữu về t liệu sản xuất, có thể hiểu cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXHlà tổng thể các thành phần kinh tế
cùng tồn tại trong môitrờng hợp tác và cạnh tranh.
7


Khi đề cập đến vấn đề này Lê Nin đã khẳng định rằng : Trong thời kỳ
quá độ lên CNXHnền kinh tế bao gồm, nhiều đặc điểm và đặc tính của kết cấu
kinh tế của xã hội cũ, đồng thời lại xuất hiện những đặc điểm và đặc tính của
kết cấu kinh tế xã hội mới hộ mới chúng tồn tai xoăn xít lẫn nhau. Từ đó

LeNin rút ra đặcđiểm mang tính phổ biến trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần kinh tế có thể nhiều ít khác
nhau. Vậy sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta là một tất yếu
khách quan.
3.1. Sự cần thiết tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta trong
thời kỳ quá độ:
Việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta trớc hết là vì lực lợng sản xuất còn đa dạng và không đồng đều về đặc tính và trình độ phát
triển. Sở dĩ lực lợng sản xuất ở nớc ta nh vậy do nguồn gốc lịch sử để lại. Hầu
hết các cuộc cách mạng là không triệt để cùng với các cuộc chiến tranh kéo
dài khiến cho lực lợng sản xuất lạc hậu, năng xuất lao động tiêu chuẩn cơ
bản đánh giá trình độ của lực lợng sản xuất còn thấp, chế độ phong kiến và
chế độ thực dân nửa phong kiến đã để lại hậu quả nặng nề. Nến sản xuất tiểu
nông, tự cấp tự túc với những công cụ lao động thô sơ, thủ công cha đủ tái sản
xuất đơn giản. Ngời lao động chủ yếu là nông dân hoạt động sản xuất chủ yếu
dựa vào kinh nghiệm và phụ thuộc chặt chẽ vào thời tiết. Hơn thế nữa những
thế lực ngoại xâm luôn tìm cách thi hành chính sách ngu dân khiến cho yếu
tố quan trọng nhất của lực lợng sản xuất là ngời lao động không thể phát huy
đợc thế mạnh của mình. Ngoài ra còn ro ngày nay khoa học công nghệ
phát triển có sự giao lu hội nhập kinh tế quốc tế, sự chuyển giao công nghệ,
vốn giữa các nớc nên chúng ta tận dụng đợc những phát minh, thành tựu kinh
nghiệm của các nớc khác. Đó cũng là một nguyên nhân làm cho lực lợng sản
xuất ở nớc ta có nhiều tính chất, trình độ khác nhau. Chính do sự khác nhau
này nên cần xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp và đa dạng với tính đa dạng
của lực lợng sản xuất .
Bên cạnh đó cũng phải thấy rằng sự cần thiết khách quan duy trì nền
kinh tế nhiều thành phầndo kinh tế là cơ sơ của xã hội nên trong quá trình đi
nên của chủ nghĩa xã hội chúng ta cần phải xây dựng nền kinh tế phát triển
cao nền kinh tế hàng hoá có sự quản lý vĩ mô của nhà nớc. Dựa trên lực lợng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp mà muốn có lực lợng sản
xuất hiện đại, Đại hội đảng VI đã chỉ rõ muốn phát triển mạnh mẽ lực lợng
sản xuất , đi đôi với việc bố trí cơ cấu sản xuất , cơ cấu đầu t theo ngành và

theo vùng, phải xác định cơ cấu thành phần kinh tế [văn kiện đại hội đại biểu
toàn quốc lần VI Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1987. Trang 55]

8


Nớc ta thuộc loại dân số trẻ có nguồn lao động dồi dào. Nhiều ngời có
sức lao động mong muốn có việc làm nhng lại cha có việc: số ngời cha có
việc làm đợc quy đổi lên đến 5,7 triệu ngời tạo lên sức ép xã hội đối với
kinh tế [theo dự thảo kinh tế xã hội việt Nam thập kỷ 90, tạp chí thống kê
1991].
Trong khi đó khẳ năng kinh tế quốc doanh thu hút sức lao động không
nhiều vì thiếu vốn, nhất là ngoại tệ mạnh. Trong điều kiện đó khai thác tận
dụng tiềm năng của các thành phần kinh tế là một trong những cách tốt nhất
tạo công ăn việc làm cho ngời lao động.
Điều rất quan trọng trong thời kỳ quá độ này là xã hội cũ để lại không ít
thành phần và không thể bỗng chốc có thể cải tiến nhanh đợc. Nó phù hợp với
lợi ích của ngời lao động và có vai trò quan trọng trong việc xác lập phát triển
hệ thống kinh tế mới. Hơn na sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản
xuất mới xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới nh kinh tế t bản nhà nớccác thành phần kinh tế cũ mới tồn tại đan xen lẫn nhau tạo nên đặc điểm
kinh tế nớc ta trong thời kỳ qúa độ.
Nh vậy có thể thấy rằng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất là quy luật phổ biến, cơ
bản của đời sống xã hội. Chúng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ
sản xuất nào đó khi mà lực lợng sản xuất tơng ứng với nó vẫn còn đang tồn
tại, đang còn cần thiết cho xã hội. Nếu vội vàng xoá bỏ những hình thức kinh
tế này khi chúng đang còn là một tất yếu kinh tế thì đó là một điều dại dột
và tự sát nh Lênin đã nói.
3.2. Lợi ích của sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần:
Sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần không chỉ là

một tất yếu khách quan mà còn đem lại nhiều lợi ích kinh tế to lớn đó là vì:
Một là nền kinh tế tồn lại nhiều thành phần có nghĩa là sự tồn tại nhiều
hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với thực trạng thấp kém và không đều của
lực lợng sản xuất . Sự phù hợp này đến lợt nó lại thúc đẩy tăng năng xuất lao
động. Tăng trởng kinh tế tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong thành
phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân nớc ta.
Hai là, nó góp phần khôi phục cơ sở kinh tế cho sự tồn tại và phát triển
kinh tế hàng hoá mà trớc đây do nôn nóng đã xoá bỏ một cách không tự giác.
Ba là, chỉ có thể phát triển kinh tế nhiều thành phần mới cho phép khai
thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp cảu thành phần kinh tế trong
nớc, tạo điều kiện khai thác sức mạnh về vốn, khoa học và công nghệ mới trên
thế giới.
9


Bốn là về nền kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện và mở rộng các
hình thức kinh tế trong đó có hình thức kinh tế t bản nhà nớc nh những cầu
nối và trạm trung gian cần thiết để đa nớc ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa
xã hội , bỏ qua chế độ t bản chủ nghĩa.
Năm là với việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần giúp chúng ta
giải quyết đợc vấn đề việc làm, một vấn đề gây bức xúc hiện nay. Bên cạnh đó
còn huy động đợc vốn, kỹ thuật từ nớc ngoài đồng thời phát huy đợc thế mạnh
của ngời lao động Việt Nam : Cần cù, sáng tạo.
Qua sự phân tích trên cho thấy sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần là
nền kinh tế khách quan và có nhiều lợi ích trong thời kỳ quá độ. Nó vừa phù
hợp với thực tiễn và trình độ xã hội hoá cuả lực lợng sản xuất ở nớc ta vừa phù
hợp với lý luận của Lênin và đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở Đảng ta đã khảng định: Chính sách kinh
tế nhiều thành phần có chiến lợc lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi
lên chủ nghĩa xã hội và thay thế tinh thần dân chủ về kinh tế bảo đảm cho mọi

ngời đợc làm ăn theo pháp luật [Nghi quyết hội nghi BCHTW Đảng cộng sản
Việt Nam làn thứ 6 khoá VI]
3.3 Các thành phần kinh tế ở nớc ta:
Từ sự phân tích quy luật phù hợp với các lực lợng sản xuất và quan hệ
sản xuất mà đại hội Đảng ta lần thứ VI đã thống nhất các thành phần kinh tế ở
nớc ta:
Kinh tế nhà nớc là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nớc về
t liệu sản xuất chủ yếu là các đơn vị mà tỷ lệ vốn nhà nớc chiếm từ 50% trở
lên. Nắm giữ những mạch máu của kinh tế và công nghệ then chốt với cách
thức kinh doanh tiên tiến và cơ chế quản lý khoa học.
Kinh tế hợp tác (hay kinh tế tập thể, là thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu tập thể về t liệu sản xuất. Nó đợc tổ chức dới nhiều hình thức đa dạng nh
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công, tín dụng theo
nguyên tắc tự nguyên bình đẳng cùng có lợi.
Kinh tế t bản nhà nớc là sản phẩm của sự can thiệp nhà nớc vào hoạt
động của các tổ chức, đơn vị kinh tế t bản trong và ngoài nớc. Thành phần này
gồm tất cả các hình thức hợp tác xã liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh
tế nhà nớc và kinh tế t bản nhằm sử dụng, khai thác phát huy thế mạnh của
mỗi bên tham gia đặt sự kiểm soát cuả nhà nớc. Đây là thành phần quan trọng
trong huy động sử dụng vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức
Kinh tế cá thể là thành phần dụa trên hình thức sở hữu cá thể về t liệu sản
xuất và lao động của bản thân họ. Đặc điểm của thành phần kinh tế này là tồn
10


tại độc lập, phân tán, trình độ kỹ thuật thủ công nhng lại có u điểm là có hiệu
quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề
Kinh tế t bản t nhân là thành phần dựa trên hình thức sở hữu t nhân t bản
chủ nghĩa về t liệu sản xuất và quan hệ ngời bóc lột ngời. Thành phần này đợc
tổ chức dới hình thức doanh nghiệp t nhân, doanh nghiệp cổ phần, công ty

TNHH .
Cùng với các thành phần kinh tế trên thì đại hội Đảng lần IX đã chủ trơng phát triển thêm một thành phần kinh tế nữa để phù hợp với tình hình nớc
ta đó là thành phần kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài. Thành phần này ra đời góp
phần vào quá trình tham gia điều tiết nền kinh tế , đây có thể coi là trạm trung
gian là chiếc cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn hiện đại để đi lên
CNXH nhất là những nớc có nền kinh tế kém phát triển bỏ qua chế độ t bản
chủ nghĩa nh Việt Nam.
Với chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng
và phát triển sức sản xuất đa đến những thành tựu to lớn trong đời sống kinh tế
xã hội ở nớc ta. Trên cơ sở đó văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục thực
hiện nhất quán lâu dài chính sách này với chủ trơng trong phát triển các thành
phần kinh tế là:
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nớc để làm tốt vai trò chủ đạo,
mở đờng, hớng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển .
Tăng cờng phát triển kết cấu hạ tậng kinh tế , xã hội , hệ thống tài chính
Nhằm nâng cao hiệu lực kinh tế vĩ mô của nhà nớc. Bên cạnh đó phảI đổi mới
và tăng cờng hoạt động kinh tế của nhà nớc trong lĩnh vực phân phối lu thông,
phát huy vai trò kinh tế khoa học công nghệ, văn hoá xã hội của doanh nghiệp
nhà nớc trong nông lâm nghiệp.
Cùng với kinh tế nhà nớc, kinh tế hợp tác ngày càng đợc củng cố và phát
triển để dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nớc khuyến
khích, giúp đỡ kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả. Tranh thủ nguồn vốn tài
trợ quốc tế cho khu vực kinh tế này, nếu hợp tác xã nào trên thực tế hoạt động
không hiệu quả , không đáp ứng đợc nhu cầu phát triển cuả xã hội thì giải thể
để tạo điều kiện cho các hình thức khác hình thành và phát triển .
Từ khi có luật đầu t nớc ngoài kinh tế t bản nhà nớc phát triển mạnh mẽ
góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội nớc ta tuy nhiên trong quá trình hoạt
động đã nẩy sinh nhiều vấn đề thực tiễn cần giải quyết. Chính vì thế mà đại
hội Đảng lần thứ VIII khẳng định : phát triển đa dạng các hình thức kinh tế t
bản nhà nớc bao gồm các hình thức hợp tác, liên doanh giữa kinh tế nhà nớc

với t bản t nhân trong nớc và nớc ngoàiáp dụng nhiều phơng thức góp vốn
liên doanh giũa kinh tế nhà nớc với các nhà kinh doanh t nhân trong nớc nhằm
11


tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển tăng cờng sức cạnh
tranh và hợp tác với bên ngoài [văn kiện đại hội Đảng lần VIII nhà xuất bản
chính trị quốc gia trang 233].
Kinh tế cá thể tiểu chủ có tiềm năng to lớn, vị trí quan trọng và lâu dài do
có những u thế vốn có của nó mà nhà nớc không thể không tạo điều kiện giúp
đỡ, hớng dẫn về vốn, kỹ thuật công nghệ, tài chính, tiêu thụ sản phẩmĐể
thành phần này tham gia vào kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ
tinh cho các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác phát triển .
Trong mối quan hệ quốc tế, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển
ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
Các nớc giành nhiều u tiên cho phát triển kinh tế , coi phát triển kinh tế có ý
nghĩa quyết định đối với tăng cờng sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Chính vì
thế mà phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta theo định hớng XHCN là một sự lựa chọn đúng đắn. Với chính sách này đã góp phần to
lớn vào giải phóng và phát triển sức sản xuất đa đến những thành tựu kinh tế
xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới ở nớc ta . Đại hội Đảng VIII khẳng
định tiếp tục thực hiện nhất quán lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi
doanh nghiệp cá nhân trong và ngoài nớc khai thác tiềm năng, ra sức đầu t
phát triển , yên tâm làm ăn lâu dài hợp pháp và có lợi cho quốc kế dân sinh.
Nhà nớc thực hiện đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trớc pháp luật.
Tuy nhiên để cho kinh tế cả nớc phát triển vững chắc thì đIều quan trọng nhất
vẫn là củng cố kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác nghĩa là phải làm cho kinh tế
nhà nớc làm ăn có hiệu quả phát huy tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp
tác trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Để làm đợc điều đó cần tập
trung đầu t vào khoa học công nghệ, phải tổ chức động viên các nhà khoa học
và tạo điều kiện cho họ có đIều kiện làm việc tốt nhất . Nhà nớc cần xác định

mục tiêu , yêu cầu trớc mắt và lâu dài , phải triệt để tiết kiệm để phát huy nội
lực và sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Chúng ta là một nớc nghèo phải hiểu rõ
phận nghèo t tởng vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : Lấy sức ta để
giải phóng cho ta. Vì vậy tiết kiệm là quốc sách trong giai đoạn đổi mới hiện
nay ở Việt Nam.
Trong những năm trớc mắt khả năng vốn còn có hạn , nhu cầu về việc
làm rất bức bách, đoèi sống nhân dân còn nhiều khó khăn tình hình kinh tế xã
hội cha thực ổn định vì vậy chúng ta cần tránh sai lầm chủ quan nóngvội qúa
thiên về công việc nặng ham quy mô lớn. Phải biết tạo động lực cho nền kinh
tế nhiều thành phần phát triển . Xã hội hoá sản xuất la xu hớng vận động cơ
bản của nền kinh tế nớc ta hiện nay đó là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế
riêng biệt thành quá trình kinh tế xã hội . Xu hớng trên đáp ứng đợc nhu cầu

12


của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất trong tong chặng đờng của thời kỳ quá độ, trong quá trình
cải biến các thành phần kinh tế ở nớc ta . Thực hiện xu hớng này cũng phù hợp
với mục tiêu định hớng XHCN góp phần tạo cơ sở vật chất cơ sở kinh tế cho
xã hội .

Kết luận
Qua những gì đã phân tích và trình bầy ở trên ta nhận they quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất là quy luật cơ bản và quan trọng nhất không chỉ trong lĩnh vực kinh
tế mà còn trong đời sống xã hội. Nó chỉ rõ tính chất phụ thuộc khách quan của
quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất và đến lợt mình quan hệ sản xuất tác
động trở lại với lực lợng sản xuất theo hai hớng tích cức và tiêu cực. Việc phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nớc ta hiện nay là sự vận dụng đùng đắn

của quy luật trên. Từ khi đợc khẳng định thì chủ trơng chính sách này đã đi
vào cuộc sống góp phần giải phóng sức sản xuất tạo sự chuyển biến mạnh mẽ
cho nền kinh tế , khắc phục về căn bản khủng hoảng về kinh tế xã hội đẩy lùi
lạm phát đa nền kinh tế nớc ta tăng trởng phát triển nhanh trong những năm
qua góp phần năng cao đời sống của nhân dân .
Rõ ràng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là sự tồn tại tất
yếu khách quan của nền kinh tế nớc ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. ý thức
đợc sự tồn tại khách quan đó mà chúng ta cần thực hiện tốt những giải pháp
sau: Trớc hết là giải phóng mọi lực lợng sản xuất mọi tiềm năng đã bị kìm
hãm trớc đây để tránh quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển của
lực lợng sản xuất . Quan hệ sản xuất phải đợc thiết lập từng bớc từ thấp đến
cao để phù hợp với sự đa dạng về hình thức sở hữu.
Coi chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là lâu dài và
nhất quán trong đó tăng cờng phát triển kinh tế nhà nớc và kinh tế hợp tác.
Đồng thời có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế khác, tạo đIều
kiện cho chúng phát triển lâu dàI làm cầu nối giữa nền sản xuất nhỏ và nền
sản xuất lớn.
Ngoài ra trong xây dựng kinh tế ở thời kỳ quá độ lên CNXH phải đổi mới
tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nớc,phát huy cao độ quyền tự do của các
doanh nghiệp thực hiện tốt chủ trơng cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp
nhà nớc để huy động thêm vốn, tạo động lực cho các doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả . Có thể nói đổi mới chính là khẳng định con đờng đi lên CNXH ở nớc ta. Nó làm cho công cuộc xây dung chủ nghĩa xã hội đi đúng với quy luật
13


khách quan và phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện ở nớc ta. Trong thời kỳ mở
của hện nay để giữ vững đợc định hớng XHCN chúng ta không những phải
khắc phục những ảnh hởng của chủ nghĩa giáo điều, máy móc tiếp nhận từ nớc
ngoài mà còn phải đấu tranh chống lại những âm mu chống phá của kẻ thù,
âm mu diễn biến hoà bình .

Trong thời kỳ quá độ hiện nay việc chuyển nền kinh tế sang kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần là một chuyển biến căn bản mà ý nghiã sâu xa của nó là
tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lợng
sản xuất và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lợng sản xuất mà tong bớc thiết lập quan hệ sản xuất tơng ứng. Bớc chuyển biến này có ý nghĩa cách
mạng, nó đặt đúng vị trí và tầm quan trọng của nền kinh tế trong sự phát triển
của CNXH đối với các nớc đi theo con đờng phát triển Rút ngắn Theo loại
hình quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định.
Các giảI pháp có tính định hớng trên phải đợc thực hiện thông qua việc
xoá bỏ một cách triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ
chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách
và các công cụ khác .

14


danh mục tài liệu
1.Triết học Mac-Lênin Tập II nhà xuất bản Giáo dục
2. Kinh tế chính trị Mac-Lênin Tập II nhà xuất bản Giáo dục
3.Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI nhà xuất
bản sự thật
4.văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII-nhà xuất bản
chính trị quốc gia
5.Tạp chí cộng sản số 4 và 7 năm 2000
6.Tạp chí copọng sản số 2 năm 2001

15




×