Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN LUẬT TRONG QUẢN LÝ CÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.84 KB, 13 trang )

1. Những giá trị chính trị- pháp lý của việc xã hội tham gia QLHCNN
Theo từ điển Wikipedia thuật ngữ xã hội được hiểu là “một tập thể hay một
nhóm những người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích,
mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hóa”.
Trong phạm vi bài viết này, nhóm chỉ xin đề cập đến xã hội theo nghĩa hẹp,
nghĩa là chỉ đề cập chủ yếu đến giá trị chính trị - pháp lý của các tổ chức xã hội
trong việc quản lý hành chính nhà nước (QLHCNN).
Theo cách hiểu ấy, việc quản lý hành chính nhà nước được tiến hành không
chỉ bởi các cơ quan nhà nước mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã hội và
cá nhân. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, tổ chức xã hội đã góp phần to
lớn vào công cuộc xây dựng đất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Đảng
cộng sản Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trọng tài kinh tế, Hội nhà
báo, Hội nhà văn, Hội luật gia…
Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của nhà nước nhằm
tuyên truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý.
Tổ chức XH là một tổ chức nhân dân hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự
nguyện, tự quản của các thành viên nhằm thỏa mãn những lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân lao động, thu hút họ vào quản lý các công việc của Nhà nước
và xã hội.
Các tổ chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở
nước ta được hình thành trên cơ sở tự nguyện và tự quản của những thành viên
tham gia nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của nhân dân lao động, thu hút
đông đảo quần chúng vào quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội, nâng
cao tính tích cực chính trị của mỗi cá nhân.
Cùng với quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị, vai trò của các tổ chức
ngày càng được nâng cao, phát triển về mặt số lượng các hiệp hội, đoàn thể trên
cơ sở nghề nghiệp hoặc sở thích, phát triển về chất lượng trong đời sống xã hội,
đời sống nhà nước.
1




Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của Nhà nước nhằm
tuyên truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức
xã hội có những đặc điểm làm cho nó khác với các cơ quan nhà nước. Các tổ
chức xã hội có những đặc điểm sau:
- Hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự quản của các thành viên nhằm thỏa
mãn lợi ích của các thành viên, của xã hội.
- Hoạt động trên cơ sở thuyết phục, giáo dục và các biện pháp tác động xã
hội, không mang tính cưỡng chế Nhà nước.
- Các quyết định của các tổ chức XH chỉ có hiệu lực nội bộ, trừ một số
trường hợp PL quy định khác.
Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nhân
danh tổ chức xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà
nước. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội
mới hoạt động nhân danh nhà nước.
- Quan hệ giữa các thành viên dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
- Tài sản của tổ chức xã hội do sự đóng góp của các thành viên, do hoạt
động sản xuất kinh doanh của các tổ chức đó, các nguồn tài trợ khác nhau của
Nhà nước, tổ chức phi chính phủ ở trong và ngoài nước.
Các tổ chức xã hội có thể được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau:
sở thích; lứa tuổi; giới tính; nghề nghiệp; tính chất chính trị trong hoạt động;
phạm vi hoạt động; địa vị pháp lý; vị trí trong hệ thống chính trị.
* Căn cứ vào vị trí trong hệ thống chính trị và phạm vi hoạt động có
thể phân loại như sau:
a) Đảng là tổ chức chính trị, có cương lĩnh, đường lối và đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
nhà nước và xã hội. Điều đó thể hiện ở chỗ các đường lối, chính sách của Đảng
là kim chỉ nam cho hoạt động của Nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách của
Đảng được thể chế hoá thành pháp luật. Tuy lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng

Đảng không can thiệp trực tiếp vào công việc nhà nước mà định ra phương
hướng hoạt động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của mình trong bộ máy
2


nhà nước. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật.
b) Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Công đoàn; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam; Hội Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh. Những tổ chức này có
cơ cấu tổ chức hoàn thiện và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị,
ảnh hưởng của chúng trong việc ra quyết định quản lý, ban hành đường lối, chủ
trương của Nhà nước cũng lớn hơn so với những hội quần chúng ở phạm vi địa
phương.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người
lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và
bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động
khác; tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công chức, viên
chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoài ra,
công đoàn có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết
việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; thực hiện
chức năng giáo dục, động viên người lao động thực hiện nghĩa vụ công dân,
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc tuân thủ
pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội. Công đoàn là chỗ dựa quan trọng của Nhà
nước. Các tổ chức công đoàn được thành lập ở mọi cơ quan, tổ chức nhà nước,
đơn vị kinh tế, kể cả tổ chức kinh tế của tư nhân, nhằm bảo vệ lợi ích người lao
động trên cơ sở của pháp luật, đường lối chính sách của Đảng.
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của
thanh niên có nhiệm vụ thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích,

giáo dục lối sống con người mới, những người nắm giữ vận mệnh của đất nước.
Đoàn thanh niên là trường học, nơi đào tạo ra các cán bộ, công chức có phẩm
chất trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức vụ trọng trách trong tổ chức
Đảng, công đoàn.

3


Các tổ chức của Đoàn thanh niên được hình thành trên phạm vi cả nước,
các tổ chức đoàn đều có mặt ở địa phương, các cơ quan nhà nước, từ Trung
ương đến địa phương.
Hội Liên hiệp Phụ nữ là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhằm thu hút
các tầng lớp phụ nữ tham gia vào đời sống nhà nước, đời sống xã hội. Ngoài ra,
Hội Liên hiệp Phụ nữ có vai trò bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đấu tranh với
những biểu hiện phân biệt đối xử với phụ nữ.
Hội Nông dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông
dân Việt Nam, nhằm động viên, tổ chức nông dân cả nước hăng hái thi đua sản
xuất, giáo dục tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Thông qua tổ chức
này, ý nguyện của nông dân được phản ánh với Nhà nước. Hội Nông dân Việt
Nam tham gia thảo luận ban hành các chủ trương, chính sách phù hợp với lợi ích
của nông dân, một bộ phận dân cư lớn nhất ở nước ta.
c) Các hội quần chúng trong các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ
thuật, thể thao và quốc phòng (theo tiêu chuẩn nghề nghiệp). ở nước ta, số lượng
các hội quần chúng đang có xu hướng phát triển, hiện nay có khoảng 170 hội
quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước, khoảng 1.000 hội hoạt động ở các
tỉnh, thành phố, địa phương.
d) Các cơ quan xã hội được hình thành theo sáng kiến của Nhà nước và
không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của NN.
đ) Các tổ chức kinh tế tự nguyện (theo tính chất sản xuất) là những tổ chức
hình thành nhằm tổ chức thu hút người lao động vào một tổ chức nhất định

nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu sản
xuất. Đó là các hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp.
Địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội được quy định trong Hiến pháp, các
luật, những văn bản dưới luật. Những vấn đề cơ bản được pháp luật điều chỉnh
gồm lập hội, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, giữa các tổ chức xã hội và
Nhà nước, trình tự giải thể hoạt động của các tổ chức xã hội, các hình thức khen
thưởng…Nhưng pháp luật không điều chỉnh mọi hoạt động của tổ chức xã hội.
Việc lập hội được tiến hành theo trình tự:
4


- Những hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước phải được Thủ
tướng Chính phủ cấp phép.
- Những hội quần chúng hoạt động ở tỉnh, thành phố và cấp tương đương
do Chủ tịch tỉnh, thành phố và cấp tương đương cấp giấy phép và phải được báo
cho Thủ tướng Chính phủ biết.
- Những tổ chức quần chúng hoạt động có tính chất tương thế, phúc lợi ở
xã, phường, thôn, ấp như hội bảo thọ, hội bảo trợ học đường do Chủ tịch UBND
xã, phường cho phép, nhưng phải báo cáo cho chủ tịch huyện, quận biết.
Các tổ chức xã hội tự thảo và quyết định điều lệ hoạt động của mình. Song
khi đăng ký lập hội phải báo cáo điều lệ với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền xét và cho phép hoạt động. Nếu sửa lại điều lệ cũng phải báo cáo cơ quan
nhà nước đã cho phép thành lập. Nguyên tắc này áp dụng đối với các tổ chức
quần chúng theo tính chất nghề nghiệp, không áp dụng đối với tổ chức xã hội là
thành viên của UB mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Những hoạt động tổ chức nội bộ như bầu cử ban lãnh đạo, chi phí tài chính,
phát động các phong trào thi đua, sắp xếp cơ cấu do các tổ chức xã hội quyết
định theo quy định của điều lệ hoặc quyết định của Đại hội đại biểu.
Các tổ chức xã hội có thể chấm dứt hoạt động khi có các cơ sở sau:
Thứ nhất: Đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và tuyên bố tự giải thể. Pháp luật

quy định sau khi tuyên bố tự giải thể, chậm nhất một tháng phải nộp lên cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép toàn bộ hồ sơ, con dấu, tài liệu thanh
quyết toán tài sản chuyển giao theo hướng dẫn của cơ quan tài chính Nhà nước.
Thứ hai: Hoạt động của tổ chức đó vi phạm pháp luật, điều lệ, uy tín của tổ
chức đó một cách nghiêm trọng. Trong ba trường hợp nêu trên, cơ quan có thẩm
quyền cho phép hoạt động có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
Thứ ba: Tổ chức xã hội tự ý không hoạt động mà không có lý do chính
đáng. Trong trường hợp này, cơ quan nhà nước cấp giấy phép hoạt động ra
quyết định giải thể tổ chức đó.
Quyền hạn và nghĩa vụ các tổ chức xã hội không giống nhau. Nó thể hiện ở
chỗ một số tổ chức xã hội được quyền trình dự án luật (thành viên của Mặt trận
5


Tổ quốc Việt Nam), hoặc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ, hoặc
của các cơ quan HCNN ở địa phương. Nhưng ngược lại, một số hội quần chúng
không có khả năng đó. Pháp luật quy định quyền hạn không có khả năng đó.
Pháp luật quy định quyền hạn khá rộng rãi cho các tổ chức công đoàn trong việc
giải quyết các tranh chấp lao động, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, bảo vệ các
quyền, tự do hợp pháp của công dân. Năng lực pháp lý - hành chính của tổ chức
công đoàn được thể hiện khá đầy đủ và rõ nét nhất trong Luật Công đoàn năm
2012.
Các tổ chức xã hội không chỉ khác nhau về năng lực pháp lý – hành chính
mà còn khác nhau ở sự tác động của NN đối với chúng. Nhà nước không trực
tiếp lãnh đạo, can thiệp vào các đoàn thể xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam mà chỉ quy định những quyền hạn, nghĩa vụ pháp lý. Đối với các
tổ chức xã hội như: Hội bảo vệ hòa bình thế giới, Hội đoàn kết Á Phi…cử cán
bộ lãnh đạo NN sang chuyên trách ở các tổ chức xã hội này, định hướng hoạt
động và chỉ đạo các hoạt động cụ thể theo tình hình xã hội.
Sự điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động của các tổ chức xã hội không giới

hạn ở việc quy định các quyền, nghĩa vụ mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức
xã hội phát huy được tính tích cực chính trị tham gia vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Nhà nước quy định trách nhiệm của các CQNN, người có chức vụ (trách
nhiệm kỷ luật, hành chính, hình vụ) nếu có những biện pháp, hành vi cản trở các
tổ chức xã hội và nhân viên các tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ theo điều lệ của
họ.
Đối với những hội quần chúng ở các địa phương, các CQNN có nhiệm vụ
tạo điều kiện để các hội đó nắm được chủ trương, chính sách, pháp luật của NN
phối hợp với hội động viên các hội viên hăng hái thực hiện chủ trương, chính
sách, pháp luật và thu thập ý kiến hội đóng góp với CQNN trong quá trình xây
dựng và thực hiện chính sách, nhiệm vụ công tác của ngành và địa phương.
Vai trò của các tổ chức xã hội trong quản lý công thể hiện:
- Tham gia vào tổ chức BMNN;
6


- Xây dựng, ban hành pháp luật;
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật.
*Mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước:
Đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan
nhà nước là sự hợp tác. Điều này xuất phát từ sự thống nhất về mục đích của các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng
cao tính tích cực xã hội của công dân, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của công
dân, lợi ích của Nhà nước, xã hội.
a. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình thiết lập các cơ quan, tổ chức NN
Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc đề cử các
đảng viên ưu tú vào các chức vụ quan trọng của bộ máy nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn, Đoàn thanh niên cũng có
quyền giới thiệu thành viên của mình ứng cử các chức vụ trong bộ máy nhà

nước. Đồng thời, trên thực tế, việc bổ nhiệm, nâng bậc lương, thăng chức cần có
ý kiến của các tổ chức xã hội trước khi thủ trưởng đơn vị ra quyết định.
Cùng với quá trình dân chủ hoá xã hội, vai trò của các tổ chức chính trị - xã
hội trong việc thiết lập cơ quan nhà nước ngày càng cao, sự hợp tác ngày càng
chặt chẽ hơn, không chỉ bao gồm đưa các thành viên của tổ chức chính trị - xã
hội vào cơ quan nhà nước mà cả sự đánh giá, góp ý kiến hay đề nghị xử lý các
cán bộ, công chức nhà nước vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, cản trở hoạt
động của các tổ chức chính trị - xã hội.
b. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình xây dựng pháp luật
Thực tế quản lý hành chính nhà nước đã áp dụng các hình thức ra văn bản
pháp luật liên tịch giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước với các tổ chức
chính trị - xã hội. Các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính trị - xã hội cũng
tham gia trực tiếp vào việc dự thảo các quyết định quản lý, các văn bản pháp
luật. Trong nhiều trường hợp, chính các tổ chức chính trị - xã hội chủ động đưa
ra những kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
những quyết định, nghị định, và những văn bản khác của Chính phủ.
7


Đối với những quyết định quản lý hành chính nhà nước liên quan đến lợi
ích và hoạt động của tổ chức chính trị - xã hội thì cần phải tham khảo ý kiến của
các tổ chức chính trị - xã hội. Ví dụ: Công đoàn tham gia với cơ quan nhà nước
xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về lao động, tiền lương, bảo hộ lao động
và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích
của người lao động (Phần 2, Điều 5 Luật Công đoàn).
Pháp luật nước ta quy định nhiều tổ chức chính trị - xã hội có quyền trình
dự án luật. Song song với điều này, các tổ chức đó có thể đưa ra dự thảo luật của
mình và tham gia tích cực vào quá trình thảo luật các dự án luật, các dự án khác.
c. Sự hợp tác trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Trên thực tế, các cơ quan quản lý HCNN thu hút các tổ chức chính trị - xã

hội để thảo luận và tìm ra các biện pháp tối ưu trong việc giải quyết các nhiệm
vụ quản lý cũng như thi hành pháp luật. Các tổ chức chính trị - xã hội như Công
đoàn và Đoàn thanh niên đóng vai trò to lớn trong việc phát động các phong trào
quần chúng, tuyên truyền trong nội bộ tổ chức đường lối, pháp luật của Nhà
nước và thực hiện các biện pháp nhằm thiết lập trật tự kỷ luật. Trong các bộ,
ngành luôn luôn có sự hợp tác thường xuyên giữa thủ trưởng đơn vị với lãnh đạo
các tổ chức xã hội để tìm ra các biện pháp thực hiện tốt các quyết định quản lý,
pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam được tham dự các kỳ họp của Chính phủ khi cần thiết.
d. Quan hệ kiểm tra lẫn nhau
Mối quan hệ này thể hiện ở hai chiều:
- Các tổ chức xã hội kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Các cơ quan nhà nước kiểm tra tính hợp pháp trong việc thành lập, hoạt
động của các tổ chức xã hội.
Trong các quan hệ kiểm tra, các cơ quan Đảng có vai trò quan trọng trong
kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt
động của các cơ quan Nhà nước, cũng như kiểm tra các đảng viên làm việc trong
các cơ quan đó.

8


Vai trò của Công đoàn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước được thể hiện trong các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo vệ các quyền lao
động của công nhân, cán bộ, công chức, tính hợp pháp trong việc xử lý kỷ luật
công nhân, cán bộ, công chức, phân phối quỹ phúc lợi. Đặc biệt, các tổ chức
công đoàn có quyền yêu cầu những cơ quan nhà nước và người có chức vụ tạm
ngừng những hoạt động không an toàn lao động nếu trong quá trình kiểm tra xét
thấy nguy hiểm cho tính mạng người lao động.
Các tổ chức xã hội khác cũng thực hiện kiểm tra hoạt động của các cơ quan

nhà nước trong phạm vi có liên quan đến tổ chức mình. Ví dụ: Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam kiểm tra chế độ, chính sách đối với phụ nữ trong các xí nghiệp, cơ
sở, trường học và đưa ra kiến nghị với thủ trưởng đơn vị.
Các tổ chức thanh tra nhân dân ở cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng trong
kiểm tra việc thực hiện pháp luật của những người có chức vụ và nhân viên nhà
nước, chống các biểu hiện quan liêu, hống hách, cửa quyền. Các tổ chức này
cùng với Thanh tra Nhà nước giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước cùng với tổ chức xã hội
tiến hành kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước. Điều này giúp cho các cơ
quan nhà nước khắc phục ngay những thiếu sót của mình, góp phần làm trong
sạch, lành mạnh hoá bộ máy nhà nước.
Các cơ quan nhà nước cũng kiểm tra tính hợp pháp trong hoạt động của các
tổ chức xã hội. Theo pháp luật, cơ quan nào có thẩm quyền cho phép tổ chức xã
hội hoạt động thì kiểm tra tính hợp pháp của chúng. Song, không can thiệp vào
công việc nội bộ của các tổ chức xã hội.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội với các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước còn thể hiện ở chỗ là:
- Những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời dự các phiên họp
của các cơ quan nhà nước khi bàn các vấn đề có liên quan.
- Các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận tổ chức, động viên nhân dân
tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức, thực hiện chủ
9


trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức nhà nước.
- Các cơ quan nhà nước còn thông báo tình hình mọi mặt của cả nước, hay
địa phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận,
có trách nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt

Nam và các tổ chức đó.
Như vậy, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội rất
đa dạng, phong phú. Phát huy tốt các mối quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra động lực
thúc đẩy quá trình dân chủ xã hội, dân chủ hoá trong quản lý HCNN.
2. Những giá trị chính trị- pháp lý của việc công dân tham gia vào
QLHCNN
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch
Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Do đó, chỉ khi nào người dân thực sự đóng vai trò quan trọng
trong quá trình hoạt động quản lý của Nhà nước thì việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền mới thực sự thành công.
Giá trị chính trị của việc xã hội và công dân tham gia vào hoạt động quản
lý hành chính nhà nước.
2.1. Những giá trị chính trị
Theo Hiến pháp năm 1992, công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước
và xã hội (Điều 53). Quy định này chưa được ghi nhận trong Hiến pháp năm
1946 và Hiến pháp năm 1959. Điều đó không có nghĩa là trước đây công dân
không có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Việc quy định quyền này
trong Hiến pháp là sự thừa nhận về mặt nhà nước tầm quan trọng của nó trong
đời sống chính trị của công dân, là cơ sở pháp lý cho sự phát triển quyền đó
trong các lĩnh vực QLHCNN khác nhau, nhằm nâng cao tính tính cực chính trị
của mỗi công dân.
Quy định này được cụ thể hoá ngay trong Hiến pháp 1992 tại Điều 54:
Công dân, không phân biệt dân tộc... thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên
10


đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp... Thông qua việc bầu cử, và có thể được

bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, công dân đã trực tiếp tham gia quản lý
nhà nước.
Cùng với quyền bầu cử, công dân có quyền tham gia thảo luận các vấn đề
chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết
khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý.
Một bộ phận quan trọng của các quyền chính trị là quyền tự do ngôn luận,
hội họp, báo chí, lập hội, mít tinh. Công dân có quyền phát biểu ý kiến của mình
về tình hình đất nước, thế giới, có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt
của tình hình đất nước và thế giới, được tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ
quan báo chí và nhà báo, gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà
không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về nội dung đó (Điều 4 Luật Báo chí do Quốc hội thông qua ngày 2812-1989).
Để đảm bảo cho các quyền, tự do của công dân trong mọi lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước, góp phần vào việc hoàn thiện, làm trong sạch đội ngũ cán
bộ, công chức Nhà nước, Hiến pháp 1992 quy định quyền khiếu nại, quyền tố
cáo của công dân là một bộ phận quan trọng trong các quyền, tự do, nghĩa vụ
thuộc lĩnh vực hành chính - chính trị. Ngoài ra, pháp luật còn quy định những
bảo đảm pháp lý để công dân thực hiện quyền này, bằng cách định ra các chế tài
pháp lý đối với hành vi xâm phạm tới quyền khiếu nại, tố cáo.
Công dân có nghĩa vụ là không lợi dụng các quyền tự do, làm mất trật tự xã
hội, chống đối chính sách, gây thù hận dân tộc, chia rẽ mất đoàn kết trong nhân
dân, làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền chiến tranh chống loài
người và v.v...
2.2. Những giá trị pháp lý
Quy chế pháp lý hành chính của công dân là tổng thể các quyền và nghĩa
vụ của công dân trong quản lý hành chính nhà nước được quy định trong các
văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và được
bảo đảm thực hiện trong thực tế.
11



Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến
pháp và các văn bản pháp luật khác chứa đựng những QPPL hành chính tương
ứng. Nhà nước một mặt quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cho công dân,
mặt khác tăng cường tạo ra những điều kiện cần thiết để công dân thực hiện tốt
các quyền và nghĩa vụ đó. Công dân sử dụng các quyền và nghĩa vụ của mình
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể trong đó có các quan hệ pháp luật
hành chính.
Quyền, tự do và nghĩa vụ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp, các
đạo luật và cả những văn bản dưới luật.
Thông thường, các quyền, tự do, nghĩa vụ của công dân trong quản lý hành
chính nhà nước được phân thành ba nhóm:
- Các quyền, tự do, nghĩa vụ trong lĩnh vực hành chính - chính trị;
- Các quyền, tự do, nghĩa vụ trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội;
- Các quyền, tự do cá nhân.
Ngoài ra, điều 49 - Hiến pháp 1992 ghi nhận: Công dân nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Như vậy, mối liên hệ
pháp lý của một người đối với một nhà nước xuất hiện từ khi người đó sinh ra và
kết thúc khi người đó chết đi.
Cũng như các quan hệ pháp luật hành chính khác, cơ sở phát sinh, thay đổi
và chấm dứt QHPL HC đối với của một bên chủ thể là công dân đòi hỏi phải có
3 yếu tố:
1. QPPL hành chính;
2. Sự kiện pháp lý hành chính;
3. Năng lực chủ thể hành chính bao gồm năng lực pháp luật và năng lực
hành vi hành chính.
* Ðặc điểm:
- Mọi công dân Việt Nam được hưởng đầy đủ các quyền về tự do cá nhân
về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội.
12



- Quy chế pháp lý hành chính của công dân được xác lập trên cơ sở các
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân do hiến pháp quy định. Quyền và nghĩa
vụ của công dân chỉ có thể bị hạn chế bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
qui định chặt chẽ của pháp luật.
- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật không phân biệt dân tộc, tôn
giáo, nam nữ, trình độ văn hóa, thành phần xã hội, nghề nghiệp, tín ngưỡng.
- Quyền và nghĩa vụ là hai mặt không thể tách rời. Công dân được hưởng
quyền đồng thời phải làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước. Ðiều đó thể hiện mối
liên hệ về trách nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân. Hơn nữa, trên thực tế
có những quyền gắn chặt với nghĩa vụ và rất khó để định ra ranh giới giữa
chúng. Quyền bầu cử là một ví dụ đơn cử.
- Nhà nước tạo điều kiện cho nhu cầu chính đáng của cá nhân được thỏa
mãn làm cho khả năng của công dân về trí tuệ, vật chất, tinh thần được phát huy
đến mức cao nhất.
Nhà nước chỉ truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với công dân khi có hành vi
vi phạm pháp luật và chỉ trong giới hạn mà pháp luật cho phép.
Nhà nước không ngừng hoàn thiện quy chế pháp lý hành chính của công
dân để đảm bảo cho công dân tham gia tích cực vào quản lý nhà nước./.

13



×