LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài, người đảng viên trung thành và gương mẫu
của cách mạng Việt Nam đã dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho nhân dân. Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự
kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và tinh hoa văn hóa của nhân
loại, bởi vậy nó là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh, sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam một
phần là nhờ vào sự lãnh đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh.Với hành trang là chủ
nghĩa yêu nước – nhân văn Việt Nam và khát vọng giành độc lập cho Tổ
quốc, tự do cho đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy vấn đề giải phóng
dân tộc và con người là nhu cầu cấp thiết không chỉ của Việt Nam mà của tất
cả các dân tộc thuộc địa và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng của Người. Đó là sản phẩm tổng hòa của những điều
kiện khách quan và chủ quan,của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh
tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện
chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.Đối
với cách mạng Việt Nam,tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò càng vô cùng
to lớn và quan trọng,không những là kim chỉ nam cho hành động,chiến lược
của cuộc kháng chiến trường kì mà còn là cơ sở đánh giá phẩm chất đạo đức
chiến sĩ cách mạng.Việc hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1921- 1930 góp phần quyết định tới việc
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi của Đảng và Bác Hồ.
Trong bài tiểu luận này,chúng tôi sẽ giới thiệu kĩ hơn về giai đoạn hình
thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam 1921 -1930 và
lí do tại sao lại khẳng định như vậy.Trong quá trình tìm hiểu,đánh giá không
thể tránh khỏi sai sót.Mong nhận được ý kiến đánh giá của các bạn để bài
được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Nhóm 4.
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
I. TÓM TẮT CƠ SỞ,QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1. Tóm tắt tiểu sử Hồ Chí Minh.
2. Tóm tắt cơ sở hình thành, các quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh.
II. THỜI KÌ HÌNH THÀNH CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM: 1921-1930
1. Bối cảnh lịch sử.
2. Các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1921-1930 và ý nghĩa.
III. KẾT LUẬN.
2
I. TÓM TẮT CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
1. Tóm tắt tiểu sử Hồ Chí Minh (1890-1969).
Lúc nhỏ Người tên là Nguyễn Sinh Cung, sau đổi thành Nguyễn Tất Thành .
Người sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước, nguồn gốc nông dân ở
làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu
tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến.
Hoàn cảnh xã hội và nền giáo dục từ gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến
nhận thức của Người ngay từ thời niên thiếu. Với lòng yêu nước nồng nàn,
sự sáng suốt về chính trị, Người đã suy nghĩ về những phong trào thời bấy
giờ và Người đã quyết định ra đi tìm con đường đúng đắn cứu nước.
Năm 1911, Người ra đi tìm đường cứu nước từ bến cảng Nhà Rồng. Người
đã sang Pháp và nhiều nước ở Châu Âu, Châu Á, Châu Mĩ, Châu phi. Ở đây
Người đã hòa mình cùng quần chúng công nhân và những người dân thuộc
địa, vừa lao động để sống, vừa học tập và nghiên cứu các học thuyết về cách
mạng.
Năm 1917, cách mạng tháng mười Nga thành công đã đưa Người đến với
chủ nghĩa Mac-Lênin.
Năm 1919 Người đã gia nhập Đảng xã hội Pháp và hoạt động trong phong
trào công nhân Pháp.
Tháng 12/1920, Người đã bỏ phiếu tán thành sự gia nhập Quốc tế cộng sản
và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1921, Người tham gia
thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa. Năm 1922, Người xuất bản
báo “ Người cùng khổ”. Năm 1923, Người từ Pháp trở về Liên Xô. Năm
1924, Người dự đại hội 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ
Phương Đông. Năm1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức ở Á Đông.
Ngày 3/2/1930, Người đã triệu tập hội nghị tại Cửu Long thành lập Đảng
cộng sản Việt Nam.
Năm 1930-1940, Người ở nước ngoài tham gia hoạt động của Quốc tế cộng
sản.
Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Người đã về nước triệu tập
hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng thành lập Mặt trận
dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh).
Tháng 8/1945, Người cùng Trung Ương triệu tập đại hội quốc dân ở Tân
Trào, Người được Đại hội cử làm chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
3
Ngày 2/9/1945, Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa.
Từ đó,Người cùng với Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo sáng suốt con
thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng.
Ngày 2/9/1969, Người từ trần, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của
mộtngười cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc
tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc,
vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân
tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới.
Cuộc họp lần thứ 24, năm 1987 tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của
liên hợp quốc UNESCO ra nghị quyết về kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh "Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam và là một nhà
văn hóa lớn" (HỒ CHÍ MINH VIETNAMESE HERO OF NATIONAL
LIBERATION AND GREAT MAN OF CULTURE) vào năm 1990.
2. Tóm tắt cơ sở hình thành, các quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh.
a) Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cơ sở khách quan:
• Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX -đầu thế kỉ XX:
Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Pháp áp bức nặng nề về chính trị, bóc lột
về kinh tế, nô dịch về văn hóa.
Chính quyền nhà Nguyễn đã thi hành chinh sách đối nội, đối ngoại bảo thủ,
phản động…không cho Việt Nam có cơ hội tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát
triển của thế giới. Không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và của
đất nước, chống lại âm mưu xâm lược của chế độ thực dân Phương Tây,
khuất phục trước cuộc xâm lược của bọn thực dân Pháp, lần lượt ký kết các
hiệp ước đầu hàng, thừa nhận quyền bảo hộ của bọn thực dân Pháp trên toàn
cõi Việt Nam.
Xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản:
Toàn thể dân tộc VN>< Pháp và bọn tay sai phong kiến ( mâu thuẫn
dân tộc).
Toàn dân Việt Nam ( nông dân) >< địa chủ phong kiến (mâu thuẫn giai
cấp).
Nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra nhưng đều bị thất bại như: phong trào
4
Cần Vương, phong trào Đông Du..và con đường cứu nước của các bậc tiền
bối. Hồ Chí Minh đã nhận rõ ra được những hạn chế của các bậc tiền bối
như: Phan Bội Châu là dùng Nhật đuổi Pháp chẳng khác nào” đưa hổ cửa
trước rước beo cửa sau”; Phan Chu Trinh chủ trương là “ỷ Pháp cầu tiến”,
khai thông dân trí,nâng cao dân khí trên cơ sở đó chẳng khác nào xin địch rủ
lòng thương; Hoàng Hoa Thám là cuộc đấu tranh vũ trang nhưng vẫn mang
nặng phần phong kiến chưa phải là nối thoát rõ ràng.
Phong trào yêu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi, phải đi
theo một con đường mới.
-Bối cảnh thời đại ( quốc tế):
Có các nét chính:
Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, tiến
hành xâm lược các nước thuộc địa, xác lập quyền thống trị trên toàn thế giới.
Lúc này chúng không chỉ áp bức bóc lột giai cấp chính quốc nữa mà còn mở
rộng ra các dân tộc khác. Vì thế cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ
riêng lẻ của một dân tộc mà trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc
thuộc địa của đế quốc.
Cuộc giải phóng dân tộc phải gắn liền với cuộc giải phóng giai cấp.
Cuộc giải phóng dân tộc trở thành cuộc giải phóng giai cấp vô sản thế
giới.
Sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 10 Nga, CNXH đã trở thành
hiện thực thế giới, đánh dấu bước chuyển biến lớn của thời đại.
Sự ra đời của Quốc tế cộng sản (quốc tế 3)và Đảng cộng sản ở các
nước
• Những tiền đề tư tưởng - lý luận.
- Tinh hoa văn hóa dân tộc.
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc Việt Nam đã hình thành
nên những giá trị truyền thống đặc sắc và cao quý của dân tộc,trở thành tiền
đề tư tưởng, lí luận, xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, tinh thần tương thân tương ái,
lòng nhân nghĩa, ý thức cố kết cộng đồng, khiêm tốn.... Trong đó,chính sức
mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí ra
đi tìm đường cứu nước.
- Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa Phương Đông: Người có những hiểu biết uyên bác về Hán
học,tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo và Phật giáo.
Tinh hoa văn hóa Phương Tây: cũng như văn hóa Phương Đông Người còn
nghiên cứu tiếp thu ảnh hưởng nền văn hóa dân chủ và cách mạng Phương
Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp,tìm hiểu các cuộc cách mạng ở
Pháp và ở Mỹ, trong đó có bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
5
Pháp và tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ. Người còn đánh giá rất cao
về chúa Jesu. Người còn tiếp thu tư tưởng của các nhà khai sáng Pháp.
- Chủ nghĩa Mac- Lênin:
Là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người khẳng định: “ Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách
mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “ cẩm nang” thần kỳ,
không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi
tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Nhân tố chủ quan
Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh.
Những năm tháng hoạt động trong nước và bôn ba khắp thế giới để học tập,
nghiên cứu, Hồ Chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn, làm
phong phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành những cơ sở
quan trọng để tạo dựng nên những thành công trong lĩnh vực hoạt động lý
luận của Người về sau.
Người khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu
tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát lý luận, đem lý
luận chỉ đạo hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn . Nhờ
vào con đường nhận thức chân lý như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh
mang giá trị khách quan cách mạng và khoa học.
Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn.
Phẩm chất, tài năng của Người được biểu hiện trước hết ở tư duy độc lập, tự chủ
sáng tạo, cộng với đầu óc phê bình tinh tường, sáng suốt trong việc nhận xét,
đánh giá các sự vật, sự việc xung quanh. Phẩm chất, tài năng của Người còn
được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân,khiêm tốn, bình dị,
ham học hỏi, nhạy bén với cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực
tiễn. Phẩm chất, tài năng còn được biểu hiện ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh
đỉnh cao của tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính,
một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành với cách mạng, một trái tim yêu nước thương
dân, sẵn sàng chịu đựng hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của
đồng bào.
b) Các quá trình hình thành và phát triển.
Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước,gần gũi với nhân
dân. Tấm gương của người cha, cuộc sống của người mẹ và những con
người thân thuộc nơi quê hương Nghệ Tĩnh giàu truyền thống văn hóa, lao
động, đấu tranh chống ngoại xâm...đã có ảnh hưởng sâu sắc tới quá trình
hình thành nhân cách của Nguyễn Tất Thành.
6
Tận mắt chứng kiến cảnh nhân dân ta bị thực dân bóc lột, thái độ yếu hèn
của nhà Nguyễn, thêm vào đó là bài học thất bại của các nhà yêu nước tiền
bối và đương thời.... Tất cả đã thôi thúc anh tìm một con đường mới để cứu
nước, cứu dân.... Nguyễn Ái Quốc đã tự định cho mình một con đường đi
mới: " phải tìm hiểu cho rõ bản chất của những từ Tự do,Bình đẳng,Bác Ái
của nước cộng hòa Pháp, phải đi ra nước ngoài, xem nước pháp và các nước
khác họ làm thế nào, sẽ trở về giúp đồng bào mình.''
Thời kì từ năm 1911- 1920: Tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc.
Thời kì từ năm 1921-1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam.
Thời kì từ năm 1930-1945: Vượt qua thử thách,kiên cường giữ vững lập trường
cách mạng.
Thời kì từ năm 1945-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, hoàn
thiện.
7
II. THỜI KÌ HÌNH THÀNH CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM: 1921-1930.
1. Bối cảnh lịch sử:
Bối cảnh thế giới:
Sau khi cách mạng Tháng Mười( 1917) diễn ra thành công,Liên Xô bước
vào xây dựng nhà nước Xô viết, từng bước khôi phục và phát triển kinh tế,
củng cố về chính trị. Nhà nước Xô viết ngày càng vững chắc. Một nước xã
hội chủ nghĩa bắt đầu được xây dựng giữa một vòng vây của các nước tư
bản.
Từ sau hội nghị Vec-xai( 1919-1920) và hội nghị Oasinhton (1920-1922),
những hòa ước và Hiệp ước phân chia quyền lợi được kí kết, một trật tự thế
giới mới được thiết lập (trật tự Vecxai- Oasinhton).
Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc tiếp tục diễn ra căng thẳng,tuy nhiên đây
vẫn là giai đoạn ổn định và tiếp tục xác lập ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân diễn ra rộng rãi ở khắp châu Âu
và châu Á.Quốc tế Cộng Sản ra đời thúc đẩy sự phát triển của phong trào
đấu tranh của giai cấp vô sản khắp nơi trên thế giới.Nhiều Đảng Cộng sản ra
đời ở các nước tư bản.
Trung quốc diễn ra nội chiến,từ giữa năm 1927, Đảng Cộng Sản ở trung
quốc đi vào giai đoạn thoái trào. Những bài học rút ra từ Trung Quốc có tác
động sâu sắc tới tư tưởng Hồ Chí minh bấy giờ.
Bối cảnh trong nước:
Diễn ra một số các phong trào yêu nước,tiêu biểu:
Cuộc bạo động Lạng Sơn (1921)
Mùa Thu năm 1921, Đội Ấn (người Tày) huyện Cao Lộc, Lạng Sơn tổ chức
cuộc bạo động, nghĩa binh đánh vào trại lính khố xanh gần Kỳ Lừa, nghĩa
quân diệt được tên Cung Khắc Đản, Tuần phủ ở Pắc Lương, huyện Yên
Lãng, ít ngày sau cuộc bạo động cũng bị thực dân Pháp dập tát.
Cuộc bạo động Yên Bái (1930)
Ngày 10/2/1931, cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn
Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy, nổ ra ở Yên Bái và một vài địa
8
phương khác nhưng đã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.
Phong trào đấu tranh chống thực dân xâm lược trong nước vẫn chưa thực sự
tìm ra con đường đi đúng đắn. Các cuộc khởi nghĩa diễn ra chưa có sự chuẩn
bị kĩ và mang nặng tính chất bạo động.
2. Các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn 1921-1930 và ý
nghĩa.
Trong giai đoạn từ năm 1921 đến 1930, Nguyễn Aí Quốc có những hoạt
động thực tiễn và hoạt động lý luận hết sức phong phú, sôi nổi trên địa bàn
nước pháp (1921-1923), Liên xô(1923-1924), Trung Quốc (1924-1927),Thái
Lan (1928-1929):
*Thời gian ở Pháp:
Từ 1921, Nguyễn Ái Quốc dựa vào sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp đã
cùng với những người yêu nước của các nước thuộc địa Pháp sáng lập Hội
liên hiệp thuộc địa ở Pari để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ
nghĩa thực dân và thông qua tổ chức này để đem chủ nghĩa Mác – Lênin đến
với với các dân tộc thuộc địa. Hội quyết định sáng lập ra tờ báo Le Paria
( Báo Người cùng khổ) làm cơ quan ngôn luận của mình và ra số đầu tiên
vào ngày 1/4/1922, tờ báo Người cùng khổ do Nguyễn Aí Quốc chủ biên
kiêm chủ bút đã vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của Chủ nghĩa
đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, đồng thời thức tỉnh các dân
tộc bị áp bức nổi dậy đấu tranh tự giải phóng.
Ngoài việc thành lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Người cùng
khổ, Nguyễn Ái Quốc còn tích cực tổ chức các buổi diễn thuyết và viết
nhiều bài đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, tập san Thư tín
quốc tế…và viết cuốn sách nổi tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp (xuất bản
1925). Mặc dù nhà cầm quyền Pháp tìm mọi cách ngăn chặn, cấm đoán
nhưng các sách báo đó vẫn được bí mật chuyển về Việt Nam đúng vào lúc
phong trào cách mạng Việt Nam đang phát triển mạnh, đặc biệt bước đầu
xuất hiện những xu hướng cộng sản. Nhờ đó nhân dân ta, trước hết là những
người tiểu tư sản trí thức yêu nước, tiến bộ ngày càng hiểu hơn bản chất của
chủ nghĩa đế quốc nói chung và đế quốc Pháp nói riêng, hiểu được Cách
mạng tháng Mười Nga và hướng về chủ nghĩa Mác – Lênin.
Bên cạnh đó, với tư cách là trưởng tiểu ban Đông Dương của Đảng cộng sản
Pháp, Nguyễn Aí Quốc cũng đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác
của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các nước thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên
truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những
9
người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ
thuộc.
*Thời gian ở Liên Xô:
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời khỏi nước Pháp và sang Liên Xô.
Tháng 10/1923, Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị Quốc tế Nông dân lần
thứ I ở Liên Xô và được bầu vào Ban chấp hành, tiếp đó Người vừa hoạt
động vừa nghiên cứu, học tập, làm việc ở trụ sở Quốc tế cộng sản (Bộ
phương Đông), viết bài cho báo Sự thật, tạp chí Thư tín quốc tế và một số
sách báo khác….
Đặc biệt từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924, Người đã tham dự Đại hội lần thứ
V của quốc tế cộng sản. Tại Đại hội này, Người đã trình bày lập trường,
quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa;
về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa; về vai trò và sức mạnh to lớn của giai
cấp nông dân ở các nước thuộc địa. Bản tham luận của Người đã gây chú ý
dư luận tại Đại hội, góp phần đưa cách mạng Việt Nam ngày càng gắn bó
chặt chẽ và trở thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng vô
sản thế giới.
Có thể nói thời gian hoạt động ở Liên Xô là thời gian mà Nguyễn Ái Quốc
tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh thêm tư tưởng về cách mạng giải phóng dân
tộc, thông qua nghiên cứu thực tiễn và học tập trong các sách báo Mác xít.
Nội dung tư tưởng chính trị của Người trong những năm 20 bao gồm những
điểm chủ yếu như sau:
1. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết
người’’. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc
địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
2. Cách mạng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách
mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện đoàn kết và liên minh với các lực
lượng cách mạng quốc tế. Phải gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với
giải phóng nhân dân lao động và giai cấp công nhân. Người nói: “Chỉ có
giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế
giới”.
Người cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô
sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít biện chứng với nhau, nhưng
không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể bùng nổ
và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Ở đây Nguyễn Ái
Quốc muốn nhấn mạnh tới vai trò tích cực chủ động của các dân tộc thuộc
địa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực
10
dân.
3. Ở một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân lại là lực lượng đông đảo
nhất trong xã hội, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Vì vậy,
cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi cần phải thu
phục, lôi cuốn được nông dân đi theo, cần phải xây dựng khối liên minh
công nông làm động lực của cách mạng. Đồng thời trên cơ sở liên minh
công nông phải thu hút, tập hợp được sự tham gia rộng rải của đông đảo
các giai tầng xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh của dân tộc.
4. Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách
mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững, phải đi theo học thuyết Mác –
Lênin. Đảng phải có đội ngũ cán bộ sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì mục đích
của đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai
cấp công nhân và nhân loại.
5. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải việc
của một vài người. Vì vậy cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức
quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên
của Nguyễn Aí Quốc về nghệ thuật vận động quần chúng tiến hành đấu
tranh cách mạng.
Những quan điểm, tư tưởng cách mạng nói trên của Nguyễn Aí Quốc được
thể hiện trong các tác phẩm của Người, cùng với các tài liệu khác đã được bí
mật chuyển về trong nước, đến với các tầng lớp nhân dân Việt Nam, tạo ra
một làn sóng tư tưởng mới, hướng về chủ nghĩa Mac-Lênin và cái tên
Nguyễn Ái Quốc. Tư tưởng đấy như một chất mên kích thích cho phong trào
giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
*Thời gian ở Trung Quốc:
Sau một thời gian ở Liên Xô để học tập và nghiên cứu kinh nghiệm xây
dựng đảng kiểu mới, Nguyễn Ái Quốc đã lên đường về tới Quảng Châu.
Vào cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp xúc với các nhà cách
mạng Việt Nam ở đây, nhất là những thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm
tâm xã để tiến tới thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925)
với nhóm Cộng sản đoàn làm nòng cốt rồi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng của giai cấp công
nhân Việt Nam. Người sáng lập tuần báo Thanh niên làm cơ quan tuyên
truyền của Hội.
Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy rằng cần có một tổ chức để lãnh đạo và
chuẩn bị cho những bước sắp tới là yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt
Nam. Tuy nhiên, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên chưa phải là Đảng
cộng sản mà trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn, bao gồm những thành viên tích
cực và trung kiên của Tâm tâm xã đễ thành lập một tổ chức cách mạng có
11
tính chất quần chúng rông rãi hơn.
Sau khi đưa những thanh niên yêu nước Việt Nam vào Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, Nguyễn Aí Quốc đã trực tiếp mở nhiều khóa huấn
luyện chính trị nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán cho cách mạng Việt
Nam.
Từ 1924 – 1927 đã đào tạo được 75 hội viên. Một số được cử đi học ở
trường Đại học Phương Đông (Liên Xô), một số đi học ở các trường quân sự
ở Trung Quốc, Liên Xô…,còn phần lớn trở về nước hoạt động. Trong đó
Người vừa tổ chức lớp học, vừa biên soạn tài liệu giảng dạy, vừa là giáo viên
trực tiếp truyền đạt những nội dung học tập. Các bài giảng của Nguyễn Aí
Quốc về sau được tập hợp trong cuốn Đường cách mệnh (1927).
Đây là tài liệu nhằm chuẩn bị cho những người yêu nước Việt Nam
những quan điểm cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Trong tác phẩm này, Nguyễn Aí Quốc đã vạch ra những phương hướng
cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt
Nam, mở đường cho sự du nhập của chủ nghĩa Mác – Lênin và sự hình
thành chính đảng vô sản ở trong nước.
Từ tác phẩm toát ra một yêu cầu cấp thiết hành động. Ba tư tưởng cơ
bản được nêu lên:
+ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng đông đảo nên phải động viên,
tổ chức và lãnh đạo quần chúng nhân dân vùng dậy đánh đổ các giai cấp áp
bức, bóc lột.
+ cách mạng phải có đảng của chủ nghĩa Mác – Lênin lãnh đạo.
+ cách mạng trong nước cần phải đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới
và là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Mục đích của cuốn sách là để nói cho đồng bào ta biết rõ: '' Vì sao
chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh – Vì sao cách mệnh là việc chung cả
dân chúng chứ không phải việc riêng của một hai ngừơi. Đem lịch sử cách
mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. Đem phong trào thế giới nói
cho đồng bào ta rõ: Ai là bạn ta ? Ai là thù ta ? Cách mệnh thì phải làm thế
nào ?''.
Hoạt động của Nguyễn Aí Quốc đã có tác dụng tích cực đến phong trào
cách mạng trong nước. Từ năm 1926, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
đã xây dựng nhiều cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng, số
lượng hội viên tăng lên nhanh từ 300 người (1928) lên đến 1700 người
(1929).
Đến đầu 1929 Hội đã có cơ sở hầu khắp cả nước rồi các tổ chức đoàn
thể quần chúng của Hội cũng lần lượt ra đời.
Đặc biệt phong trào vô sản hóa của Hội từ 1928 trở đi đã góp phần thực
12
hiện việc kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước thúc đẩy nhanh tiến trình hình thành Đảng cộng sản ở Việt
Nam.
* sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản và hội nghị hợp nhất Đảng:
Đến giữa 1929, nhu cầu thành lập tổ chức cộng sản chín muồi, Tân Việt
cách mạng đảng có sự phân hóa và chuyển mình theo khuynh hướng cộng
sản.
Trước yêu cầu bức thiết của cách mạng. Tháng 3/1929, chi bộ cộng sản
đầu tiên ở Việt Nam được thành lập, để rồi từ tháng 6 – 9/1929 lần lượt 3 tổ
chức cộng sản nối tiếp nhau xuất hiện là: Đông Dương Cộng sản đảng, An
Nam Cộng sản đảng, Đông Dương Cộng sản liên đoàn taọ tiền đề trực tiếp
cho sự ra đời của chính đảng vô sản ở Việt Nam.
Sự xuất hiện của 3 tổ chức cộng sản vào nữa sau 1929 ở Việt Nam lúc
bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam, nhưng vì cả 3 tổ
chức đều hoạt động riêng lẻ, công kích lẫn nhau, tranh giành địa bàn lẫn
nhau nên đã gây trở ngại lớn cho phong trào cách mạng. Vì vậy, yêu cầu bức
thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng cộng sản thống
nhất trong cả nước để lãnh đạo cách mạng.
Được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản Nguyễn Aí Quốc đã triệu tập
hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng cộng sản duy nhất ở
Việt Nam diễn ra từ ngày 03 – 07/02/1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc).
Hội nghị gồm có 5 đại biểu, hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng
(Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh), hai đại biểu của An Nam Cộng sản
đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và Nguyễn Aí Quốc đại diện cho
Quốc tế cộng sản chủ trì cuộc họp.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, với uy tín của Người và yêu cầu của
cách mạng Việt Nam, các đại biểu tham gia hội nghị đã nhất trí tán thành
việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng thành
Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng do Nguyễn
Aí Quốc soạn thảo.
Sau hội nghị hợp nhất đảng, ngày 24/02/1930 Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn xin gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam và đã được Ban chấp
hành Trung Ương lâm thời đồng ý. Như vậy trên thực tế đến ngày
24/02/1930 thì ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã được thống nhất thành
Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của
Đảng khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam “ là đội tiên phong của vô sản
giai cấp”. Đảng chủ trương tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc là người đã đứng ra triệu tập Hội nghị hợp
13
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhưng cũng chính Nguyễn Aí Quốc là người đã soạn thảo ra
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt và Điều lệ vắn
tắt của Đảng.
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Aí Quốc khởi
thảo và thông qua tại Hội nghị đã vạch ra phương hướng phát triển cơ bản
của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách
mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ
nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những văn kiện đó được
xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng
vững chắc cho con đường cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Từ đây, cách mạng Việt Nam có Đảng lãnh đạo, có đường đi và sách
lược đúng đắn.
14
III. KẾT LUẬN.
Giai đoạn 1921-1930 là giai đoạn mà Hồ Chí Minh đã có rất nhiều hoạt
động lí luận và thực tiễn phong phú,có tác động trực tiếp,sâu sắc và mạnh
mẽ tới cách mạng Việt Nam. Đây chính là giai đoạn hình thành cơ bản tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt nam.
Người viết nhiều bài báo tố cáo chủ nghĩa thực dân, đề cập đến mối
quan hệ mật thiết giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính
quốc, khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa là một bộ phận
của cách mạng vô sản thế giới.
Các tác phẩm và nhiều bài viết khác của Người trong giai đoạn này là sự
phát triển và tiếp tục hoàn thiện tư tưởng cách mạng về giải phóng dân tộc.
Đặc biệt là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng(1930) có tác dụng chỉ đạo xuyên
suốt đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác.
Sau quá trình học tập,nghiên cứu lí luận và hoạt động thực tiễn trong
thời kì này, Hồ Chí Minh đã từ việc xác định con đường đúng đắn để giải
phóng dân tộc đưa vào thực tế cách mạng Việt Nam bằng cách '' gắn phong
trào cách mạng Việt nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta
đi theo con đường mà chính người đã trải qua,từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mac- lenin....''
Đối với cách mạng Việt Nam, giai đoạn 1921-1930 có ý nghĩa vô cùng
to lớn,đánh dấu bước những ngoặt lịch sử quan trọng. Từ đây, tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng Việt nam đã hình thành cơ bản, cách mạng Việt
Nam bắt đầu đi theo con đường mà nó phải đi.
15
16