Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.46 KB, 8 trang )

I - Đặt vấn đề:
Lâu nay, tên tuổi Hồ Chí Minh đã trở nên gần gũi thân thiết đối với hàng
trăm triệu người trên thế giới. Hồ Chí Minh là con người Việt Nam ưu tú điển hình
của mọi thời đại. Suốt cuộc đời hoạt động, Người đã dành phần lớn tâm tư và sức
lực cho sự nghiệp vĩ đại là tìm ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc. Đây
cũng là một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh.
Trong bài tiểu luận này sẽ trình bày một cách tương đối có hệ thống về đề tài
Cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
II – Nội dung
1.Cách mạng giải phóng dân tộc đi theo cách mạng vô sản
Theo hồ chí minh cách mạng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
của cách mạng vô sản vì: thứ nhất, xuất phát từ thực tiễn các phong trào yêu nước
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX liên tiếp thất bại, theo Người sự thất bại
đó là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế
quốc đã trở thành một hệ thống thế giới. Các phong trào đấu tranh ở nước ta lúc
bấy giờ hoặc đi theo tư tưởng phong kiến hoặc đi theo tư tưởng tư sản nên không
đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập tự do của dân tộc do lịch sử đặt
ra. Người nhận xét “chủ nghĩa đế quốc vừa tranh giành nhau trong việc xâu xé
thuộc địa vừa liên kết với nhau trong việc đàn áp các phong trào đấu tranh giành
độc lập của các dân tộc thuộc địa. Các thuộc địa chẳng những cung cấp nguyên vật
liệu cho các nhà máy mà còn cung cấp binh lính cho quân đội đế quốc nhằm đàn
áp các phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chính quốc. Trong cuộc đấu
tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc thuộc địa
có chung một kẻ thù, vì vậy phải phối hợp hành động và cổ vũ lẫn nhau”. Đó là
nguyên nhân đầu tiên mà người lựa chọn con đường cách mạng vô sản là con
đường cứu nước cho dân tộc.


Thứ hai là sự lựa chọn tư tưởng Mác-lênin làm tư tưởng xuyên suốt trong quá
trình hoạt động cách mạng của mình cũng như làm nền tảng tư tưởng cho Đảng
cộng sản Việt Nam. Tháng 7/1920, khi đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận cương


về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin, Người khẳng định: đây là cái
cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng chúng ta. Người tìm thấy
trong lí luận của Lênin con đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản.
Như vậy vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng
có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của
chủ nghĩa Mác-Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản và từ đó Người
quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Thứ ba, nhờ có hệ tư tưởng đó mà Hồ Chí Minh không chỉ khai thông bế tắc
trong đường lối giải phóng dân tộc mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh
đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu nhất của cách mạng nước ta. Đó là sự
kết hợp giữa chủ nghĩa Mac-lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước để xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam xứng đáng là đội tiên phong của giai
cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Đó là việc xây dựng thành công lực lượng cách mạng với mặt trận đoàn kết
dân tộc rộng rãi lấy liên minh công nông làm nòng cốt, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân anh hùng, xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đó là việc
xác định chính xác phương pháp cách mạng phù hợp với thực tiễn đất nước để thực
hiện thành công nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trước biến động hết sức phức tạp
trong quan hệ quốc tế.
2.Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc phải do lực lượng đại
đoàn kết dân tộc thực hiện. Đoàn kết chúng ta sẽ làm nên sức mạnh để đánh đuổi
bọn đế quốc thực dân xâm lược thống trị, giành lại độc lập, tự do. Muốn thoát khỏi


vòng nô lệ, chúng ta chỉ có thể nhờ vào sức của mình mà thôi. Từ quan điểm đó,
cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện thành chủ trương thu phục, tập hợp đông
đảo quần chúng nhân dân, nông dân, hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, phú nông, tư sản, tiểu và trung địa chủ, còn các bộ phận phản cách mạng thì
phải đánh đổ. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, không được quên cái cốt lõi là

công-nông. Phải nhớ: “Công-nông là người chủ cách mệnh. Công-nông là gốc cách
mệnh”.
Các tầng lớp tham gia cách mạng giải phóng dân tộc phải được quy tụ, tập
hợp lại thành “Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm tạo ra
sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do. Đảng đảm nhận
sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức nhân dân Việt Nam đấu tranh giải phóng dân
tộc theo con đường cách mạng vô sản, kết hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
song trước hết là giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực
dân. Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị lí luận khoa học, cách
mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của
giai cấp vô sản, nên Đảng có đủ khả năng đề ra đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn: đoàn kết, tập hợp, lôi kéo các tầng lớp nhân dân đứng lên làm
cách mạng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc và gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới.
Khi chiến tranh nổ ra, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, tôn giáo
và xu hướng chính trị phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc, bọn Việt gian để cứu
giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng. Để thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở
nắm vững mục tiêu cao cả là độc lập, tự do, cần phải biết gắn kết quyền lợi tối cao
của dân tộc và lợi ích thiết thực nhất của giai cấp, các tầng lớp nhân dân, lấy lợi ích
cơ bản, lợi ích chung làm điểm tương đồng. Đồng thời phải có tổ chức thích hợp,
có khả năng khơi dậy mạnh mẽ tinh thần dân tộc với mọi đối tượng đoàn kết.


3.Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Trong phong trào cộng sản quốc tế (từ 1919 đến 1928) đã từng xem thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở
chính quốc. Quan điểm này, vô hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của
các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế

đều lấy ở các xứ thuộc địa, đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà
máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng và nhất là tuyển những binh lính bản xứ
cho các đạo quan phản cách mạng của nó”. “…nọc độc và và sức sống của con rắn
độc tư bản chủ nghĩa đag tập trung ở các nước thuộc địa”. Vì thế phải làm cho các
dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn
kết lại để đặt cơ sở Liên minh cho một phương Đông tương lai, khối liên minh này
sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản.
Tại phiên họp thứ 22 Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1-7-1924), Nguyễn Ái
Quốc phê phán các Đảng cộng sản ở Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ và các Đảng cộng sản
ở các nước có thuộc địa chưa thi hành chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc
địa, trong khi giai cấp tư sản các nước đó đã làm tất cả để kìm giữ dân tộc bị chúng
nô dịch trong vòng áp bức. Trong khi yêu cầu Quốc tế Cộng sản và các Đảng cộng
sản quan tâm đến cách mạng thuộc địa, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định công cuộc
giải phóng dân tộc thuộc địa chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực tự giải phóng.
Vận dụng công thức của C.Mác, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải
phóng anh em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em.
Tháng 8-1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Người kêu gọi: “Toàn quốc
đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.Trong kháng chiến
chống thực dân Pháp, Người nói: “Kháng chiến trường kỳ gian khổ đồng thời phải


tự lực cánh sinh. Trông vào sức mình… Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là
quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không
xứng đáng được độc lập”.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó mới là
quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính – phụ.

Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức
mạnh dân tộc, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa có thể giành thắng lợi trước cáh mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn; một cống hiến rất
to lớn của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã được
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ
qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách
mạng bạo lực kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Thấu hiểu chính sách tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc, nhất là chủ nghĩa Pháp
và từ những kết luận rút ra qua khảo sát, nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc
ở một số nước thuộc địa như Ấn Độ, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “muốn giải phóng dân
tộc phải thực hiện con đường cách mạng bạo lực”. Người khẳng định: “ Dân tộc
Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn giải phóng thì phải đánh phát xít
Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng quân sự. Muốn có lực lượng
thì phải có tổ chức. Muốn tổ chức thành công thì phải có kế hoạch, có quyết tâm”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, theo Hồ Chí Minh, là sử dụng bạo lực
cách mạng của quần chúng nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của bọn
xâm lược cấu kết với những kẻ phản động. Người viết: “Trong cuộc đấu tranh gian


khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại
bạo lực phản cách mạng giành lại chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Quán triệt
quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh cho
rằng việc thực hiện phương pháp cách mạng bạo lực ở Việt Nam nghĩa là kết hợp
những hình thức đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân với những hình thức
đấu tranh vũ trang phù hợp.
Từ năm 1924, đề cập đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam, Hồ Chí
Minh viết: Để có cơ thắng lợi, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó phải có tính chất là một
cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn, phải gắn mật

thiết với sự nghiệp vô sản thế giới.
Tháng 5 năm 1954, Hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành TW khóa I do Người
chủ trì đã đưa ra quyết định tiến hành khởi nghĩa vũ trang, mở đầu bằng cuộc khởi
nghĩa từng phần trong địa phương để tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Khẳng định giải phóng dân tộc bằng con đường bạo lực, song Hồ Chí Minh
luôn chủ động, tích cực đề ra giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát
triển của cách mạng. Thực tiễn cách mạng tháng 8 và hai cuộc kháng chiến chống
thực dân pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là đúng đắn.
5.Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong công cuộc đổi mới
hiện nay
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta cần nghiên cứu, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, cần phải xác định rõ
nguồn lực ( bao gồm con người, trí tuệ, đất đai, tài nguyên, truyền thống dân tộc,
truyền thống cách mạng...), trong đó yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất là con
người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần, từ đó khơi dậy truyền thống yêu
nước của con người Việt Nam thành động lực để chiến thắng kẻ thù, xây dựng và
phát triển kinh tế. Cụ thể, trong hai cuộc kháng chiến, vận dụng tư tưởng Hồ Chí


Minh, tinh thần yêu nước và nguồn lực con người đã phát huy cao độ và biến thành
chủ nghĩa anh hùng vô song, đánh bại hai đế quốc hùng mạnh, giành độc lập dân
tộc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.Và ngày nay, truyền thống quý báu ấy tiếp
tục khơi dậy mạnh mẽ, biến thành nguồn nội lực vô tận đưa nước ta qua mọi thách
thức, và căn bản thay đổi về nhiều mặt: tổng sản phẩm quốc nội năm 2007 là
7,55%; GDP đầu người năm 2008 là 1024USD, vượt qua khủng hoảng toàn cầu
năm 2008, qua đó đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đang được nâng cao,
xã hội ngày càng phát triển, chế độ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong mối quan hệ
thống nhất biện chứng. Trong khi rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước, thì Người vẫn luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận

thức và giải quyết vấn đề dân tộc.Vì vậy Đảng ta đã luôn tăng cường giáo dục chủ
nghĩa Mác- Lênin, làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp dân tộc và giai
cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được quán triệt sâu sắc trong toàn dân.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp vấn đề dân tộc và giai cấp đã đưa cách mạng
Việt Nam từ giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội, đại đoàn kết dân tộc rộng rãi
trên nền tảng liên minh công-nông và tầng lớp tri thức do Đảng lãnh đạo, sử dụng
bạo lực quần chúng cách mạng chống bạo lực phản cách mạng, kiên trì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đại đoàn kết là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước, giữ
nước và phát triển đất nước. Hiện nay, mối quan hệ giữa các dân tộc anh em Việt
Nam rất tốt đẹp và ổn định, song các thế lực thù địch đang tìm mọi cách phá hoại
sự bền vững ấy bằng nhiều hình thức như lợi dụng vấn đề lịch sử để lại, chia rẽ,
khoét sâu đời sống tâm linh...vì vậy, chúng ta ngày càng có những chính sách thiết
thực quan tâm và chăm lo tốt hơn vấn đề đoàn kết dân tộc.
III- Kết thúc vấn đề:


Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận điểm
sáng tạo, làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng, góp phần vô
cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận.
Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo
khuynh hướng chính trị vô sản. Người đã vận dụng kết hợp khai hóa vấn đề dân
tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa xã hội. Vì
vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những
luận điếm sáng tạo và lý luận đó luôn đúng đắn. Cũng chính lý luận ấy đã làm
phong phú thêm chủ nghĩa Mác- lênin về cách mạng thuộc địa.




×