MỤC LỤC
Lời mở đầu
Hồ Chí Minh là một chiến sỹ cộng sản kiên cường, mẫu mực, đồng thời là
một nhà u nước chân chính, anh hùng giải phóng dân tộc, doanh nhân văn hoá
kiệt xuất. Người đã lại những di sản vô cùng to lớn cho dân tộc Việt Nam. Trong
đó tư tưởng của Người chính là di sản lớn nhất về mặt lý luận, soi đường cho
cuộc cách mạng của dân tộc ta đi tới thắng lợi. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về các vấn đề cơ bản của Cách mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của Chủ
nghĩa Mác –Lê nin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Trong đó, tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một
trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Người tiếp thu được tinh hoa nhân loại và vận dụng vào
Việt Nam để giải quyết sáng tạo, thành công, nhuần nhuyễn vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp, giương cao ngọn cờ dân tộc và giai cấp để đưa cách mạng tiến
lên. Nghiên cứu tư tưởng của Người là sự nghiệp khoa học, vừa cơ bản, vừa lâu
dài và rất cần thiết của cuộc sống hôm nay, nhất là trong công cuộc đổi mới, vì
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Đó là lý do em viết đề tài này: “ Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp. Đảng và Nhà nước ta đã giải quyết vấn đề này trong giai
đoạn hiện nay như thế nào?”
1
PHẦN 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác Lê-nin
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp bắt nguồn từ chủ nghĩa
1.
Mác - Lê-nin, lấy chủ nghĩa Mác- Lê-nin làm nền tảng.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử. Mác-Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng cho
việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học. Trước dân tộc là các hình thức
cộng đồng tiền dân tộc như thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cũng như bộ tộc, dân tộc là
cộng đồng người gắn liền với xã hội có giai cấp, Nhà nước và các thể chế chính
trị. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn tới sự ra đời và phát triển của các
nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp
bóc, nơ dịch các dân tộc nhỏ từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và
Ăngghen đã nêu ra những những vấn đề có tính quy luật trong sự hình thành và
phát triển của dân tộc, những đặc trưng cơ bản của dân tộc và các mối quan hệ
dân tộc. Từ đó, Lê Nin kế thừa và phát triển những quan điểm trên thành một hệ
thống lý luận toàn diện, sâu sắc, tạo cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách
dân tộc của các Đảng cộng sản về vấn đề dân tộc. Trong đó đáng chú ý là hai xu
hướng phát triển của dân tộc: Sự thức tỉnh ý thức dân tộc , phong trào đấu
tranh chống áp bức dân tộc sẽ dẫn đến hình thành các quốc gia dân tộc độc lập.
Với việc tăng cường và phát triển các mối quan hệ giữa các dân tộc sẽ dẫn tới
việc phá hủy hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc, thúc đẩy các dân tộc xích lại
gần nhau. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ
phận của những vấn đề chung về cách mạng vô sản và chun chính vơ sản. Do
đó, giải quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản trên cơ sở của cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem
2
xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên đứng vững trên lập trường của giai
cấp cơng nhân. Điều
đó có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở và lợi ích
lâu dài của dân tộc.
Nghiên cứu về vấn đề dân tộc trong q trình phân tích sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về
mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Những quan điểm đó là cơ sở
xác định thái độ của giai cấp vô sản, chiến lược sách lược của Đảng cộng sản và
công nhân - về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
“Giai cấp" là những tập đồn người đơng đảo, khác nhau về địa vị của họ
trong mối quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội. Giai cấp là một phạm trù lịch sử,
chỉ tồn tại trong những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển của xã hội.
Giai cấp sinh ra khi sự phân công trong xã hội xuất hiện và phát triển, khi quyền
tư hữu tư liệu sản xuất xuất hiện.
Chủ nghĩa Mác- Lênin khẳng định rằng, vấn đề dân tộc không thể tách rời
khỏi vấn đề giai cấp, đấu tranh dân tộc không thể tách rời khỏi vấn đề giai cấp,
đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp quan hệ mật thiết với nhau. Cần chú ý
rằng tuy có mối quan hệ gắn bó nhưng dân tộc và giai cấp là những phạm trù
chỉ các quan hệ xã hội khác nhau, mỗi nhân tố có vai trị lịch sử của nó trong sự
phát triển xã hội, không thể quy mối quan hệ này vào quan hệ kia. Giai cấp có
trước dân tộc hàng nghìn năm. Khi nhân loại tiến lên chủ nghĩa cộng sản, giai
cấp sẽ mất đi, nhưng dân tộc còn tồn tại lâu dài.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và
giải quyết theo lập trường của một giai cấp nhất định .Theo Mác Angghen, một
giai cấp đang trưởng thành tiến bộ, đại diện cho một phương thức sản xuất
thống trị, thì đồng thời đại diện cho dân tộc. Việc giải quyết vấn đề giai cấp có ý
nghĩa quyết định đối với việc giải quyết vấn đề dân tộc, và vấn đề dân tộc bao
giờ cũng được chỉ đạo bởi một quan điểm giai cấp nhất định. Đồng thời, chủ
3
nghĩa Mác- Lênin khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố dân tộc so
với nhân tố giai cấp đối với sự phát triển xã hội, ý nghĩa cực kỳ to lớn của việc
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
Quan hệ giai cấp, với tư cách là sản phẩm của một phương thức sản xuất
nhất định, là nhân tố có vai trị quyết định đối với sự hình thành dân tộc, tính
chất dân tộc, xu hướng phát triển của dân tộc, quan hệ giữa các dân tộc.
Giai cấp đang lên tạo nên những đặc trưng cơ bản và quyết định sự hình
thành và xu hướng phát triển của dân tộc. Giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư sản
quyết định xu hướng phát triển và những đặc trưng cơ bản của dân tộc tư sản.
Mác Angghen chỉ ra rằng: Bất cứ chỗ nào mà tư sản chiếm được chính quyền thì
nó đạp đổ những quan hệ phong kiến, gia trưởng và chất phác. Đồng tiền đã trở
thành “phương tiện vĩ đại của sự cân bằng chính trị” trong tay giai cấp tư sản.
Tính chất của dân tộc được quy định bởi phương thức sản xuất thống trị
trong dân tộc, bởi kết cấu giai cấp được sản sinh từ phương thức sản xuất đó.
Thí dụ sự thống trị của giai cấp tư sản đối với xã hội và đối với dân tộc nói
lên tính chất tư bản chủ nghĩa của dân tộc đó. Sau cách mạng xã hội chủ nghĩa,
giai cấp tư sản mất vai trị thống trị, giai cấp cơng nhân trở thành giai cấp lãnh
đạo xã hội và dân tộc. Sự thay đổi quan hệ giai cấp đó làm cho dân tộc tư bản
chủ nghĩa chuyển hướng trở thành dân tộc xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của nhân tố giai cấp còn thể hiện ở mối quan hệ giữa áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc. Chủ nghĩa Mác đã
chỉ ra nguyên nhân sâu xa, căn bản của áp bức dân tộc là chế độ người áp bức
bóc lột người, nói cách khác , áp bức giai cấp là nguyên nhân căn bản của áp
bức dân tộc, ngược lại áp bức dân tộc lại trở thành nguyên nhân làm sâu sắc
thêm áp bức giai cấp. Đặc biệt trong thời địa đế quốc chủ nghĩa, đấu tranh giải
phóng dân tộc ở thuộc địa và đấu tranh giai cấp ở chính quốc có quan hệ tác
động lẫn nhau hết sức mật thiết. Sự kết hợp giữa đấu tranh dân tộc và đấu
4
tranh giai cấp là để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp cần lao. Vì vậy đấu
tranh dân tộc chứa đựng những nội dung giai cấp sâu sắc, nó khơng chỉ là kết
quả mà con là ngun nhân làm cho đấu tranh giai cấp phát triển cả về bề rộng,
bề sâu và có bước nhảy vọt về chất.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chỉ trên lập trường của giai cấp
vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản, Mác-Ăngghen đã đề cập mối quan hệ dân tộc và giai cấp:
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư
sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc. Mác kêu gọi “giai cấp vơ
sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai
cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,... khơng phải theo cái nghĩa
như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mác –Ăngghen, chỉ có giai cấp vơ sản mới
thống nhất được lợi ích dân tộc- lợi ích của mình với các lợi ích của nhân dân
lao động và của cả dân tộc.Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu
vấn đề dân tộc vì ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng
tư sản, đối với Mác, vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp. Thời đại
Lênin, khi chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống thế giới, cách mạng giải
phóng dân tộc trở thành bộ phận của cách mạng vô sản, Lênin mới phát triển
vấn đề dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Lênin cho rằng, cách
mạng vơ sản ở chính quốc khơng thể giành thắng lợi nếu không liên minh với
cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Khẩu hiệu của Mác được
bổ sung: “vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại.” Lênin đã
thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại mới, thật sự cách mạng trong các nước
thuộc địa.”
Thực vậy, ngày nay với tính chất, đặc điểm và địa vị lịch sử của mình chỉ có
giai cấp cơng nhân mới có thể đại diện cho dân tộc và giải quyết đúng đắn quan
hệ lợi ích này. Chỉ có giai cấp cơng nhân mới xóa bỏ triệt để nạn người bóc lột
người, nhờ đó xóa bỏ tình trạng dân tộc này nơ dịch dân tộc khác, giải phóng
5
giai cấp cơng nhân cũng là giải phóng mọi giai tầng, xã hội khỏi sự phân chia
thành giai cấp, mâu thuẫn xung đột giai cấp, vì thế giai cấp cơng nhân phải
giành lấy chính quyền, tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc.
Chủ nghĩa Mác Lê Nin đã làm rõ mối quan hệ giữa hai vấn đề dân tộc và
giai cấp. Tuy nhiên việc giải quyết quan hệ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc chưa
thật triệt để, từ đó Hồ Chí Minh đã tiếp thu và sáng tạo góp phần làm phong phú
thêm chủ nghĩa Mác – Lênin.
2.
Cơ sở thực tiễn
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các
phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra,
nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong
trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối do không nhận thức được xu thế
của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai
cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực
lượng tiến bộ xã hội. Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ
chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết
định ra đi tìm đường cứu nước.
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước
trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra
nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ
của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải
phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp cơng nhân ở các
nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng
Mười Nga, đến với V.I. Lênin như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười
6
Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt
động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo
lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc
đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua.
Trong cuộc hành trình cứu nước, Nguyễn Ái Quốc nhận ra rằng, muốn đòi
được quyền tự do, dân chủ, thì phải giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
Đấu tranh đòi quyền dân chủ chỉ là bước đệm để đi đến giải quyết vấn đề dân
tộc và vấn đề giai cấp.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu
tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng
giai cấp, bền bỉ, chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa,
đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính
cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''.
Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách
mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng:
giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp
bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp cơng
nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực
lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam
khơng phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu
dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt
Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân
7
chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự
tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam,
trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về
giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát
triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh.
PHẦN 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
I. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
Là dân nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sớm nhận thức vấn đề dân tộc, nhận
thức sâu sắc tình cảnh, nguyện vọng các dân tộc thuộc địa, nung nấu ý chí quyết
tâm giải phóng dân tộc. Người tiếp thu và phát triển sáng tạo, độc đáo những
quan điểm chủ nghĩa Mác Lê Nin về vấn đề dân tộc, đặt cách mạng giải phóng
dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người, thống nhất với nhau trong cách mạng vơ sản.
Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập ở đây không phải là
vấn đề dân tộc nói chung, mà là vấn đề dân tộc thuộc địa: thực chất là vấn đề
đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhằm xóa bỏ ách thống trị, áp bức,
bóc lột của nước ngồi, giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, thực hiện
quyền dân tộc tự quyết, thành lập nhà nước dân tộc độc lập.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong thời đại cách mạng vơ sản có
những nội dung cơ bản sau:
1.
Độc lập dân tộc nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa
Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776 và Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791, xuất phát từ quyền con người, Hồ Chí
8
Minh đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế
giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng
và quyền tự do” (Trích Tun ngơn độc lập 2/9/1945)
Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh
nói: “ Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn, đấy là tất cả những điều tơi hiểu”. Có độc lập tự do thì các dân tộc mới
có điều kiện để xây dựng và phát triển.
Độc lập dân tộc gắn với quyền tự quyết dân tộc, tức là quyền được lựa chọn
con đường phát triển khơng phụ thuộc vào bên ngồi, có quyền chủ động trong
chính sách đối nội, đối ngoại của mình.
Độc lập thật sự phải gắn với hồ bình thật sự. “Nhân dân chúng tơi thành
thật mong muốn hồ bình…kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những
quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Độc lập dân tộc phải gắn với ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Độc lập dân tộc cịn là sự bình đẳng giữa các dân tộc
Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, nếu kẻ nào xâm phạm thì phải kiên
quyết chiến đấu để giành lại. “Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, chứ nhất định không chịu làm nô lệ”
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng
của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX. “ Khơng có gì q hơn độc lập tự do” là
khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các
dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Vì vậy, Hồ Chí Minh khơng chỉ là Anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam mà
cịn là “ Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa
trong thế kỉ XX”.
2. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn ở các
nước đang đấu tranh giành độc lập
9
Tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh là: Đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Đông “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước", thể hiện:
Để đưa sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi ở các nước
thuộc địa, nhất là ở Việt Nam thì phải khơi dậy và phát huy được động lực này.
Nếu khơng làm được điều đó cách mạng sẽ không thể thành công. Người kiến
nghị về Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản phải "phát động chủ nghĩa dân tộc bản
xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản". Bởi vì nếu chủ nghĩa dân tộc thắng lợi, chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế.
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc với tư cách là chủ
nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu
và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính “là một bộ phận
của tinh thần quốc tế”, “khác hẳn với tinh thần “vệ quốc” của bọn đế quốc phản
động”.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền
thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, và Người cho đó là
“một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời”.
II. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, nhưng Người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để giải quyết vấn đề dân
tộc. Trong phong trào cách mạng thế giới có lúc nhấn mạnh một chiều quan
điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc; gần đây lại nhấn mạnh vấn đề dân tộc, coi
nhẹ hoặc vứt bỏ yếu tố giai cấp. Dù tình hình thế giới có biến động đến đâu, thì
vẫn cịn đó vấn đề lớn của thời đại: Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp vẫn
tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức. Chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì
mục tiêu "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", để nhân
10
dân ấm no, hạnh phúc. Mục tiêu đó khơng chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề
dân tộc. Nó chứng tỏ chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam và giai cấp công nhân mới
là lực lượng đại biểu chân chính cho lợi ích của dân tộc.
Ở chủ nghĩa Mác Lênin dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết
theo lập trường của một giai cấp nhất định. Ngày nay, chỉ có thể đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân vấn đề dân tộc mới được giải quyết đúng đắn. Hồ
Chí Minh cũng thống nhất với quan điểm trên. Cách mạng giải phóng dân tộc
ngày nay cũng phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vấn đề dân tộc gắn với giai
cấp ngày nay cũng có nghĩa là là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau
Sự kết hợp nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh
thể hiện: Người đứng trên lập trường của giai cấp công nhân để nguời nhận
thức và giải quyết các vấn đề dân tộc, khẳng định vai trị lịch sử của giai cấp
cơng nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách
mạng Việt Nam; chủ trương đại đồn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên
minh công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng ; sử
dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng
của kẻ thù; thiết lập chính quyền nhà nước của dân, do dân và vì dân; gắn kết
mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
1. Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh là: Khi đất nước cịn nằm dưới sự áp
bức của đế quốc và bè lũ tay sai thì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc luôn
là một mục tiêu thiêng liêng được đặt lên hàng đầu. Mọi vấn đề như giương cao
ngọn cờ lý tưởng, bồi dưỡng sức dân, phân hố cơ lập kẻ thù, tập hợp lực lương
cách mạng... trong phạm vi quốc gia và quốc tế trước hết tập trung hướng vào
thực hiện nhiệm vụ cao cả đó. Người cho rằng: đưa dân tộc thốt khỏi ách nơ
địch thuộc địa, giải phóng nhân ta khỏi “kiếp ngựa trâu” của chính quyền đế
11
quốc tay sai là đã tạo tiền đề tiên quyết đưa sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hai yếu tố này tạo nên nội dung hoàn
chỉnh của con đường cách mạng Việt Nam và nó có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Đó là con đường cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Trong đó độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc phải
giành, giữ cho được độc lập dân tộc; độc lập dân tộc phải đi đến thống nhất, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ và phải đi tới quyền tự quyết dân tộc trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội; độc lập dân tộc phải gắn liền với hồ
bình, chỉ có độc lập dân tộc trong hồ bình và chỉ có hồ bình mới thực sự có độc
lập, cịn chiến tranh, cịn ngoại xâm khơng thể có độc lập dân tộc; độc lập dân
tộc phải đi tới ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do vậy, độc lập dân tộc
bao giờ cũng là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng Việt Nam, nó là hệ
quả của việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của cách mạng giải phóng của dân
tộc, mâu thuẫn giữa toàn dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai của chúng là
đại địa chủ phong kiến. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc thực hiện độc lập dân tộc cũng là quá trình tạo các
tiền đề trên tất cả các mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội để đưa dân tộc đi
lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện bước phát triển toàn diện đất nước.
Khác với các con đường cứu nước của ông cha, gắn độc lập dân tộc với chủ
nghĩa phong kiến (cuối thế kỉ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX), con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải quyết và phát triển dân
tộc theo con đường của cách mạng vơ sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống
nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội.
12
Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người nô lệ trên thế giới khỏi ách nô
lệ”.
Vấn đề này được thể hiện trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Trước hết phải làm cách mạng tư sản dân quyền kiểu mới. Sau khi cách mạng
dân quyền giành thắng lợi thì đi tới xã hội công sản. Xác định rõ các mục tiêu và
con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, hướng đi lên của cuộc cách mạng này
là đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề dân tộc chỉ có thể được giải quyết từng bước và triệt để cùng với sự
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội có sức mạnh xóa bỏ áp bức giai
cấp, đồng thời xóa bỏ áp bức dân tộc, bảo đảm quyền của các dân tộc tự do phát
triển tất cả các giá trị của mình. Tuy nhiên, vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc - giai
cấp, quan hệ giữa các dân tộc là vấn đề cực kỳ phức tạp. Quan niệm cho rằng,
khi chính quyền đã về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thì vấn đề
dân tộc sẽ trở lên rất đơn giản, tự nó được giải quyết là một quan niệm hết sức
sai lầm. Phải hiểu rằng, những mâu thuẫn của vấn đề dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và dưới chủ nghĩa xã hội không chỉ là di sản của xã
hội cũ mà còn bao gồm các mâu thuẫn mới nảy sinh đòi hỏi được giải quyết. Vấn
đề dân tộc trở nên đặc biệt phức tạp khi các đảng cầm quyền phạm những sai
lầm lớn trong việc xử lý các quan hệ dân tộc, coi thường các lợi ích dân tộc cụ
thể, coi thường bản sắc dân tộc, tình cảm dân tộc, truyền thống dân tộc... Sự
khủng hoảng về vấn đề dân tộc đã khiến cho khủng hoảng kinh tế - xã hội nói
chung ở một số nước xã hội chủ nghĩa thêm trầm trọng.
2.
Giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp
Ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam, giải quyết mối quan hệ
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một vấn đề lớn, đầy khó khăn phức
tạp. Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, với sức sáng tạo tuyệt vời, tinh tế, Hồ
Chí Minh đã khéo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, đưa ra một mẫu hình
13
chuẩn mực trong việc xử lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp trong tiến trình cách mạng vơ sản.
Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp nhưng đồng
thời đặt vấn đề giai cấp theo vấn đề dân tộc. Giải phóng dân tộc khỏi ách thống
trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì vậy, lợi ích giai
cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc. Bên cạnh đó, chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng
áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm
bảo cho người lao động quyền làm chủ, mới đảm bảo được sự phát triển hài hòa
giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con
người. Do đó, sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm
cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.
3.
Giữ vững độc lập của dân tộc mình đồng thời tơn trọng độc lập
của dân tộc khác
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc
lập của dân tộc Việt Nam mà còn đấu tranh cho độc lập của các dân tộc bị áp
bức. Theo Người, độc lập dân tộc không chỉ hiểu là độc lập cho dân tộc mình,
đồng thời là độc lập cho tất cả các dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ đạo cuộc đấu tranh
cách mạng để giải phóng dân tộc mình và kêu gọi người dân ủng hộ cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân
Trung Quốc, các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ
xâm lược của nhân dân Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiểu “giúp bạn là tự giúp
mình”, chủ trương phải bằng thắng lợi của cách mang mỗi nước mà đống góp
vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học
đúng đắn, vừa mang tính cách mạng sâu sắc; vừa là tư tưởng dân tộc chân
chính và tư tưởng quốc tế chân chính. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân
tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
14
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập
cho tất cả các dân tộc. Đó là cống hiến lớn, sự vận dụng đúng đắn và phát triển
sáng tạo lý luận Mác – Lênin trong điều kiện lịch sử mới của Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nước đến với CNMLN, đã nhận thức được mối
quan hệ chặt chẽ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, lựa chọn cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách
mạng vơ sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp dân tộc với giai cấp, dân tộc với
quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh thấy rõ mối quan hệ
giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp của giai cấp
vơ sản. “Cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản và của cách mạng thế giới”.
PHẦN 3: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP - NHỮNG LUẬN ĐIỂM SÁNG TẠO MỚI
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin trên nền
tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có
quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.
Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Quốc tê cộng sản 1924
Người cho rằng: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất
định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa
phải là tồn thể nhân loại. Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử"
của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời
mình khơng thể có được". Và Người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở
lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đơng". Ở phương Đông,
"Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội
15
Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống
như xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai
cấp ở đó khơng quyết liệt như ở đây…".
Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh cho rằng mâu
thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi trội hơn mâu
thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với vơ sản. Do
đó, khơng phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như
ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải phóng
được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc
khơng cịn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận
giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được tự do độc
lập cho tồn dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp
ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại
được."
Hồ Chí Minh nêu, các nước thuộc địa phương Đơng khơng phải làm ngay
cách mạng vô sản, mà trước hết giành độc lập dân tộc. Có độc lập dân tộc rồi
mới bàn đến cách mạng XHCN.
Một điểm đặc biệt sáng tạo nữa, Hồ Chí Minh khơng những thấy rõ ràng
buộc giữa cách mạnh giải phóng dân tộc với cách mạng vơ sản “ Muốn cứu nước
và giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác ngồi con đường cách
mạng vơ sản” mà còn khẳng định khả năng cách mạng thuộc địa có thể nổ ra và
giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam có thể hồn
tồn chủ động đứng lên, ‘đem sức ta giải phóng cho ta”.“Các dân tộc thuộc địa
phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời biết tranh thủ sự đồn kết, ủng hộ
của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới để phải đấu tranh giành độc
16
lập cho dân tộc, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN”.
Khi mà lúc bấy giờ, Lênin đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc cách mạng vơ sản
chính quốc, là “hậu bị qn” của cách mạng vơ sản chính quốc, và cách mạng
giải phóng dân tộc chỉ thắng lợi khi cách mạng vơ sản chính quốc giành thắng
lợi.
Từ phương pháp tiếp cận đúng đắn, mạnh dạn, khoa học, trong kế thừa và
phát triển học thuyết Mác – Lênin, đồng thời bám sát đặc điểm thực tiễn của
Việt Nam và thế giới, Hồ Chí Minh đã có những đặc điểm sáng tạo góp phần làm
phong phú thêm chủ nghĩa Mác – Lênin.
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một
trong những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào
sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói
chung.
Phần 4: VẬN DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỂ GIẢI
QUYẾT VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chẳng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đến nay, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin và những quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân tộc và giai cấp để
đưa ra cách giải quyết đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Chính sách đó vừa
phù hợp với hồn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế
phát triển tiến bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam
đón nhận với niềm phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng
Việt Nam có được sức mạnh to lớn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh
17
giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.
I. Liên hệ thực tiễn Việt Nam và thực trạng việc giải quyết vấn đề dân
tộc và giai cấp ở nước ta hiện nay
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc.Dân tộc
Kinh chiếm 87% dân số, 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số phân bố rải rác
trên địa bàn cả nước.
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự cố kết dân
tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở thành truyền
thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong các cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử cho
đến ngày nay.
Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết cấu công xã
nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Đoàn kết là xu hướng khách quan cố kết các
dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có chung vận mệnh lịch sử, chung một tương
lai, tiền đồ. Bên cạnh đó vẫn có nơi có lúc vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực trong
quan hệ dân tộc. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng
mọi thủ đoạn chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ nước ta. Do đó phát huy
truyền thống đồn kết xố bỏ thành kiến, nghi kị dân tộc và kiên quyết đập tan
mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của nhân dân ta
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Do điều kiện tự nhiên xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức bóc lột trong
lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá … giữa các dân tộc còn khác biệt,
chênh lệch nhau.
Cùng với nền văn hố cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam đều có đời sống văn hố mang bản sắc riêng rất phong phú.Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta ln ln tơn trọng bản sắc văn hố riêng và tôn trọng tự
18
do tín ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hoá
của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hoá của cả cộng đồng.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại cư trú trên
các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới, vùng rừng núi cao, hải đảo.
Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước:
Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi
mặt giữa các dân tộc, tạo điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về
trình độ văn hóa, văn hóa giữa các dân tộc, đưa miền núi về kịp miền xi. Làm
cho các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc cùng tiến bộ, cùng làm chủ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã nêu rõ:”Vấn
đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng”. Những chính sách dân tộc cơ bản của Đảng và Nhà nước ta được
biểu hiện cụ thể như sau:
Xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng giao thơng vận tải, thương nghiệp ở các
vùng dân tộc ít người, vùng sâu vùng xa, vùng biên giới.
Ra sức phát triển kinh tế và văn hóa ở các vùng dân tộc thiểu số, phát triển
nông nghiệp, lâm nghiệp phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân
tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa
phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Tơn trọng lợi ích, truyền thống, văn hố, ngơn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của
đồng bào các dân tộc, từng bước nâng cao dân trí đồng bào các dân tộc , nhất là
các dân tộc thiểu số ở vùng núi cao, hải đảo.
19
Tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết và đấu tranh kiên cường của các
dân tộc vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, chống tư tưởng dân tộc lớn và dân
tộc hẹp hòi, nghiêm cấm mọi hành vi miệt thị và chia rẽ dân tộc.
Để khuyến khích, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng cao, Đảng chủ
trương có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những cán bộ, cơng nhân cơng tác ở
miền núi. Tích cực bồi dưỡng ,đào tạo đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số,đồng thời
giáo dục tinh thần đoàn kết hợp tác cho cán bộ các dân tộc. Trong cơng cuộc đó ,
khơng dân tộc nào có thể chỉ sử dụng đội ngũ cán bộ xuất thân từ dân tộc mình ,
ngược lại, cần sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các đội ngũ cán bộ thuộc mọi dân tộc
trong cả nước.
Ngày 29/03/2010, Đảng và Nhà nước đã có quyết định hỗ trợ chi phí về
giống và vật tư chính, đối với hộ nghèo ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa mức hỗ
trợ tối đa 100% và không quá 5.000.000 đồng/hộ; đối với hộ nghèo ở các vùng
khác mức hỗ trợ tối đa là 50% và khơng q 3.000.000 đồng/hộ.
Như vậy, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước mang tính tồn diện ,
tổng hợp tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát triển kinh tế, xã hội của
các dân tộc là nền tảng để tăng cường đoàn kết và thực hiện quyền bình đẳng
dân tộc, là cơ sở để từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các dân tộc. Chính sách dân tộc cịn mang tính cách mạng và tiến bộ đồng
thời cịn mang tính nhân đạo sâu sắc khơng bỏ sót bất kì một dân tộc nào, khơng
chia rẽ dân tộc, nó tơn trọng quyền làm chủ của mỗi con người và quyền tự
quyết của mỗi dân tộc. Song vẫn có những hạn chế như nhiều biện pháp khi thực
hiện mang tính lí thuyết, các chính sách nhiều khi chưa thực sự phù hợp với điều
kiện phát triển của từng dân tộc, lợi ích của đồng bào các dân tộc nhiều khi
chưa được giải quyết đúng đắn.
Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là rất quan trọng
cần phải hiểu rõ vấn đề để giải quyết một cách đúng đắn. Một câu hỏi đặt ra là
hiện nay ở Việt Nam còn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp hay không? Hiện
20
nay, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn tồn tại lâu dài các
giai cấp, các mâu thuẫn giai cấp. Đấu tranh giai cấp là thực tế khách quan
không thể tránh khỏi.
Ở Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tồn tại nhiều giai cấp khác
nhau nhưng đều nằm dưới sự quản lí chung của Nhà nước. Giai cấp công nhân
vẫn là lực lượng đông đảo, giữ sứ mệnh lịch sử tiếp tục công cuộc xây dựng đất
nước tiến lên CNXH.
Ngày nay, ở Việt Nam đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa tiến bộ và lạc
hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa chế độ xã hội ưu việt với chế độ
xã hội lỗi thời.
Đấu tranh giai cấp ở Việt Nam chủ yếu bằng chính trị, ít bạo lực. Đối tượng
cuộc đấu tranh là nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, là các thế lực thù địch
ln ln tìm cách chống phá Việt Nam, là các hiện tượng tham nhũng, quan
liêu.
Trước hết, đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở nước ta là cuộc đấu
tranh dưới hình thức một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng
xã hội đi con đường hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội dân chủ văn
minh, đoàn kết trong mặt trận dân chủ thống nhất do Đảng lãnh đạo với một
bên là các thế lực, các tổ chức các phần tử chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, chống đảng, nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự xã hội và an ninh quốc
gia.
Đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa cũng
là biểu hiện của đấu tranh giai cấp trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
Đấu tranh giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tầng lớp tư bản ,
nhưng đây chỉ là đấu tranh trong nội bộ nhân dân. Vì trong xã hội ta hiện nay
lợi ích hợp pháp của các nhà tư bản căn bản thống nhất với lợi ích chung của
cộng đồng.
21
Chính sách của Đảng và Nhà nước giải quyết vấn đề giai cấp
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố theo định
hướng XHCN, khắc phục tình trạng nghèo kém phát triển.
Thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức bất công .
Đấu tranh ngăn chặn, khắc phục tư tưởng hoạt động tiêu cực sai trái, đấu
tranh làm thất bại âm mưu hoạt động chống phá của kẻ thù bảo vệ độc lập dân
tộc.
Đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân nông dân tri thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từng giai cấp có lợi ích, quyền hạn riêng nhưng ln phải đặt lợi ích chung
của tồn xã hội lên đầu.
Đưa ra chính sách nhằm giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa giai cấp.
Thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ tự do, mọi giai cấp nếu có đủ năng lực
đều có quyền tham gia vào bộ máy quản lí Nhà nước thơng qua tuyển cử bỏ
phiếu.
Như vậy quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước mang ưu điểm là
giảm bớt được sự chênh lệch kinh tế giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội, cải
thiện đời sống giai cấp cả về vật chất lẫn tinh thần, định hướng cuộc đấu tranh
giai cấp chỉ mang tính cạnh tranh giải quyết thơng qua pháp luật, khơng bạo
lực, giữ vững hồ bình độc lập dân tộc, phát triển kinh tế đất nước, xây dựng
đất nước thành khối đại đoàn kết thống nhất. Song tính dân chủ, bình đẳng
mang nặng tính hình thức. Trong chính sách cịn tồn tại nhiều thủ tục hành
chính rườm rà dẫn đến gây mất đoàn kết nội bộ, giảm bớt niềm tin của dân vào
Đảng, Nhà nước. Đấu tranh chống quan liêu, tham ơ nhiều khi chưa dứt khốt,
quyền lợi giai cấp chưa đảm bảo.
Bằng việc có những chính sách phù hợp giải quyết từng vấn đề, giải quyết
cân bằng hài hòa giữa hai vấn đề này khiến mối quan hệ giữa dân tộc và giai
22
cấp trở lên tốt đẹp, tạo tiền đà cho nền kinh tế Việt Nam phát triển ngày càng tốt
hơn.
II. Một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường mối quan
hệ giữa dân tộc và giai cấp ở nước ta hiện nay.
1- Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
quan điểm giai cấp. Trong Đại hội IX: Báo cáo chính trị cần qn triệt tơn chỉ đó
là nêu cao hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh. Khẳng định rõ vai trị, sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, của Đảng Cộng sản, kết hợp vấn đề dân tộc và giai
cấp đưa cách mạng Việt Nam từ giải phong dân tộc lên chủ nghĩa xã hội.
2- Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động
lực mạnh mẽ xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phát huy nguồn lực để xây dựng và
phát triển đất nước trong đó nguồn lực con người cả về thể chất và tinh thần là
quan trọng nhất.
3- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng niềm tin của quần chúng nhân dân
vào Đảng hơn nữa.
4- Nước ta đang bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, số lượng công
nhân hiện đại ngày càng phát triển. Công nhân làm việc trong các doanh nghiệp
ở các thành phần kinh tế khác nhau, có quyền lợi khác nhau, nhưng dù sao cũng
đã giác ngộ ý thức giai cấp. Vì đa số mới xuất thân từ nông dân và người lao
động ở thành thị, sinh viên tốt nghiệp đại học. Đảng ta cần tập hợp, giáo dục đội
ngũ công nhân mới này giác ngộ sâu sắc ý thức giai cấp, làm cho giai cấp công
nhân Việt Nam không chỉ đông, mà còn mạnh, Đảng ta ngày càng vững. Để giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân nhất thiết phải tăng tỉ lệ Đảng
viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.
5- Phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc ít người, hài
hịa lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong sự nghiệp xây
dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
23
PHẦN 5: Ý KIẾN BẢN THÂN
Hồ Chí Minh một mặt khắng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Mặt khác, trong quá trình tìm hiểu và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa
Mác – Leenin vào thực tiễn xã hội Việt Nam và các nước phương Đông, Người đã
sớm phát hiện ở phương Đơng có những đặc điểm khác với các nướ phương Tây
mà thời Mác chưa có điều kiện nghiên cứu. Hồ Chí Minh đã bổ sung và phát triển
chủ nghĩa Mác – Lênin bằng những luận điểm mới rất quan trọng.
Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng yêu cầu
sáng tạo, khơng máy móc rập khn, muốn vậy, phải hiểu rõ hoàn cảnh, những
điều kiện lịch sử cụ thể và đặc điểm của từng quốc gia, dân tộc
Người đã từng căn dặn chúng ta phải chú ý học tập kinh nghiệm của Liên Xô,
Trung Quốc và các nước anh em nhưng khơng được sao chép mà phải có tinh
thần độc lập tự chủ. Người nói rõ, ta và Liên Xơ rất khác nhau về trình độ phát
triển, về lịch sử và văn hóa. Trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm
khác với Liên Xô, vẫn là người mác-xít.
Nhận thức đúng đắn, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin
vào hoàn cảnh, điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam là điểm xuất phát và thực
tiễn, về ý thức hệ của Hồ Chí Minh. Đó chẳng những là cơ sở để có những phát
kiến sáng tạo, những cống hiến của Hồ Chí Minh về tư tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội mà còn là sự cống hiến đặc sắc của Người góp phần làm phong
phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin và kho tàng lý luận cách mạng thế giới. Đúng như
câu nói của Đại tướng Võ Nguyên Giáp : “ Thế giới cịn đổi thay, nhưng tu tưởng
Hồ Chí Minh sống mãi”
Đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, Người đã giải quyết đúng đắn
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Ngày nay, cần tiếp tục giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay. Theo em, cần chú
trọng đào tạo tốt hơn nữa cho giai cấp cơng nhân. Có thể bước đầu đội ngũ công
24
nhân trình độ, năng lực cịn yếu kém do sự bổ sung từ nơng dân nhưng q trình
phát triển kinh tế sẽ tạo điều kiện cho giai cấp công nhân trưởng thành. Và để có
đội ngũ cơng nhân có trình độ chuyên môn cao, chuẩn bị tiếp nhận các thành tựu
khoa học, kỹ thuật cần có đầu tư của Nhà nước nhằm phát triển khoa học và
công nghệ phù hợp với xu thế nhảy vọt của cách mạng khoa học – công nghệ và
kinh tế tri thức trên thế giới. Có bước tiến và đào tạo, nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở một số lĩnh
vực then chốt, chú trọng trong công nghệ cao để đào tạo đột phá và công nghệ
sử dụng nhiều lao động.
Tài liệu tham khảo
1.
Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh- Bộ giáo dục và đào tạo – NXB chính trị quốc
2.
gia, 2009.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc – PTS.Nguyễn
3.
Thế Thắng, Nxb.Lao Động.
Một số vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
4.
Nhà xuất bản công an nhân dân, 2004.
Một số chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh / B.s: Đinh Xn Lý (ch.b), Hồng Chí
5.
Bảo, Nguyễn Văn Dương, NXB chính trị quốc gia, 2003
Tư tưởng Hồ Chí Minh- TS Phạm Ngọc Anh. PGS TS Bùi Đình Phong đồng chủ
6.
7.
biên- NXB lý luận chính trị.
HCM Tồn tập, NXB chính trị quốc gia HN, 2000, tập 1.
Tài liệu được tham khảo tại website:
ebook.edu.vn, tailieu.vn
Báo baomoi.vn, dangcongsan.vn
25