BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
MỞ BÀI
Bộ luật hình sự là một trong những công cụ hiệu quả nhất giúp Nhà
nước quản lý xã hội và thiết lập trật tự xã hội. Với nhiệm vụ đó, chúng ta se
tìm hiểu một khía cạnh của BLHS Việt Nam, đó là vấn đề về các tội xâm
phạm danh dự và nhân phẩm của con người thông qua một tình huống cụ thể
sau đây. Đồng thời thông qua đó chúng ta có được nhận thức một cách đúng
nhất các quy định của pháp luật hình sự điều chỉnh vấn đề này, cũng như các
cách giải quyết của pháp luật hình sự trong từng trường hợp phạm tội cụ thể.
TÌNH HUỐNG
Nguyễn Thị V cùng một số người bạn là A, B và C (đều là nam giới)
tập trung ăn nhậu tại một lán nhỏ dựng bên bờ ao. Sau vài giờ trò chuyện và 4
người uống hết 3 lít rượu thì V đã choáng váng say, buồn nôn nên loạng
choạng đi ra ngoài. Thấy V bước liêu xiêu, A cũng loạng choạng đi theo dìu
V cho khỏi ngã. Hai người lại dìu nhau đến một cái lán khác cách đó vài chục
mét để V nằm nghỉ. Tại đây, V say rượu không biết gì nữa, còn A cũng trong
tình trạng chếnh choáng nên nổi dục vọng và giao cấu với V. Sau đó A nằm
ngủ cạnh V. Khi B và C lảo đảo đi ngang qua thấy V không mảnh vải trên
người nên đã thay nhau giao cấu với V . Vụ án sau đó được phát hiện.
HỎI:
1. Hãy xác định tội danh cho hành vi của A, B và C? Nêu căn cứ pháp lý ?
2. Trường hợp cố ý phạm tội của A, B và C có là đồng phạm không? Tại sao?
3. Việc phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu của A, B, C có được coi là
tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS không?
4. Giả thiết rằng V đang có thai ở tháng thứ 2 thì A, B và C có phải chịu
TNHS về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ có thai” qui định tại
điểm h khoản 1 Điều 48 BLHS không? Tại sao?
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
1
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Hãy xác định tội danh cho hành vi của A, B và C? Nêu căn cứ pháp lý?
Xác định tội danh là hoạt động thực tiễn trong áp dụng pháp luật. Trên cơ
sở các quy định của BLHS để xem xét, đánh giá một hành vi đã thực hiện trên
thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm nào được quy định trong
BLHS. Rồi trên cơ sở đó mới xác định vấn đề trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Khi tiến hành xác định tội danh phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 111 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung
năm 2009) thì: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng
tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu
với nạn nhân trái với ý muốn của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”
Theo tình huống nêu trên, hành vi của A, B và C cấu thành tội hiếp dâm
theo Điều 111 BLHS. Bởi hành vi phạm tội của A, B, C đã thỏa mãn các dấu
hiệu pháp lí trong CTTP của tội hiếp dâm như sau:
Khách thể của tội phạm: là quyền được tôn trọng về nhân phẩm, danh
dự. Cụ thể là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của nạn nhân. Trong tình
huống này là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của phụ nữ, chính là chị V.
Mặt khách quan của tội phạm:
+ Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi giao cấu với người phụ nữ,
trái ý muốn của họ, bằng thủ đoạn dùng vũ lực (dùng sức mạnh vật chất tác
động vào thân thể nạn nhân, đè bẹp sự phản kháng của nạn nhân như xô ngã,
vật, giữ…), đe dọa dùng vũ lực (đe dọa dùng sức mạnh vật chất tác động vào
ý chí nạn nhân, làm tê liệt sự kháng cự của họ), lợi dụng tình trạng không thể
tự vệ được của nạn nhân (lợi dụng khi nạn nhân ốm, bị bại liệt…) hoặc dùng
thủ đoạn khác (có thể là lợi dụng người phụ nữ đang trong tình trạng không
có khả năng biểu lộ ý chí: nạn nhân bị tâm thần, bị say rượu, hoặc có thể tình
trạng trên do người phạm tội tự mình tạo ra: cho nạn nhân uống rượu…)
Trong tình huống trên A, B, C đã lợi dụng tình trạng không thể tự vệ
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
2
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
được (say rượu) của V đã thực hiện hành vi giao cấu với V. Hành vi này hoàn
toàn trái với ý muốn của V.
Cấu thành tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu
với nạn nhân. Nếu người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực … để
giao cấu nhưng chưa giao cấu được với nạn nhân vì lý do khách quan thì
người này vẫn phạm tội hiếp dâm nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt. Hành
vi giao cấu của người phạm tội phải trái ý muốn của nạn nhân, nghĩa là nạn
nhân không chấp nhận sự giao cấu. Trường hợp hành vi giao cấu xảy ra
không có ý muốn của nạn nhân vì họ đang trong tình trạng không biểu lộ ý
chí được coi cũng là “hành vi giao cấu trái ý muốn”
+ Tội hiếp dâm có cấu thành hình thức. Do vậy hậu quả cũng như mối quan
hệ nhân quả không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành này. Nó chỉ có ý
nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
và từ đó có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt. Công cụ, phương tiện, địa
điểm…phạm tội giúp việc quyết định hình phạt được chính xác hơn.
Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt.
Người thực hiện tôi phạm này chỉ có thể là nam giới. Trong tình huống trên
cả A, B, C đều là nam giới, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
theo luật định (căn cứ vào điều 12 và điều 13 BLHS).
Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý.
Người phạm tội biết hành vi giao cấu của mình là trái ý muốn của người phụ
nữ nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó bằng mọi thủ đoạn (dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn
nhân…). Động cơ và mục đích không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm này.
Trong tình huống trên cả A, B, C đều trong tình trạng “ chếnh choáng”
do dùng rượu nhưng theo quy định tại Điều 14 BLHS: “ người nào phạm tội
trong tình trạng say do dùng rượi hoặc chất kích thích khác thì vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự”.
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
3
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
Người phạm tội là có lỗi nếu người đó tự đưa mình rơi vào tình trạng
đó (tự mình uống rượu say). Cụ thể trong tình huống trên A, B, C là lỗi cố ý
uống rượu và gây ra thiệt hại do việc uống rượu của mình. Vì vậy, khi xét về
mặt chủ quan của tội phạm thì hành vi của A, B, C là hành vi thực hiện với lỗi
cố ý.
Qua những phân tích trên, ta có đủ cơ sở pháp lý để khẳng định hành vi
của A, B và C phạm vào tội hiếp dâm (Điều 111 – BLHS). Do đó A, B và C se
bị truy cứu TNHS về tội phạm mà mình đã gây ra.
2. Trường hợp cố ý phạm tội của A, B và C có đồng phạm không? Tại
sao?
Theo quy định tại Điều 20 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 thì
“đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm”. Để trở thành đồng phạm thì những người phạm tội thỏa mãn dấu hiệu
sau:
Về mặt khách quan:
+ Có từ hai người trở lên và những người này phải có đủ các điều kiện của tội
phạm: năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS. Riêng dấu hiệu chủ thể đặc biệt
chỉ đòi hỏi ở người thực hành.
+ Những người này phải cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Nghĩa là họ
phải tham gia vào tội phạm với một trong bốn hành vi sau:
- Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm: tổ chức thực hiện hành vi được
mô tả trong CTTP.
- Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm: xúi giục người khác
thực hiện hành vi mô tả trong CTTP.
- Hành vi giúp sức: giúp người khác thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP.
- Hành vi thực hiện tội phạm: Là thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP.
Nếu không có một trong những hành vi nêu trên thì không thể coi là cùng
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
4
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
thực hiện tội phạm và như vậy cũng không có đồng phạm. Thực tế cho thấy,
người đồng phạm có thể tham gia với một loại hành vi nhưng cũng có thể
tham gia với nhiều loại hành vi khác nhau. Họ có thể tham gia từ đầu nhưng
cũng có thể tham gia khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết thúc. Và tổng
hợp những hành vi của họ thỏa mãn một CTTP nhất định.
Về mặt chủ quan: Đồng phạm đòi hỏi những người thực hiện tội phạm
đều với lỗi cố ý. Ngoài ra đối với những tội mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt
buộc (chương XI) thì đồng phạm cũng đòi hỏi những người phạm tội này phải
có cùng mục đích đó. Những người trong vụ đồng phạm thực hiện tội phạm
với lỗi cố ý có nghĩa là:
+ Về lý trí: Mỗi người trong đồng phạm đều biết hành vi của mình và hành vi
của người khác là nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời họ còn thấy trước hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ
tham gia thực hiện se xảy ra hoặc có thể xảy ra.
+ Về ý chí: Những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và
cùng mong muốn hoặc cùng ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Đối với những trường hợp đồng phạm mà dấu hiệu mục đích là dấu hiệu bắt
buộc thì ngoài dấu hiệu cùng thực hiện và cùng cố ý thực hiện tội phạm thì
những người tham gia phải có chung mục đích được phản ánh trong CTTP
hoặc biết rõ hoặc tiếp nhận mục đích đó.
Quay trở về bài tập tình huống, ta giả thiết rằng A, B, C thỏa mãn dấu hiệu
của chủ thể của tội phạm. Nhưng trong trường hợp này A, B, C không phải là
đồng phạm vì không thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của đồng phạm. Cụ thể:
Về mặt chủ thể: Cả A, B, C đều thỏa mãn dấu hiệu của chủ thể: có
năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Mặc dù ba người thực hiện hành vi
giao cấu khi say nhưng theo Điều 14 BLHS thì người say vẫn phải chịu
TNHS.
Dù đáp ứng yêu cầu thứ nhất, trong mặt khách quan nhưng ba người này
không phải cùng thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Họ không có sự liên kết về
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
5
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
hành vi phạm tội. A thực hiện hành vi hiếp dâm trước một cách độc lập sau
đó B, C mới thực hiện. Giữa A, B và C không có sự bàn bạc thỏa thuận hay
dàn xếp gì. Như vậy về mặt chủ quan thì không có sự thống nhất về ý chí
cũng như lý trí của A, B, C. A không hề biết B, C có hành vi giao cấu với V
(vì cả V và A đều quá say nên không biết việc làm của B, C).
Như vậy A, B, C không thể là đồng phạm trong vụ án hiếp dâm này.
Nhưng riêng trường hợp phạm tội của B và C thì đây được coi là đồng phạm
vì về khách quan: cả B và C đều thực hiện hành vi giao cấu với V, đều đóng
vai trò là người thực hành trong vụ đồng phạm. Về mặt chủ quan: cả B và C
đều biết hành vi của mình là nguy hiểm nhưng vẫn mong muốn thực hiện
hành vi phạm tội thể hiện ở việc “thấy V trong tư thế không mảnh vải trên
người” nên B và C “đã thay nhau giao cấu với V”. Như vậy B và C là đồng
phạm trong vụ hiếp dâm và là đồng phạm không có thông mưu trước.
3. Việc phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu của A, B, C có được
coi là tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS không?
Theo quy định tại Điều 14 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 “Người
phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác
thì vẫn phải chịu TNHS”. A, B, C đã thực hiện hành vi giao cấu với chị V
trong khi say( khi năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của họ bị hạn
chế) nhưng họ vẫn phải chịu TNHS về tội hiếp dâm vì chính A, B, C là người
có lỗi với tình trạng say của mình. Chính họ đã tự tước bỏ năng lực nhận thức
và năng lực điều khiển hành vi của mình, tự đặt mình vào tình trạng năng lực
TNHS bị hạn chế. Bởi vậy A, B, C phải chịu TNHS là đúng. Vấn đề là tình
tiết phạm tội trong tình trạng say có được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm
nhẹ không?
Trường hợp phạm tôi trong tình trạng say do dùng rượu của A, B, C không
được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự vì không thuộc các Điểm
từ Điểm a) đến Điểm o) Khoản 1 Điều 48 BLHS. Tình tăng nặng trách nhiệm
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
6
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
hình sự phải dược nhà làm luật ghi nhận chỉ trong BLHS, chứ không thể trong
các văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể do Tòa án tự xem xét để cân
nhắc như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
“Tình tiết tăng nặng TNHS là các tình tiết làm tăng lênmột cách đáng kể
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”. Đây là một trong bốn
căn cứ để quyết định hình phạt một cách đúng đắn và chính xác. Trên khía
cạnh pháp lý không thể coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
được. Hơn nữa, thực tế việc say do dùng rượu của A, B, C không là nguyên
nhân của bất kỳ tình tiết tăng nặng nào. Chẳng hạn, trong thực tế, tội phạm có
thể uống rượu để lấy can đảm nhằm cố tình thực hiện tội phạm đến cùng hay
để tạo sự hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.
“Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết giảm đi một cách đáng kể (so
với mức bình thường) mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy
định tại Điều 46”. Theo khoản 1 điều 46 thì có 18 tình tiết giảm nhẹ. Ngoài ra
“Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ
trong bản án” (Khoản 2 Điều 46). Các tình tiết khác theo thực tiễn xét xử có
thể là: người phạm tội là thương binh, con liệt sĩ, người tàn tật. Từ đó ta thấy
rằng tình tiết phạm tội khi say rượu không được quy định trong khoản 1 Điều
46, đặc biệt cũng không nằm trong diện “các tình tiết khác” quy định ở Khoản
2. Nên tình tiết này không phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Thực tế cho thấy
rượu là một thức uống trong đó có chứa những chất có thể gây ra tình trạng bị
hạn chế năng lực nhận thức, điều khiển hành vi tạm thời. Khi người phạm tội
đã tự đặt mình vào tình trạng say nghĩa là họ biết là khi say thì se có ảnh
hưởng ở mức độ khác nhau đến năng lực hành vi của mình. Do đó, họ vẫn
phải chịu trách nhiệm hình sự tương tự như những người phạm tội bình
thường. Tình tiết say rượu cũng không làm giảm mức độ nguy hiểm đối với
hành vi phạm tội của A, B, C
Do vậy tình tiết say rượu của A, B, C không được coi là tình tiết tăng nặng
hay giảm nhẹ TNHS. Việc tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS cũng phải tuân theo
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
7
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
thể nguyên tắc pháp chế XHCN của pháp luật Việt Nam.
4. Giả thiết rằng V đang có thai ở tháng thứ hai thì A, B, C có phải chịu
TNHS về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ có thai” qui định
tại điểm h khoản 1 điều 48 BLHS không? Tại sao?
Để giải quyết vấn đề này trước tiên ta phải hiểu rõ quy định của BLHS
ở điểm h khoản 1 điều 48. “Phạm tội đối với phụ nữ có thai là trường hợp
người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự, và các quyền khác của người phụ nữ đang có thai”. Theo chính sách
hình sự hiện nay, phụ nữ có thai là đối tượng được ưu tiên đặc biệt khi họ là
nạn nhân vì khả năng tự vệ của họ rất hạn chế cần được sự bảo vệ khi bị xâm
hại. Phạm tội đối với người phụ nữ có thai không phải là tình tiết thuộc ý chí
chủ quan của người phạm tội nên không yêu cầu người phạm tội phải biết
người mà mình xâm hại đang có thai.
Qua đây ta cũng phân biệt được hai trường hợp phạm tội đối với phụ
nữ “mà biết là có thai” với trường hợp “phạm tội với phụ nữ có thai”.
“Phạm tội với phụ nữ mà biết là có thai” (Ví dụ: điểm b khoản 1 Điều 93) là
trường hợp nạn nhân là người đang mang thai và bản thân người phạm tội
cũng biết điều đó. Còn “phạm tội đối với phụ nữ có thai” chỉ cần xác định
người phụ nữ bị xâm hại đang có thai thì người có hành vi xâm hại phải chịu
TNHS về tình tiết tăng nặng này dù họ có biết hay không. Như vậy khi áp
dụng tình tiết “phạm tội đối với phụ nữ có thai” cần chú ý: Người phụ nữ
đang có thai, bất kể đang ở tháng thứ mấy. Việc xác định thai phải do giám
định viên hoặc bác sĩ chuyên khoa thực hiện. Mức độ tăng nặng TNHS của
tình tiết này phụ thuộc vào thời kì thai nghén của nạn nhân và sự ảnh hưởng
của hành vi phạm tội đối với thai nhi và tình trạng sức khỏe của người phụ
nữ.
Trường hợp của A, B và C trong tình huống nêu ra, họ đã phạm tội hiếp
dâm với V đang có thai ở tháng thứ hai. Theo điều 2.1 nghị quyết 01/2006
NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
8
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
thì: “Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người
già" đối với những trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, không phụ thuộc vào ý
thức chủ quan của bị cáo có nhận biết được hay không nhận biết được người
bị xâm hại là trẻ em, phụ nữ có thai, người già.”
Xét tình huống: V đã có thai 2 tháng, các tình tiết trong vụ án không
cho phép chúng ta biết rằng A, B, C có biết hay không. Về lý luận: chúng ta
không cần xét đến việc A, B, C có biết chị V có thai hay không có thai, chỉ
cần V mang thai thì A, B, C phải chịu TNHS về tình tiết tăng nặng này. Tuy
nhiên trong thực tiễn xét xử, việc áp dụng điểm h khoản 1 điều 48 còn phải
xét cả hành vi của A, B, C có trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự phát
triển bình thường của thai nhi mà V đang mang hay không.
Như vậy qua việc chứng minh trên thì ta có thể kết luận rằng: A, B, C
phải chịu TNHS về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với phụ nữ có thai” được
quy định tại điểm h khoản 1 điều 48 BLHS.
KẾT LUẬN
Như vậy thông qua tình huống đưa ra và cách giải quyết cụ thể ở phần
trên chúng ta có thể rút ra những kết luận sau:
1. Hành vi của A, B và C phạm vào tội hiếp dâm (Điều 111 – BLHS).
2. A, B, C không thể là đồng phạm trong vụ án hiếp dâm nêu trên, nhưng
trường hợp của B và C được coi là đồng phạm không có thông mưu
trước.
3. Việc phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu của A, B, C không
được coi là tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ TNHS
4. A, B, C có thể phải chịu TNHS về tình tiết tăng nặng “phạm tội đối với
phụ nữ có thai” được quy định tại điểm h khoản 1 điều 48 BLHS.
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
9
BÀI TẬP NHÓM THÁNG 1 MÔN LUẬT HÌNH SỰ MODULE 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb CAND, Hà Nội, 2009.
2. Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009.
3. Phạm tội đối với phụ nữ có thai trong luật hình sự Việt Nam, Phạm
Văn Báu, Tạp chí luật học số 12/2006.
4. Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi và bổ sung năm 2009.
5. “Về các tội phạm tình dục trong luật hình sự Việt Nam” - Dương Tuyết
Miên, Tạp chí luật học số 6 /1998.
6. “Một số điểm mới trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe,nhân phẩm, danh dự của con người trong BLHS năm 1999” - Lê
Đăng Doanh, Tạp chí luật học, số 4/2000.
7. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, phần chung –
NXB Thành phố Hồ Chí Minh – 2000.
THỰC HIỆN: NHÓM 2 – TL4 – LỚP N01 – KHÓA 35
10