Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên và thực tiễn áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.15 KB, 17 trang )

MỤC LỤC

1


A: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ em là hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp
người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây.
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Bởi vậy, chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ
em là thực hiện sự nghiệp trồng người, vì lợi ích lâu dài của đất nước. Từ nhiều
năm qua, trẻ em nước ta đã và đang hưởng sự chăm lo chu đáo “dành cho trẻ em
những gì tốt đẹp nhất”. Và để đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc và giáo dục một
cách toàn diện, để tránh những xâm hại từ lối sống tiêu cực của một số ông bố bà
mẹ, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có một số quy định về vấn đề này. Để
hiểu hơn về vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề em xin chọn đề tài: “ Hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên và thực tiễn áp dụng”

B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

Cơ sở lí luận của việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành
niên
1. Khái niệm hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên
Trong cuộc sống, bên cạnh những người cha, người mẹ luôn dành tình yêu

thương, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chu đáo, thì cũng có những
người cha, người mẹ không làm tốt quyền và nghĩa vụ của mình đối với con,
thậm chí còn có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền lợi của con hoặc có lối
sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức
xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của con. Do vậy, để đảm bảo


quyền và lợi ích của con chưa thành niên, pháp luật quy định biện pháp chế tài
khi cha, mẹ có hành vi vi phạm quyền của con, hoặc khi cha, mẹ có lối sống đồi
trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội
2


ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển của con. Trong những biện pháp chế
tài đó, có việc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Pháp luật Việt Nam quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên. Điều 41 Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam quy định hạn chế
quyền của cha mẹ khi: “Khi cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm
phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con hoặc có hành vi vi phạm nghiêm
trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tán tài sản
của con; có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội thì tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án có thể tự mình
hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 42 của Luật
này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản
lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ
một năm đến năm năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.”
Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên có những đặc điểm
sau:
Thứ nhất, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là một
biện pháp chế tài của Luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là một biện
pháp nhắm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên.
Thức ba, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên chỉ làm
hạn chế quyền của cha, mẹ chứ không làm chấm dứt mối quan hệ giữa cha, mẹ
và con
Định nghĩa hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên: “Hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là một biện pháp chế tài

3


được thể hiện bằng quyết định của tòa án khi cha, mẹ có hành vi xâm phạm
nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, khi cha, mẹ
có lối sống đồi trụy hoặc xúi giục con, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội. Quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên không làm chấm dứt mối quan hệ giữa cha, mẹ và con mà chỉ không cho
cha, mẹ thực hiện một số quyền đối với con chưa thành niên trong một thời hạn
nhất định”
2.

Cơ sở lí luận của việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa
thành niên

Theo Điều 34 Luật HN&GĐ 2000 quy định: cha mẹ có nghĩa vụ và quyền
thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của con; tôn trọng ý kiến của con chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát
triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo
cúa gia đình, công dân có ích của xã hội. Đó Chính là quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ đối với con, tuy nhiên khi cha mẹ vi phạm những quyền này thì bị hạn
chế quyền của cha mẹ, nhưng pháp luật chỉ quy định hạn chế quyền của cha mẹ
đối với con chưa thành niên tức con chưa đủ 18 tuổi, bởi lẽ con đã thành niên
về nguyên tắc thông thường thì họ có đủ khả năng để bảo vệ mình, còn con
chưa thành niên theo quy định của pháp luật thì về nguyên tắc họ chưa đủ năng
lực hành vi dân sự nên chưa có đủ khả năng để bảo vệ mình trước hành vi vi
phạm của cha mẹ. Vậy cha mẹ vi phạm quyền và nghĩa vụ đến đâu thì bị hạn
chế quyền, theo quy định tại Điều 41 Luật HN& GĐ thì Tòa án có thể dựa trên
những căn cứ sau để ra quyết định hạn chế quyền của cha mẹ, cụ thể là:
Thứ nhất, Căn cứ vào việc cha mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý

xâm phạm sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con. Cha mẹ có thể bị kết án các
4


tội trong Bộ luật Hình sự hiện hành như tội cố ý gây thương tích hay gây tổn
hại cho sức khỏe ( Điều 104, Điều 105 và Điều 106); tội hành hạ người khác
(Điều 110); tội làm nhục người khác ( Điều 121); tội ngược đãi, hành hạ ( Điều
151)….Hoặc cha mẹ có hành vi cố ý xâm phạm danh dự, nhân phẩm đối với
con chưa thành niên có thể cấu thành tội như: tội hiếp dâm trẻ em (Điều 111),
tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114), tội giao cấu, dâm ô với trẻ em ( Điều 115 và
116)….Cha mẹ có thể trực tiếp là người thực hiện những hành vi vi phạm đó
hoặc là người đống phạm thì khi cha, mẹ bị kết án về những tội cố ý xâm phạm
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm đối với con chưa thành niên thì bên cạnh việc
kết án về mặt hình sự thì đây cũng là một căn cứ để tòa án hạn chế quyền của
họ đối với người con mà họ vi phạm.
Thứ hai, họ có hành vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con. Cha mẹ phải có nghĩa vụ trông nom con tức là “
quản lý, giữ gìn con không để con, không để con bị những người khác xâm hại
hoặc không để con rơi vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe”;
chăm sóc là việc cha mẹ cần quan tâm sức khỏe, tinh thần và giáo dục cho con,
tùy theo điều kiện mà khám chữa bệnh cho con. Nuôi dưỡng là phụ thuộc vào
điều kiện của mình mà cha mẹ tạo cho con những điều kiện vật chất tốt nhất có
thể để con phát triển tốt về thể chất, trí tuệ. Vậy vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
này là như thế nào? Hiện nay pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể vì vậy rất khó
cho Tòa án áp dụng căn cứ này. Do vậy khi áp dụng căn cứ này cần hiểu vi
phạm nghiêm trọng là trường hợp cha mẹ đã không hề trông nom. Chăm sóc và
nuôi dưỡng con cái thường xuyên, cha mẹ đã bỏ mặc con, không bảo vệ hoặc
không lường trước được những nguy hiểm mà lẽ ra phải biết đối với con, làm
cho con bị rơi vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân


5


phẩm, hay không có một môi trường sống an toàn ảnh hưởng tới sự phát triển
bình thường của con.
Thứ ba, Cha mẹ có hành vi phá tán tài sản của con. Pháp luật nước ta công
nhận con có quyền có tài sản riêng, theo quy định của Bộ luật Dân sự thì tài sản
của con dưới 15 tuổi do cha mẹ quản lý, như vậy cha mẹ có nghĩa vụ bảo vệ
khối tài sản của con không được phá tán tài sản của con, cha mẹ không có
quyền định đoạt tài sản của con, nhưng hiện nay có vướng mắc với quy định
này là như khi tài sản của cha mẹ không đủ thì phải lấy tài sản của con để đảm
bảo cho những nhu cầu thiết yếu của gia đình và nhu cầu của con vậy khi đó có
được coi là phá tán hay không? Hay cha mẹ dùng tài sản của con vào đầu tư
kinh doanh nhưng chẳng may bị phá sản, bị mất vậy có được coi là phá tán hay
không?...Và vô số những trường hợp khác nữa. Vì vậy nên coi trường hợp cha
mẹ phá tán tài sản của con là việc cha mẹ dùng tài sản của con để đánh bạc, ăn
chơi, không dùng vào nhu cầu chung cho gia đình và dùng vào những mục đích
không tốt khác.
Thứ tư, cha mẹ có lối sống đồi trụy. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
quy định: “…cha, mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia
đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt…” ( Điều 37). Cha
mẹ có nghĩa vụ tạo cho con có một môi trường sống lành mạnh và cha mẹ phải
là những tấm gương sáng để con phát triển đúng chuẩn về thể chất, trí tuệ và
đạo đức. Khi cha mẹ có lối sống đồi trụy, tức là cha mẹ có lối sống lệch lạc, có
những hành vi thiếu văn hóa, vi phạm đạo đức, vi phạm kỉ luật, do vậy sẽ gây
ảnh hưởng xấu tới sự phát triển bình thường của con, nhất là về đạo đức và tinh
thần. Nguy hiểm hơn, lối sống không lành mạnh của cha mẹ còn có thể là
nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của con. Tuy nhiên rất khó để xem cha
mẹ có lối sống nào là lối sống đồi trụy để hạn chế quyền của cha mẹ.. Một trong
6



những nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của người chưa vị thành niên là có
cha mẹ hoặc những người thân trong gia đình trong gia đình thiếu gương mẫu
hoặc vi phạm pháp luật.Theo thống kê tội phạm học trong những năm gần đây,
cho thấy số thanh niên thiếu niên vi phạm pháp luật có nguốn gốc từ gia đình
làm ăn, buôn bán bất hợp pháp chiếm 50,49%, gia đình có người phạm tội hình
sự chiếm 45,6%. Trẻ em hư có nguồn gốc từ gia đình không trong sạch, lành
mạnh chiếm 86.6%.
Thứ năm, cha mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái
đạo đức xã hội đó là việc cha, mẹ có hành vi, lời nói, thái độ thể hiện sự kích
động, dụ dỗ, lừa phỉnh,…tác động tới ý chí, tư tưởng của con chưa thành niên,
dẫn tới con có hành vi vi phạm pháp luật hoặc có hành vi trái đạo đức xã hội.
Hậu quả của việc xúi giục, dụ dỗ này có thể làm cho con cái có hành vi phạm
tội hay vi phạm pháp luật hành chính. Hiện nay, không ít cha mẹ vì lợi nhuận,
vì “sức hút của đồng tiền” mà quên mất trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mình,
không những bảo vệ con, cho con một môi trường sống an toàn, lành mạnh mà
còn xúi giục, ép buộc, lôi kéo con thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật.
Chẳng hạn, cha mẹ ép con bán dâm, ép và lôi kéo con vào việc buôn bán ma
túy, ép hay bao che cho con ăn trộm hay lôi kéo con vào việc gây tổn hại tới
tính mạng, sức khỏe cho người khác,….Theo thống kê tội phạm học thì cứ 10
trẻ phạm tội thì có 3 trẻ có bố, mẹ hoặc cả hai nghiện hút. Theo số liệu của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội (19/10/2010), tỉ lệ người chưa thành
niên có hành vi trộm cắp tài sản đồng phạm với bố mẹ là 5%. Những hành vi
này của cha, mẹ không những gây tổn hại hại trực tiếp tới tính mạng, sức khỏe,
danh dự nhân phảm của con mà còn hủy hoại tươnng lai của con, gây ra những
thương tổn khó chữa lành.

7



II.

Thực tiễn áp dụng việc hạn chế của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Hiện nay, rất nhiều trẻ em bị cha mẹ có những hành vi vi phạm nghĩa vụ

nghiêm trọng đối với các em, nhưng cả xã hội coi đó là chuyện bình thường của
gia đình, cho đến khi có nhiều trường hợp cha, mẹ có hành vi bạo lực về tinh
thần cũng như thể chất với con, ép buộc con làm việc trái pháp luật. Và có một
thực tế đáng buồn vẫn đang diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước ta. Đó là
tình trạng bạo hành, ngược đãi trẻ em trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Nhiều trẻ em vẫn còn phải lao động cực nhọc, ăn chưa đủ no, mặc chưa đủ ấm,
không được đi học, còn bị hành hạ về thể xác và tinh thần hoặc mua bán, xâm
hại… Không chỉ vậy, không ít trẻ em đã trở thành nạn nhân của chính cha mẹ
các em - những người trực tiếp sinh thành, dưỡng dục các em. Mặc dù trong
Luật HN&GĐ 2000 có hẳn các quy định về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối
với con chưa thành niên, nhưng thực tế từ khi Luật 2000 có hiệu lực đến nay thì
trường hợp cha mẹ bị xử lý hạn chế quyền đối với con là rất ít so với các
trường hợp trong thực tiễn, và việc áp dụng quy định này còn rất lúng túng, cụ
thể như sau:
Thứ nhất, các chủ thể có quyền yêu cầu tòa án hạn chế quyền của cha mẹ,
cũng như những cơ quan chức năng chưa nhận thức và hiểu rõ về quy định này
của pháp luật nên chưa có nhiều trường hợp cha mẹ bị xử lý hạn chế quyền.
Theo quy định ở Điều 42 Luật HN&GĐ thì rất nhiều chủ thể có quyền yêu
cầu Tòa án hạn chế quyền của cha mẹ khi mà người cha, người mẹ này có hành
vi vi phạm nghiêm trọng đối với con họ, hành vi đó thỏa mãn căn cứ theo Điều
41của Luật HN&GĐ. Gần nhất là người cha hoặc người mẹ, cũng như người
thân thích của người con họ không hề biết hoặc biết nhưng không quan tâm đến
quy định hạn chế quyền của cha mẹ, khi có hành vi vi phạm của người cha hoặc
8



người mẹ hoặc của cả cha mẹ thì những người này cho rằng đó là chuyện riêng
của gia đình, đó là quyền của họ dạy con cái, họ là cha là mẹ nên họ có quyền
tất đối với con họ nhất lại là người con chưa thành niên thì tư tưởng này càng
cao, do vậy việc họ đánh mắng con thậm tệ là do lỗi của con và làm như vậy là
để con khôn hơn ngoan hơn, cha mẹ bắt con làm việc trái pháp luật hay không
đảm bảo môi trường lành mạnh cho con sống là vì cuộc sống của họ không có
điều kiện nên mới bắt con họ như vậy, và vô số những lý do cùng những hành
vi vi phạm nghiêm trọng của cha mẹ đối với con nhưng người cha, mẹ còn lại
hoặc người thân không quan tâm, làm ngơ hoặc chỉ ngăn nhưng không nhờ sự
giúp đỡ của cơ quan chức năng, hoặc có nhờ đến chính quyền xã, cơ quan công
an xã,…thì những cơ quan này rất lúng túng không biết phải làm thế nào, mà
chỉ là bắt viết cam kết, hơn lắm là phạt hành chính, còn rất ít thậm chí là không
có trường hợp nào yêu cầu tòa án hạn chế quyền của người cha, người mẹ này.
Theo thống kê của cục trưởng cục bảo vệ chăm sóc trẻ em của Bộ LĐTBXH thì
hàng năm có khoảng 5956 vụ trẻ em bị bạo hành, cũng theo Đại tá Nguyễn chí
Việt, phó cục trưởng cục cảnh sát hình sự thì những nạn nhân là trẻ em bị gia
đình, bạn bè bạo lực chiếm khoảng 56%; qua số liệu trên thấy được số vụ con
chưa thành niên bị cha mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng rất lớn, nhưng số
việc tòa án giải quyết hạn chế quyền của cha mẹ là rất ít.
Hội lien hiệp phụ nữ, Cơ quan bảo vệ trẻ em và một số cơ quan có chức
năng khác, trước tình trạng cha, mẹ có hành vi bạn lực đối với con, vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con thì họ cũng biết và cũng có
những biện pháp để giúp đỡ các em trong trường hợp này. Nhưng lại chưa nhận
thức rõ về quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên,
hoặc không biết áp dụng quy định này như thế nào. Ví dụ trường hợp của bé
Như Ý mới có 9 tháng tuổi bị mẹ đẻ, “cha hờ”, ông bà ngoại đánh dã man, thậm
9



chí khi đói em cũng bị bỏ mặc không cho ăn, Chính quyền xã khi được hàng
xóm báo đã cùng hội phụ nữ cứu em khỏi bàn tay người mẹ, đưa em tới bệnh
viện. Theo Chủ tịch xã Long Hậu, nơi cư trú của em cho biết, chính quyền
quyết định tước quyền làm mẹ của Xuân Lan (mẹ bé Như Ý) vì người mẹ này
không hề quan tâm chăm sóc con. Tuy vậy, ông Chủ tích xã nhận thức chưa
đúng về các quy định của pháp luật. Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy
định tước quyền làm cha, làm mẹ mà chỉ quy định hạn chế quyền của cha, mẹ
và thẩm quyền ra quyết định thuộc về tòa án chứ không phải thuộc về Ủy ban
nhân dân.
Tiếp theo, Tòa án cũng rất ít trường hợp tự mình ra quyết định hạn chế
quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc hiểu không đúng về bản
chất của việc hạn chế quyền này. Khi có các căn cứ theo quy định tại Điều 41
thì Tòa án có thể tự mình ra quyết định hạn chế quyền của người cha, người mẹ
vi phạm, nhưng thực tế thì Tòa án dường như rất ít trường hợp thực hiện việc ra
quyết định này. Thậm chí có những vụ án Tòa án đã xử người cha, người mẹ về
mặt hình sự về những hành vi bạo hành với con, ép buộc con làm việc trái pháp
luật nhưng trong những bản án ấy không hề có việc hạn chế quyền của cha mẹ
đối với con chưa thành niên. Chẳng hạn vụ: “Giận vợ, tẩm xăng thiêu sống con”
diễn ra ở Thanh Hóa vào 27/4/2011. Do có mâu thuẫn với vợ là chị Nguyễn Thị
Hà, tên Quang đã lấy khoảng 2 lít xăng tẩm lên người con là cháu Linh (3 tuổi,
con chị Hà). Cháu Linh đã bị bỏng xăng rất nặng, nguy kịch đến tính mạng.
Đây không phải là lần đầu tên ác thú này có ý định đốt con. Trước đó, đã một
lần Quang dội xăng vào người con trai nhưng chưa kịp đốt thì cháu bé được
cứu. Ác nhân Vũ Văn Quang mới đây đã bị xử 20 năm tù. Hay là việc Nguyễn
Thị Dung ở Tp HCM đã tổ chức mại dâm và môi giới mại dâm, trong đó có
việc ép con đẻ của Dung (sinh năm 1993) bán dâm từ năm 2007, tháng 12/2009
10



trong bản án sơ thẩm của TAND Tp.HCM tuyên 12 năm tù về tội chứa mại dâm
và 7 năm về tội môi giới mại dâm, Tòa phúc thẩm TAND tối cao y án sơ thẩm,
và trong hai bản án đều không hề có nội dung hạn chế quyền của Dung với
người con này. Tuy nhiên trong các bản án này Tòa án cần phải có nội dung hạn
chế quyền của những người cha, người mẹ này, để phần nào răn đe và làm cho
những người cha, người mẹ này hiểu rằng không phải họ là cha, là mẹ là có thể
bắt con họ làm gì cũng được, nhưng các thẩm phán đã quên mất quy định này.
Hơn nữa, hiện nay, hiện tượng trẻ chưa thành niên phạm tội rất nhiều, và
nguyên nhân là xuất phát từ lỗi của cha mẹ, Số liệu thống kê của Viện Kiểm sát
Nhân dân Tối cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không được
quan tâm chăm sóc đến nơi đến chốn. Một nghiên cứu mới đây của Bộ Công an
cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị thành niên xuất phát từ gia đình:
8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 28% phàn nàn bố mẹ không đáp ứng nhu cầu
cơ bản của các em, 49% phàn nàn về cách đối xử của bố mẹ, 50 % trẻ em phạm
tội là do bị đối xử hà khắc. Tuy nhiên trong những trường hợp con chưa thành
niên phạm tội này có phần lỗi từ người cha, mẹ của mình nhưng trong những
quyết định, bản án của tòa án xét hành vi phạm tội của các em không hề đề cập
tới lỗi của cha mẹ, không có nội dung hạn chế quyền của cha mẹ trong những
trường hợp các em bị cha mẹ xâm phạm quyền của các em nghiêm trọng.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ Công an chỉ tính riêng trong năm
2010, trên địa bàn cả nước có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, mà
trong đó, theo thống kê của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì
tình hình tội phạm do người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực
hiện có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng 32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8%
trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa thành niên và trẻ em thực hiện.
Điều đáng nói là so với những năm trước, đối tượng phạm tội ngày càng trẻ hóa
11



và hành vi phạm tội cũng như tính chất mức độ phạm tội ngày càng nghiêm
trọng hơn.
Mặt khác, thực tế rất hiếm hoi có trường hợp Tòa án khi tuyên phạt về hình
sự với người cha, người mẹ có hành vi bạo lực đối với con và trong bản án đó
cũng đã có nêu phần hạn chế quyền của cha, hoặc mẹ nhưng đã chưa hiểu rõ
bản chất của việc hạn chế này. Chẳng hạn trường hợp TAND tỉnh Bình Phước
xử phúc thẩm vụ bé Nguyễn Thị Hảo bị Mẹ đẻ là bà Mỳ đánh đập, bà Mỳ bị 2
năm tù giam về tội cố ý gây thương tích cho bé Hảo, đồng thời “Tòa còn hạn
chế quyền nuôi dưỡng bé Nguyễn Thị Hảo của vợ chồng Mỳ trong vòng năm
năm sau khi Mỳ ra tù”. Nếu theo bản án này thì Tòa án hạn chế quyền nuôi
dưỡng là không đúng mà vợ chồng bà Mỳ vẫn phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng bé
Hảo, chỉ hạn chế quyền đối với việc chăm sóc, trông nom, giáo dục, quản lý tài
sản của bé, và đại diện pháp luật cho bé (Theo Điều 43 của Luật HN&GĐ
2000).
Thứ hai, không có đủ điều kiện để thực hiện việc hạn chế quyền của cha mẹ
đối với con chưa thành niên vào thực tiễn.
Theo quy định của pháp luật thì khi hạn chế quyền của cha mẹ đối với con
chưa thành niên tức là họ không có quyền chăm nom, chăm sóc, quản lý tài sản
riêng của con cũng như đại diện theo pháp luật cho con, nhưng họ vẫn phải có
nghĩa vụ nuôi dưỡng người con này. Như vậy, ở Nước ta ngay trong quy định
của pháp luật cũng không có hướng dẫn nào về việc tách người con đó ra khỏi
người cha, người mẹ đã có hành vi vi phạm. Hơn nữa với phong tục tập quán và
điều kiện kinh tế nước ta hiện nay thì người con vẫn sống chung với cha mẹ,
vậy nên khi có hạn chế quyền cha mẹ thì về mặt lý thuyết người con đó vẫn
phải sống chung với họ, dẫn tới nếu có hạn chế cũng chỉ là về mặt hình thức và
trên bản án, quyết định của Tòa án thôi chứ khó có thể thực hiện triệt để và
12


đúng bản chất trên thực tế được vì vậy quyền của người con chưa được bảo vệ.

Còn nếu tách các em ra khỏi người cha, người mẹ như nhiều nước phương tây
thực hiện thì còn thiếu cơ chế quy định của pháp luật cũng như điều kiện ở
nước ta chưa đủ để thực hiện. Bởi sẽ giao các em cho tổ chức nào nếu hạn chế
quyền của hai cha mẹ, vì thực tế hiện nay chưa có một cơ sở chăm sóc để cho
các em có cha mẹ bị hạn chế quyền ở được hình thành ở nước ta. Do vậy, con
chưa thành niên mà có cả cha, mẹ bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ thì các
em khó có thể nhận được sự chăm sóc thay thế tốt nhất. Nếu gửi các em vào cơ
sở chăm sóc trẻ em cũng rất khó, bởi những cơ sở này không đủ điều kiện vật
chất để có thể tiếp nhận các em và cũng không phải huyện nào trong nước ta
cũng có cơ sở chăm sóc trẻ em. Thực tế, con chưa thành niên bị cha, mẹ bạo lực
hay không chăm sóc thì việc chăm sóc các em xuất phát từ tấm lòng hảo tâm
của những ngưỡi xung quanh. Tuy nhiên, việc chăm sóc này mang tính tự phát
và chưa được tổ chức, chỉ đạo và có sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tổ
chưc, chưa quy định cho một cơ quan chức năng cụ thể chịu trách nhiệm đứng
ra để tổ chức và chuyển các em tới các cơ sở chăm sóc thay thế.
Một khái cạnh khác là pháp luật chưa có một quy định cụ thể về cơ chế cách
ly các em ra khỏi cha, mẹ khi cha, mẹ các em có hành vi vi phạm và bị hạn chế
quyền. Theo quy định của pháp luật, khi người cha, người mẹ bị hạn chế quyền
cảu cha, mẹ đối với con chưa thành niên thì con chưa thành niên sẽ do người
cha, người mẹ còn lại trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Nhưng với điều
kiện vật chất và cơ chế thục thi pháp luật hiện tại thì cha, mẹ của con chưa
thành niên vẫn sống chung với nhau, khi đó con vẫn phải ở chung với người
cha, hoặc người mẹ có hành vi vi phạm. Như vậy việc quyết định quyền hạn
chế của cha, mẹ trong trường hợp này khó có thể thực hiện đạt hiệu quả.
Tiếp nữa hiện nay, nước ta chưa có những biện pháp và tạo điều kiện cho các
em chưa thành niên biết về việc các em được bảo vệ trước hành vi vi phạm
13


nghiêm trọng nghĩa vụ của cha mẹ các em. Mặc dù hiện nay có đường dây nóng

18001567 để các em bày tỏ ý kiến của mình trước hành vi bị xâm phạm, tuy
nhiên đường dây đó chỉ có tác dụng đối với những em có điều kiện và biết nhận
thức và câu hỏi đặt ra bao nhiêu em biết số điện thoại này, khi các em điện đến
đường dây này thì các em cũng chỉ được chia sẻ của những tổng đài viên chứ
thực sự các em chưa nhận được sự giúp đỡ của những cơ quan chức năng.
Trong khi đó, điều cốt yếu các em cần là những biện pháp thực tế và kịp thời để
bảo vệ quyền cảu các em.
Đồng thời, hiện nay đội ngũ cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ em vừa thiếu về
chất lượng và yếu về số lượng, lại luôn có sự biến động do sự thay đổi về cấu
trúc tổ chức. Cụ thể trước năm 2007, có khoảng 160 nghìn cộng tác viên bảo vệ
và chăm sóc trẻ em ở thôn, bản thì đến cuối năm 2010 chỉ còn có khỏang 7
nghìn. Tỷ lệ nhân viên công tác xã hội so với nước ta khoảng 1/10 000 dân,
trong khi đó nhiều nước trên thế giới đạt 1/2000 dân. Như vậy, với việc thiếu về
số lượng và yếu về chất lượng của các bộ chuyên trách và cơ chế bảo vệ trẻ em
thì việc áp dụng quy định hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành
niên vào thực tiễn là chưa có hiệu quả.
III.

Giải pháp nâng cao hiệu quả quy định hạn chế của cha mẹ đối với con
chưa thành niên.
Thứ nhất, cần phải tuyên truyền cho cha mẹ cũng như thành viên trong xã

hội hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trong Luật HN&GĐ,
quyền của trẻ em trong Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Làm cho cha
mẹ biết mình thực hiện quyền và nghĩa vụ ra sao, được làm gì và không được
làm gì với con. Đồng thời tuyên truyền cho cha mẹ biết được quy định hạn chế
quyền của cha mẹ khi cha mẹ vi phạm quyền đối với con, đó chính là chế tài sẽ
được áp dụng đối với họ. Đồng thời chỉ dẫn biết cách bảo vệ quyền của trẻ em,
14



khi quyền của trẻ em bị vi phạm thì phải phát hiện kịp thời và báo cho cơ quan
chức năng biết để xử lý kịp thời những hành vi vi phạm của cha mẹ. Chỉ cho họ
tránh tư tưởng cho rằng việc cha mẹ vi phạm quyền đối với con của cha mẹ chỉ
là chuyện riêng của gia đình.
Thứ hai, Cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà
nước, các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Các cơ quan này nên
có cơ chế phối hợp với nhau chặt chẽ trong việc bảo vệ quyền trẻ em. Phát hiện
và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm này. Cần xây dựng và tuyên truyền cho trẻ
em biết về đường dây nóng hỗ trợ các em, khi có sự cần giúp đỡ của các em thì
phải thông báo ngay cho các cơ quan đoàn thể địa phương nhất là chính quyền
xã có biện pháp tức thời bảo vệ các em. Cần có những cơ sở để các em được
nuôi dưỡng trong và khi có quyết định hạn chế quyền cha mẹ của các em khi
cha mẹ có hành vi vi phạm. Đồng thời có biện pháp khẩn cấp tạm thời như tách
các em ra khỏi cha mẹ khi cha mẹ có hành vi vi phạm, biện pháp niêm phong
hoặc phong tỏa tài sản của cha mẹ để cha mẹ phải thực hiện nghĩa vụ nuôi
dưỡng con khi bị hạn chế quyền.
Thứ ba, Khi có hành vi vi phạm xảy ra, cần xử lý nghiêm minh các hành vi
này của cha mẹ. Đồng thời Tòa án trong các bản án khi xử lý về mặt hình sự
với người cha, người mẹ thì cũng cần phân tích để người cha, người mẹ này
cũng như những người khác biết và hiểu về hành vi sai trái của người cha,
người mẹ vi phạm, đồng thời bên cạnh hình phạt về mặt hình sự, thì trong
trường hợp cần thiết, Thẩm phán nên tuyên hạn chế quyền của người cha, người
mẹ này, để đảm bảo quyền lợi cho người con, giao người con đó cho một nơi,
hoặc chủ thể tin cậy chăm sóc, để đứa trẻ được phát triển trong môi trường sống
lành mạnh.

15



C: KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Như vậy, ta có thể thấy rằng pháp luật quy định hoàn toàn hợp lí về việc hạn
chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong một số trường hợp. Điều
này nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ chưa thành niên. Mặt khác
con ngăn chặn tình trạng nhiều trường hơp cha, mẹ lợi dụng, xúi giục con cái làm
chuyện xấu. Tuy nhiên hệ thống pháp luật hiện nay quy đinh về việc hạn chế quyền
của cha, mẹ đối với con chưa thành niên còn một số điểm bất cập, mong rằng các
nhà làm luật nước ta sẽ có những giải pháp pháp hiệu quả để quy định này trở nên
thiết thực hơn để bảo vệ quyền lợi cho trẻ em nói chung và trẻ em chưa thành niên
nói riêng, những mầm non tương lai của đất nước.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt

2.

Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009
Luật Hôn nhân và gia đình, Nhà xuất bản lao động

16


3.

Đỗ Thị Thu Hương, Áp dụng quy định về hạn chế quyền của cha mẹ đối với
con chưa thành niên và vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, Luận văn Thạc sĩ Luật


4.

học, Hà Nội 2011
Trang web:
+ />+ />+ />+ />+ />+ />+
+
+
+ />
17



×