Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích chế độ quản lý quỹ ngân sách nhà nước. Thực trạng năm 2012. Đánh giá và đưa ra ý kiến pháp lý của nhóm nghiên cứu về vấn đề trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.96 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

1

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


MỞ ĐẦU
Quản lý quỹ NSNN là hoạt động quan trọng, phức tạp trong chế định quản lý tài chính công
nhằm bảo đảm sử dụng tối ưu quỹ NSNN để phát triển nền kinh tế thị trường. Để đạt được mục
tiêu này, pháp luật Việt Nam đã có những quy định cụ thể về chế độ quản lý quỹ NSNN, tuy
nhiên, trên thực tế vẫn xảy ra, vẫn còn tồn tại gây ra những tiêu cực, bất hợp lý trong việc quản
lý làm thất thoát tiền của Nhà nước, của dân chúng. Đây thực sự là 1 bài toán khó mà lời giải còn
để ngỏ cho các nhà làm luật cũng như các cơ quan nhà nước trong việc chấp hành thực hiện.
Nhằm tìm hiểu sâu, phân tích kỹ hơn về chế độ quản lý NSNN cũng như tìm hiểu những thực
trạng còn tồn tại trên thực tế đồng thời đưa ra những giải pháp khuyến nghị, nhóm chúng em xin
được chọn đề tài số 09 “Tìm hiểu chế độ quản lý quỹ NSNN – đánh giá vầ đề xuất ý kiến pháp lý
của nhóm nghiên cứu” làm đề tài cho bài tập nhóm lần thứ nhất.

B.NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về chế độ quản lý quỹ ngân sách nhà nước (NSNN)
1. Các khái niệm
1.1 Khái niệm quỹ NSNN
Theo Điều 7 Luật NSNN năm 2002 quy định: “Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản
tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay, có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp”
Quỹ ngân sách nhà nước là quĩ tiền tệ lớn nhất của nhà nước, có nguồn hình thành đa dạng và
phong phú trong đó mỗi nguồn thu của quỹ ngân sách nhà nước phát sinh và vận động theo quy
luật riêng. Mục đích sử dụng của quỹ tiền tệ nhà nước được quyết định bởi các chức năng nhiệm
vụ của nhà nước và được thể hiện thông qua chính các khoản chi chính mà quĩ ngân sách nhà
nước đảm nhận. Mỗi khoản chi từ quỹ ngân sách nhà nước lại có phạm vi, tính chất và thời điểm
phát sinh rất khác nhau


1.2. Khái niệm quản lý quỹ ngân sách nhà nước
Quản lý quỹ ngân sách nhà nước là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh
vực quản lý nguồn thu, kiểm soát chi ngân sách nhà nước và điều hòa vốn trong hệ thống kho
bạc nhà nước nhằm bảo đảm khả năng thanh toán, chi trả và sử dụng có hiệu quả quỹ ngân sách
nhà nước.
1.3 Khái niệm chế độ quản lý quỹ NSNN
Quản lý quỹ NSNN là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực tổ chức
quản lý nguồn thu, kiểm soát chi ngân sách nhà nước và điều hòa vốn trong hệ thống kho bạc
nhà nước nhằm đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và sử dụng có hiệu quả quỹ NSNN.

2

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


Chế độ quản lý NSNN là tập hợp các quy phạm pháp luật định ra những nguyên tắc pháp lý và
những chuẩn mực pháp lý cho các hoạt động mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phép
tiến hành trong quá trình quản lý quỹ NSNN
2.Các nguyên tắc pháp lý mà các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý quỹ ngân sách phải
tuân thủ
2.1.Nguyên tắc hạch toán chính xác, đầy đủ kịp thời mọi khoản thu chi NSNN bằng đồng
Việt Nam
Nguyên tắc này đòi hỏi mọi khoản thu ngân sách nhà nước đều được hạch toán theo đúng năm
ngân sách, cấp ngân sách và mục lục ngân sách.
Những khoản thu NSNN bắng ngoại tệ, hiện vật và ngày công lao động phải được quy đổi ra
đồng Việt Nam để hach toán thu NSNN
2.2.Nguyên tắc kiểm tra kiểm soát các khoản chi ngân sách nhà nước
Theo nguyên tắc này tất cả các khoản chi NSNN phải được kiểm tra kiểm soát trước trong và sau
quá trình cấp phát, thanh toán. Nguyên tắc này không chỉ được đặt ra với cơ quan tài chính, kho
bạc nhà nước, các cơ quan nhà nước ở TƯ và địa phương mà đối với cả đơn vị sử dụng kinh phí

ngân sách nhà nước.
Về phía cơ quan tài chính có trách nhiệm kiểm tra việc phân bổ dự toán NSNN, phát hiện sai sót
và yêu cầu cơ quan phân bổ ngân sách điều chỉnh lại; kiểm tra giám sát việc thực hiện chi tiêu và
sử dụng ngân sách ở các đơn vị sử dung NSNN , nếu phát hiện các khoản chi sai chế độ, vượt
nguồn cho phép thì yêu cầu Kho bạc nhà nước (KBNN) tạm dừng thanh toán.
KBNN có trách nhiêm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ chi, phối hợp với cơ quan hữu quan ( cơ
quan tài chính, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền) kiểm tra tình hình sử sụng NSNN và
xác nhận số thực chi NSNN qua KBNN của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Cơ quan nhà nước ở TƯ và địa phương theo dõi kiểm tra việc sử dụng NSNN thuộc ngành lĩnh
vực mình quản lý của các đơn vị trực thuộc; báo cáo định kỳ tình hình thực hiện chi NSNN theo
đúng chế độ.
Đơn vị sử dụng NSNN phải mở tài khoản hạn mức tại KBNN và chịu sự kiểm tra, kiểm soát của
cơ quan tài chính và KBNN trong quá trình thực hiện dự toán NSNN được giao và quyết toán
NSNN theo đúng chế độ.
2.3.Nguyên tắc thu hồi giảm chi NSNN
Trong quá trình quản lý thanh toán quyết toán chi NSNN nếu phát hiện thấy các khoản chi sai
phải thu hồi chi NSNN. Cơ quan tài chính có quyền quyết định thu hồi giảm chi NSNN đối với
các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn định mức chi của nhà nước. Cơ quan nhà nước có thẩm
quyền như tòa án, công an, viện kiểm soát có quyền quyết định việc thu hồi các khoản chi sai chế
độ tham ô làm thất thoái tiền, tài sản của nhà nước. KBNN thực thi việc thu hồi cho NSNN trên
cơ sở quyết định của cơ quan tài chính hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nói trên

3

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


2.4.Nguyên tắc phân cấp trong công tác điều hòa vốn tại hệ thống KBNN
Việc điều hòa vốn lên thường được thực hiện từ các KHNN cấp quận, huyện lên KBNN cấp tỉnh,
thành phố hoặc từ KBNN cấp tỉnh, thành phố lên KBNN ở TƯ. Ngược lại việc chuyển vốn

xuống thường được thực hiện từ KBNN ở TƯ xuống KBNN ở cấp tỉnh, thành phố…
KBNN cấp TƯ thống nhất quản lý điều hòa vốn trong toàn bộ hệ thống và trực tiếp điều chuyển
vốn với KBNN cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ.
KBNN cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ quản lý điều hòa vốn trên địa bàn tỉnh, thành phố và
trực tiếp điều chuyển vốn với các KBNN cấp huyện, quận trực thuộc.
KBNN cấp huyện quận, thị xã trực thuộc chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn ở đơn vị
mình.
2.5.Nguyên tắc điều hòa vốn tại hệ thống KBNN phải dựa trên cơ sở định mức, kế hoạch khả
năng thu và nhu cầu chi thực tế.
Mục đích của nguyên tắc này không để vốn đọng lại tại các đơn vị KBNN cấp dưới đồng thời
bảo đảm khả năng thanh toán cho từng đơn vị KBNN cũng như cho toàn bộ hệ thống KBNN
Nguyên tắc này yêu cầu:
1,Việc điều hòa vốn giữa các cấp KBNN phải được tiến hành căn cứ vào định mức tồn quỹ, kế
hoạch điều hòa vốn cũng như khả năng thu và nhu cầu chi thực tế.
2,Việc điều chuyển vốn từ KBNN cấp trên xuống KBNN cấp dưới không được vượt quá vốn
chênh lệch tối thiểu. Việc điều chuyển vốn từ KBNN cấp dưới lên KBNN cấp trên không được
làm tồn quỹ ngân sách cấp dưới giảm thấp hơn định mức.
3,Việc điều chuyển vốn từ KBNN cấp trên xuống KBNN cấp dưới chỉ được thực hiện khi có
lệnh từ KBNN cấp trên. Việc điều chuyển vốn từ KBNN cấp dưới lên KBNN cấp trên cũng chỉ
được thực hiện khi KBNN cấp dưới lập lệnh để chuyển vốn lên KBNN cấp trên
3.Các quy tắc pháp lý điều chỉnh công tác quản lý nguồn thu, kiểm soát chi ngân sách nhà
nước và tổ chức điều hòa vốn trong hệ thống KBNN.
3.1.Quản lý nguồn thu NSNN
Căn cứ vào các khoản thu được quy định tại khoản 1 điều 2 luật NSNN năm 2002 có thể xác
định phạm vi quản lý nguồn thu NSNN trên các lĩnh vực quản lý nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí;
quản lý nguồn thu từ các khoản đóng góp của các tổ chức, cá nhân; từ các khoản viện trợ và các
nguồn thu khác. Như vậy hoạt động quản lý nguồn thu NSNN rất rộng. Đối với mỗi loại nguồn
thu công tác quản lý đều phải tiến hành trên cả 3 phương diện xây dựng và hoàn thiện pháp luật
thu; tổ chức thực hiện pháp luật thu và kiểm tra; giám sát hoạt động thu.
Quản lý nguồn thu NSNN sẽ được xem xét dưới góc độ là hoạt động nghiệp vụ của KBNN, cơ

quan tài chính, cơ quan thu trong quá trình quản lý quỹ ngân sách nhà nước. Đây là hoạt động có
lien quan tới việc kiểm tra đánh giá chứng từ, sổ sách về thu chi NSNN nhằm phát hiện những
sai sót trong hạch toán kế toán ngân sách, từ đó có biện pháp xử lý kịp thời, tránh thất thoát
nguồn thu từ NSNN.
4

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


Với giới hạn phạm vi như vậy, quản lý nguồn thu NSNN đó là hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trong lĩnh vực kiểm tra, đối chiếu, xử lý tình hình thu – nộp NSNN cũng
như trong lĩnh vực hạch toán kế toán và báo cáo quyết toán th u NSNN.
3.1.1.Kiểm tra đối chiếu, thu nộp và xử lý tình hình NSNN
Đây là trách nhiệm của KBNN và cơ quan thu. Việc kiểm tra, đối chiếu tình hình thu nộp NSNN
và tổng số thu NSNN phải được thực hiện thường xuyên để phát hiện và giải quyết kịp thời các
trường hợp sai sót và vi phạm chế độ thu ngân sách nhằm đảm bảo tập trung đầy đủ đúng hạn
các nguồn thu vào quỹ NSNN theo đúng dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định. Để đạt được mục đích này định kỳ cơ quan thu và KBNN phối hợp kiểm tra, đối chiếu số
liệu thu nộp NSNN trên cơ sở đó phát hiện và xử lý các trường hợp nộp chậm, nợ đong thu
NSNN. KBNN phải thỏa thuận với cơ quan thu lập bảng tổng hợp ngân sách, chi tiết từng cơ
quan thu, mục lục NSNN, số phân chia cho ngân sách các cấp, gửi cho cơ quan thu để theo dõi,
quản ly.
Trong quá trình kiểm tra, đối chiếu thu NSNN cơ quan nào có sai sót thì phải có văn bản đề nghị
điều chỉnh. KBNN phải lập chứng từ làm căn cứ hạch toán điều chỉnh. Kết thúc năm ngân sách,
cơ quan tài chính chủ trì phối hợp với KBNN và cơ quan cơ quan thu chỉnh lý quyết toán thu
NSNN. Việc kiểm tra đối chiếu còn phải được tiến hành hằng ngày, tại trụ sở KBNN. Kế toán
thu NSNN sau khi nhận được giấy nộp tiền, bảng kê biên lai và các lien biên lai kèm theo sẽ phải
kiểm tra chứng từ rồi chuyển cho thủ quỹ tại trụ sở KBNN để thu tiền. Thủ quỹ tại KBNN lại 1
lần nữa kiểm soát, đối chiếu số tiền trên giấy nộp tiền, tổng số tiền trên các bảng kê biên lai với
số tiền thực thu bằng biên lai; kiểm đếm tiền do điểm thu nộp về,ký tên đóng dấu rồi chuyển lại

cho bộ phận kế toán. Kế toán thu NSNN thực hiện 1 số nghiệp vụ cần thiết, kí tên trên giấy nộp
tiền rồi chuyển các giấy tờ này cho kế toán trưởng KBNN kiểm soát, đóng dấu và hạch toán thu
NSNN.
3.1.2.Hạch toán báo cáo, quyết toán thu NSNN
Căn cứ vào chế độ kế toán NSNN do Bộ Tài chính quy định và số tiền cần nộp vào NSNN,
KBNN tổ chức hạch toán kế toán thu NSNN đồng thời phân chia số thu cho từng cấp ngân sách
theo đúng tỷ lệ phần trăm phân chia được cấp có thẩm quyền quyết định đối với từng khoản thu
Việc hạch toán và kế toán phải đảm bảo đúng niên độ ngân sách và mục lục NSNN. Các khoản
thu ngân sách năm trước nộp trong năm sau phải được hạch toán vào thu ngân sách năm sau.
Trường hợp chứng từ lập ko đúng mục lục ngân sách nhà nước theo thông báo thuhoặc trường
hợp thông báo thu sai mục lục ngân sách hoặc trường hợp chứng từ điện tử của ngân hàng không
đủ yếu tố để hạch toán thu ngân, KBNN hạch toán tạm thu chờ nộp ngân sách. Sau khi đã chỉnh
sửa sai sót hoặc đã có đủ chứng từ bằng văn bản…kế toán KBNN làm thủ tục chuyển tiền từ tài
khoản tạm thu chờ nộp ngân sách vào tài khoản thu NSNN.
KBNN còn có nhiệm vụ lập báo cáo thu NSNN hằng ngày, hằng tháng và hằng năm để gửi cơ
quan tài chính, cơ quan thu đồng cấp và gửi KBNN cấp trên. KBNN TƯ sẽ tổng hợp tình hình
thu NSNN hằng tháng và quyết toán thu NSNN hằng năm để báo cáo Bộ Tài chính.
Các báo cáo định kì tình hình thu NSNN, báo cáo kế toán, quyết toán thu NSNN của ngân sách
các cấp được lập theo đúng mẫu biêu, mục lục NSNN và thời hạn pháp luậ quy định

5

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


3.2.Kiểm soát chi NSNN
Kiểm soát chi NSNN là thẩm định và kiểm tra các khoản chi NSNN (trước, trong và sau khi
thanh toán) theo đúng chế độ chi ngân sách và theo dự toán chi tiêu đã được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thông qua
3.2.1.Kiểm soát chi NSNN là nhiệm vụ chung của các ngành, các cấp, các địa phương.

Các cơ quan nhà nước ở TƯ và địa phương lập dự toán chi NSNN hằng năm gửi cơ quan tài
chính; phân phối hạn mức kinh phí quý cho các đơn vị trực thuộc nếu được cơ quan tài chính ủy
quyền; hướng dẫn, theo dõi và kiểm tra việc sử dụng ngân sách thuộc nganh, lĩnh vực do cơ quan
quản lý và của các đơn vị trực thuộc; xét duyệt báo cáo quyết toán chi NSNN của các đơn vị trực
thuộc, tổng hợp và lập báo cáo quyết toán chi NSNN của cơ quan mình để báo cáo cơ quan tài
chính
Cơ quan tài chính lập và tổng hợp dự toán chi NSNN của các bộ, ngành, địa phương; thẩm tra
việc phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trước khi thông báo hạn mức
chi hàng quý cho đơn vị thụ hưởng. Sau đó cơ quan tài chính lại kiểm tra mục đích, tính chất của
từng khoản chi, kiểm tra điều kiện chi trước khi ra lệnh xuất quỹ ngân sách trong trường hợp cơ
quan tài chính cấp phát trực tiếp. Cơ quan tài chính còn có quyền kiểm tra quá trình cấp phát,
phân phối và sử dụng NSNN của các cơ quan quản lý cấp phát và kiểm tra việc sử dụng kinh phí
ở các đơn vị sử dụng NSNN.
Trường hợp cấp phát hoặc cho vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan cấp phát vốn đầu tư
phải thẩm định hồ sơ cấp phát thanh toán trước khi yêu cầu KBNN thanh toán cho chủ đầu tư.
3.2.2.Kiểm soát chi NSNN được tiến hành trong suốt quy trình chi
Kiểm soát chi NSNN là hoạt động phức tạp gồm các bước kiểm soát việc lập dự toán chi, thông
báo hạn mưc ( kiểm soát ước chi); kiểm soát ngay trước khi chi (tiền kiểm); kiểm soát trong qua
trình chi và kiểm soát sau khi chi. Trong các loại hình kiểm soát chi này cơ quan tài chính đảm
trách 2 nghiệp vụ đầu, KBNN thực hiện 3 nghiệp vụ cuối (kiểm soát trước, trong và sau khi chi)
+ Kiểm soát trước khi chi tiền: là kiểm soát trước hồ sơ gửi đến cơ quan tài chính, KBNN khi
đơn vị sử dụng NSNN xin được cấp phát nhằm kiểm soát việc chấp hành các điều kiện thanh
toán. Thực hiện kiểm soát trước khi chi nhằm đảm bảo đơn vị thụ hưởng NSNN phải lập dự toán
kinh phí hàng năm có chia theo quý, được cấp có thẩm quyền phê duyệt trên cơ sở đúng chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi tiêu NSNN do Chính phru hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định đồng
thời kiểm soát quyết định chi của thủ trưởng đơn vị thụ hưởng NSNN gửi tới KBNN để được
thanh toán, cấp phát. Tuy nhiên, kiểm soát trước khi chi tiền không phải bao giờ cũng dẫn tới
việc ấp phát, thanh toán vì tùy theo kết quả của hoạt động kiểm soát, KBNN có thể đồng ý xuất
quỹ hoặc từ chối việc xuất quỹ NSNN.
+ Kiểm soát trong khi chi: đây là hoạt động nhằm đảm bảo các khoản chi đúng chế độ, tiêu

chuẩn, định mức; bảo đảm kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ thanh toán và thỏa mãn các điều
kiện quy định đối với việc thực hiện chi NSNN. Ví dụ như trong quá trình cấp phát kinh phí để
thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, KBNN phải kiểm soát hồ sơ xin cấp vốn và kiểm soát hồ
sơ xin cấp vốn và kiểm soát khối lượng công trình hoàn thành mỗi khi tạm ứng kinh phí để hoàn
thành từng hạng mục công trình. Đơn vị thụ hưởng ngân sách được hưởng theo phương thức cấp
phát thanh toán là tạm ứng hay cấp thanh toán tùy thuộc vào tính chất của từng khoản chi.
6

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


+ Kiểm soát sau khi chi: đây là giai đoạn kiểm tra việc chấp hành pháp luật NSNN, cũng như
kiểm tra hoạt động quản lý tài chính ở các đơn vị sử dụng NSNN. Chẳng hạn như trong quá trình
sử dụng phương thức cấp tạm ứng cho các khoản chi hành chính, chi mua sắm tài sản, sửa chữa,
xây dựng nhỏ, sửa chữa lớn tài sản cố định…nếu chưa đủ điều kiện để cấp phát, thanh toán trực
tiếp theo hợp đồng thì vẫn phải thực hiện kiểm soát sau chi. Sau khi đã thực hiện chi, đơn vị sử
dụng NSNN có trách nhiệm gửi đến KBNN giấy đề nghị thanh toán kèm theo các hồ sơ, chứng
từ chi có liên quan để thanh toán số tạm ứng và làm thủ tục chuyển từ cấp tạm ứng sang cấp
thanh toán. Ở đây, KBNN kiểm tra, kiểm soát báo cáo thực chi của đơn vị, nếu có đủ điều kiện
thì thực hiện cấp phát thanh toán và thu hồi tạm ứng.
3.3.3.Kiểm soát chi NSNN được tiến hành trong quá trình hạch toán, kế toán và báo cáo chi
NSNN
Căn cứ vào chế độ kế toán nhà nước hiện hành KBNN tổ chức thực hiện hạch toán kế toán chi
NSNN. KBNN cấp huyện, ngoài việc hạch toán, kế toán chi NSNN trên địa bàn huyện còn thực
hiện hạch toán, kế toán chi ngân sách các xã, phường, thị trấn trực thuộc.
Định kì tháng, quý và năm các đơn vị sử dụng NSNN lập báo cáo tình hình thực hiện dự toán chi
ngân sách đã được giao, có xác nhận của KBNN nơi giao dịch để gửi cơ quan chủ quản tổng hợp
gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
KBNN cũng lập báo chi NSNN theo định kì tháng, quý và năm gửi cơ quan tài chính đồng cấp
và KBNN cấp trên. KBNN TƯ sẽ tổng hợp báo cáo chi NSNN gửi Bộ Tài chính. Thông qua việc

hạch toán kế toán chi ngân sách, việc xác nhận và báo cáo thực hiện dự toán chi của các đơn vị
sử dụng ngân sách cũng như thông qua việc tự lập báo cáo chi NSNN, KBNN có thể tiến hành
kiểm soát 1 lần nữa những khoản cấp phát thanh toán từ quỹ NSNN. Để bảo đảm tính đúng đắn
và hợp pháp, báo cáo chi NSNN còn được kiểm soát lần cuối bởi kiểm toán nhà nước khi cơ
quan này tiến hành rà soát báo cáo quyết toán NSNN các cấp ( trong đó có quyết toán chi) trước
khi trình Quốc hội phê chuẩn
3.3.Điều hòa vốn trong hệ thống KBNN
Điều hòa vốn là nhiệm vụ của mỗi đơn vị kho bạc trong quá trình quản lý quỹ ngân sách nhà
nước . KBNN phải căn cứ vào định mức tồn quỹ, kế hoạch điều chuyển vốn và khả năng thu,
nhu cầu chi thực tế tại đơn vị mình để làm lệnh điều chuyển vốn kịp thời. Mục đích của điều hòa
vốn là nhằm đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng ở các đơn vị KBNN cấp dưới đồng thời khả
năng chi trả của mỗi cấp KBNN cũng như của toàn bộ hệ thống kho bạc được duy trì.
3.3.1.Khái niệm
Điều hòa vốn là việc điều vốn từ KBNN cấp dưới lên KBNN cấp trên hoặc chuyển vốn từ
KBNN cấp trên xuống KBNN cấp dưới trong hệ thống KBNN ( hay nói cách khác, điều hòa vốn
là việc luân chuyển nguồn tiền trong hệ thống kho bạc nhằm đáp ứng nhu cầu chi ngân sách).
Thông thường KBNN sẽ cần điều hòa vốn trong các trường hợp sau :
- Thiếu hụt nguồn tiền trong một số đơn vị kho bạc : KBNN cấp trên sẽ điều chuyển nguồn tiền
của mình hoặc của cấp dưới khác để bổ sung lượng tiền cho kho bạc còn thiếu.
- Tạm thời thiếu hụt nguồn tiền của cả hệ thống kho bạc: KBNN phải thực hiện việc sử dụng các
nguồn dự trữ, nhận tạm ứng từ ngân hàng nhà nước hoặc phát hành tín phiếu ngân hàng để vay
vốn.
7

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


3.3.2. Nội dung của hoạt động điều hòa vốn
Việc điều hòa vốn phải được thực hiện từng bước, từ khâu lập kế hoạch đến khâu tổ chức thực
hiện kế hoạch điều hòa vốn.

Thứ nhất, xây dựng định mức tồn quỹ và kế hoạch điều hòa vốn.
Định mức tồn quỹ (định mức tồn ngân) KBNN là mức vốn bình quân cần thiết để đáp ứng nhu
cầu thanh toán, chi trả thường xuyên của KBNN. Định mức tồn quỹ được xác định căn cứ vào
tổng nhu cầu vốn thanh toán, chi trả trong kỳ kế hoạch, số ngày trong kỳ kế hoạch và số ngày
định mức.
Căn cứ vào tổng số thu và tổng nhu cầu chi trong kỳ kế hoạch, số ngày định mức đã được thông
báo, KBNN cấp dưới xác định định mức tồn quỹ và kế hoạch điều chuyển vốn gửi KBNN cấp
trên.
Căn cứ vào kế hoạch thu, chi trong quý của toàn hệ thống và đề nghị của KBNN cấp dưới,
KBNN cấp trên xét duyệt và thông báo định mức tồn quỹ cho các KBNN cấp dưới trong phạm vi
mình quản lý. Trong thời gian định mức tồn quỹ chưa được duyệt, định mức tồn quỹ đã được
duyệt của quý trước vẫn còn hiệu lực.
Thứ hai, tổ chức điều hòa vốn trong hệ thống KBNN
Để điều hòa vốn giữa các đơn vị trong hệ thống KBNN , cần xác định chênh lệch tồn quỹ tại các
đơn vị này. Các đơn vị có tồn quỹ thực tế lớn hơn định mức, phải chuyển vốn về KBNN cấp
trên. Mức chuyển tối đa bằng chênh lệch giữa tồn quỹ thực tế và tồn quỹ định mức. Các đơn vị
có tồn quỹ ngân sách thực tế nhỏ hơn định mức, KBNN cấp trên phải chuyển vốn xuống cho
KBNN cấp dưới. Mức chuyển tối đa bằng mức chênh lệch vốn thiếu.
Việc tạm ứng tồn quỹ ngân sách cho mỗi cấp ngân sách phải nhằm bảo đảm cho mỗi cấp ngân
sách có khả năng chi trả ngay cả khi thu hồi chưa đủ theo kế hoạch. Tuy nhiên, khoản tạm ứng
này chỉ mang tính tạm thời và phải được hoàn trả trong kỳ ngân sách.

II Thực tiễn áp dụng chế độ quản lý quỹ NSNN năm 2012
1. Tích cực
Năm 2012 hệ thống ngân sách nhà nước đã:
- Tập trung được đầy đủ, đúng hạn các nguồn thu làm hình thành quỹ ngân sách nhà nước, đã
dần loại trừ được tình trạng thất thoát tiền, tài sản Nhà nước trong quá trình sử dụng quỹ ngân
sách nhà nước.
- Thực hiện tốt công tác điều hòa vốn trong kho bạc nhà nước, không để vốn đọng lại tại các đơn
vị kho bạc nhà nước cấp dưới

- Đã đảm bảo quản lý an toàn tuyệt đối tiền, tài sản của nhà nước trên địa bàn quản lý; tập trung
đầy đủ, kịp thời mọi nguồn thu vào Ngân sách Nhà nước, kiểm soát chặt chẽ các khoản chi ngân
sách Nhà nước, thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản; thực hiện tốt công tác giao khoán biên
chế và kinh phí hoạt động; tăng cường kỷ luật kỷ cương trong thi hành công vụ.
8

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


- Thực hiện tốt việc rà soát, đối chiếu số liệu chi ngân sách với cơ quan tài chính và các đơn vị sử
dụng ngân sách để quyết toán ngân sách năm 2012 đúng chế độ; đôn đốc và thu hồi tạm ứng vốn
đền bù giải phóng mặt bằng, số vốn tạm ứng cho xây lắp đã hết thời gian thực hiện hợp đồng vẫn
còn dư tạm ứng; đôn đốc các chủ đầu tư thực hiện phê duyệt quyết toán đối với những công trình
đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng chưa được phê duyệt quyết toán. Tuân thủ chặt chẽ các
quy trình thu, chi tiền mặt và các quy định về an toàn kho quỹ, an toàn tài sản; thường xuyên tổ
chức kiểm tra đột xuất công tác an toàn kho quỹ; xây dựng các phương án phòng, chống cháy nổ,
lụt bão; phối hợp với cơ quan công an thực hiện tốt công tác bảo vệ an toàn kho quỹ
-Kho bạc Nhà nước thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình thu chi ngân sách Nhà nước, đảm
bảo khả năng thanh toán, chi trả đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu thanh toán của ngân sách Nhà
nước; chấp hành nghiêm túc chế độ điều hành ngân quỹ, điều chuyển vốn kịp thời. Không chỉ
thực hiện tốt công tác quản lý quỹ Ngân sách Nhà nước; quản lý, điều hành ngân quỹ Kho bạc
Nhà nước; công tác an toàn kho quỹ…Kho bạc Nhà nước huyện còn chấp hành tốt chế độ kế
toán theo quy định của Bộ Tài chính. Phối hợp cơ quan tài chính, đơn vị có liên quan xử lý kịp
thời những vướng mắc trong nhập dự toán, xử lý số dư trong thời gian chỉnh lý quyết toán; cung
cấp thông tin, báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời. Tuyên truyền, hướng dẫn đơn vị dự toán triển
khai cam kết chi ngân sách Nhà nước qua kho bạc Nhà nước.
-Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm soát chi ngân sách Nhà nước, chấp hành nghiêm túc kỷ luật, kỷ
cương trong quản lý, kiểm soát chi ngân sách Nhà nước gắn với thực hiện Luật thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí; Luật phòng chống tham nhũng. Kịp thời đánh giá, phản ánh, báo cáo cơ
quan có thẩm quyền tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ

kiểm soát chi. Tổ chức thực hiện tốt công tác kế toán, thanh toán đảm bảo chấp hành nghiêm túc
các quy trình nghiệp vụ trong hạch toán kế toán, thanh toán. Chấp hành nghiêm túc các quy định
về quản lý tài khoản tiền gửi của kho bạc Nhà nước tại Ngân hàng Thương mại; chế độ quản lý
tiền mặt, giấy tờ có giá và tài sản quý trong hệ thống. Quản lý điều hành tốt dự toán chi năm
2013 được giao; chấp hành nghiêm chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức theo quy định; tổ
chức hạch toán kế toán, thông tin báo cáo và quyết toán kịp thời, đúng quy định; thực hiện đầy
đủ cơ chế công khai, minh bạch trong công tác tài chính nội bộ. Niêm yết công khai hồ sơ, thủ
tục về công tác quản lý thu, kiểm soát chi ngân sách, chi trả công trái, trái phiếu Chính phủ và
các quy định khác liên quan đến đơn vị giao dịch.
2. Hạn chế
2.1 Bất cập trong các quy định của pháp luật trong việc quản lý NSNN
Theo thời gian, Luật NSNN đã bộc lộ nhiều bất cập, trong đó bao gồm vấn đề quan trọng trong
số những vấn đề, nội dung cần sửa đổi là về vị trí, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc
quản lý NSNN.
- Về qui định về lập, phân bổ, giao dự toán
Theo các qui định hiện hành của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn Luật, thời
gian lập dự toán Ngân sách nhà nước bắt đầu từ trước ngày 31/5 năm trước (khi Chính phủ quyết
định lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán Ngân sách nhà nước năm sau), Bộ Tài
chính hướng dẫn và thông báo số kiểm tra trước ngày 10/6, các bộ, ngành cơ quan trung ương
lập và gửi dự toán cho Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20/7, các địa phương gửi
trước ngày 25/7. Như vậy, thời gian qui định lập dự toán, tổng hợp dự toán từng cấp đơn vị cơ
9

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


sở, Bộ ngành, địa phương chưa phù hợp (chỉ khoảng 35-40 ngày). Các cơ quan tham gia thẩm
định không có điều kiện nghiên cứu tài liệu để tham gia ý kiến. Điều này làm hạn chế sự tham
gia của các cơ quan hữu quan vào dự toán Ngân sách nhà nước kể cả việc thẩm định và có ý kiến
vào dự toán Ngân sách nhà nước của Kiểm toán Nhà nước.

- Chưa xác định rõ yêu cầu nội dung cụ thể trong việc lập, phân bổ dự toán chi chương trình mục
tiêu quốc gia, dự toán chi theo các lĩnh vực nên khó đảm bảo sự tập trung thống nhất.
- Luật Ngân sách nhà nước hiện hành chưa có qui định về thẩm quyền, trách nhiệm của Kiểm
toán Nhà nước trong công tác lập dự toán và quyết toán Ngân sách nhà nước, tham gia xây dựng,
thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh về tài chính ngân sách, trong khi những quy định này đã được
thể hiện trong Luật KTNN. Đây là điều khó khăn cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ nhất là đối với công tác dự toán, công tác tham gia xây dựng, thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh về tài chính ngân sách.
- Về phân cấp quản lý ngân sách
Hệ thống Ngân sách nhà nước hiện nay còn mang tính lồng ghép nên qui trình ngân sách (khâu
dự toán và quyết toán) khá phức tạp. Luật ngân sách Nhà nước quy định nhiệm vụ chi thuộc
ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo và không được dùng ngân sách cấp này chi cho
nhiệm vụ của cấp khác. Quy định này dẫn đến mâu thuẫn giữa quản lý ngân sách theo cấp với
quản lý ngành theo lãnh thổ. Chẳng hạn với các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án đầu tư
phát triển có nguồn vốn ODA,…luôn có sự lồng ghép giữa ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương. Nguồn ngân sách trung ương chỉ bố trí cho các hạng mục theo nhiệm vụ của trung
ương còn các dự án ở địa phương nào thì địa phương đó phải huy động ngân sách địa phương và
nhân dân đóng góp để triển khai. Như vậy đối với dự án có nhiều nguồn vốn tham gia và dự án
lại có nhiều hạng mục công trình, việc phê duyệt từng hạng mục theo nguồn vốn là rất khó khăn.
Thủ tục quy định về thẩm định dự toán, thẩm tra quyết toán theo nguồn ngân sách địa phương
hay trung ương sẽ rất phức tạp. Trong khi đó, Bộ quản lý các ngành, có nhiều nhiệm vụ không
thể tách bạch rõ ràng nhiệm vụ trung ương hay địa phương. Trong khi Bộ, ngành xác định rõ sự
cần thiết, cấp bách và hiệu quả triển khai những nhiệm vụ đó nhưng chỉ được chi ngân sách cho
những nhiệm vụ cấp trung ương, còn địa phương khó khăn không bố trí được vốn do đó đã hạn
chế rất nhiều hiệu quả sử dụng ngân sách, hạn chế hiệu quả dự án gây lãng phí rất lớn
Bên cạnh đó, Luật ngân sách Ngân nước hiện nay chỉ quy định phân cấp quản lý thu, chi ngân
sách nhà nước giữa ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh, còn các cấp dưới tỉnh giao cho
HĐND cấp tỉnh quy định. Đồng thời cũng không quy định mô hình phân cấp quản lý ngân sách
giáo dục, y tế mà giao cho HĐND cấp tỉnh quy định nên không thống nhất giữa các địa phương..
- Về cân đối ngân sách

Về mặt cân đối ngân sách hiện nay vẫn còn một số nguồn thu, nhiệm vụ chi chưa được qui định
cụ thể, phù hợp để phản ánh đầy đủ số thu và phản ánh đúng số thực chi trong quyết toán Ngân
sách nhà nước. Đối với nguồn thu phí, lệ phí, Luật Ngân sách nhà nước hiện hành qui định là
khoản thu của Ngân sách nhà nước. Tuy nhiên trong thực tế việc triển khai thực hiện còn hạn
chế. Đối với các khoản thu lệ phí, các cơ quan hành chính nhà nước được để lại một phần để bù
đắp chi phí thu, phần còn lại mới nộp vào Ngân sách nhà nước. Việc để lại như vậy làm một
phần số thu phí bị để ngoài ngân sách đồng thời tỉ lệ để lại được Bộ Tài chính quyết định chưa
10

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


sát hoạt động của đơn vị nên có đơn vị không đủ kinh phí để tổ chức thu, có đơn vị thừa nguồn
dẫn đến dư kinh phí lớn hoặc sử dụng sai mục đích; đối với các khoản thu phí hiện nay được
phản ánh vào Ngân sách nhà nước bằng hình thức ghi thu, ghi chi nhưng nhiều đơn vị không
thực hiện ghi thu, ghi chi đầy đủ kịp thời qua Ngân sách nhà nước, nhiều đơn vị không nộp Kho
bạc nhà nước, để tự chi tại đơn vị, thoát ly việc kiểm soát chi của Kho bạc, nhiều đơn vị không
sử dụng biên lai thu do cơ quan tài chính phát hành…Tồn tại này đã diễn ra nhiều năm nhưng
chưa có biện pháp khắc phục.
- Về công tác kế toán và quyết toán ngân sách nhà nước
Luật Ngân sách nhà nước giao cho Kho bạc Nhà nước kiểm soát chi và tổ chức hạch toán kế toán
Ngân sách nhà nước đồng thời qui định cơ quan tài chính các cấp thẩm định quyết toán thu, chi
của cơ quan cùng cấp và quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp lập quyết toán ngân sách của
cấp mình trình Chính phủ hoặc UBND các cấp. Tuy nhiên hiện nay Kho bạc Nhà nước các cấp
chỉ tổng hợp báo cáo số thu, chi do cấp mình trực tiếp kiểm soát, trong khi cơ quan tài chính các
cấp phải tổng hợp, báo cáo toàn bộ các khoản thu, chi của ngân sách cấp mình (bao gồm cả ngân
sách cấp dưới) do đó hệ thống mẫu biểu, số liệu tổng hợp trong báo cáo của hai cơ quan chưa
đồng nhất về chỉ tiêu, nội dung để có thể so sánh, đối chiếu một cách nhanh chóng, dễ dàng,
thuận lợi nhất là số liệu về chi đầu tư, các khoản chi bằng lệnh chi tiền, các khoản bổ sung từ
ngân sách cấp trên cho cấp dưới. Đây là khó khăn trong công tác kiểm toán báo cáo quyết toán

Ngân sách nhà nước các cấp khi phải đối chiếu số liệu để xác định tính chính xác của quyết toán
thu, chi theo từng cấp ngân sách và Báo cáo quyết toán Ngân sách nhà nước.Thời gian chỉnh lý
quyết toán hiện nay còn dài. Các nội dung công việc được thực hiện trong thời gian chỉnh lý
quyết toán chưa được cụ thể trong Luật nên nhiều nhiệm vụ được kéo dài trong thời gian gian
chỉnh lý quyết toán.
Trong công tác áp dụng chế độ quản lý quỹ ngân sách nhà nước, đã thực hiện theo đúng quy
định của Nhà nước. Tuy nhiên vẫn còn một số cơ quan đơn vị do điều kiện khó khăn, trình độ
hạn chế, công tác quản lý còn bị buông lỏng...nên việc quản lý quỹ ngân sách nhà nước chưa
được chú ý đúng mức, từ đó dẫn đến hiệu quả sử dụng Ngân sách nhà nước chưa đạt hiệu quả
cao.
2.2. Bất cập trong quá trình thực hiện
- Thứ nhất, vấn đề trốn thuế còn nhiều và tình trạng tham nhũng còn rất bất cập.Việc quản lý
NSNN ở các cấp hiện nay còn lỏng lẽo dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, khó giải quyết 1 chốc
1 lát, gặp nhiều khó khăn trong quá trình khai thác điều tra, luận tội do sự bao che lẫn nhau cũng
như ảnh hưởng đến danh dự của các cán bộ làm việc trong hệ thống NSNN.
- Thứ hai, gánh nặng ngân sách đang tăng
- Thứ ba, hoạt động chi NSNN cho đầu tư công chưa thực sự hiệu quả làm tăng gánh nặng
NSNN
- Ngoài ra về công tác thu: Một số quỹ mở tài khoản tiền gửi tại các ngân hàng cổ phần có lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn thấp hơn một số ngân hàng thương mại cổ phần thuộc hệ thống Ngân
hàng Nhà nước, làm giảm thu nhập của quỹ; chưa thực hiện việc đối chiếu xác nhận các khoản
phải nộp của các DN có nghĩa vụ đóng góp với quỹ;Chưa phản ánh vào số thu của quỹ đối với
các khoản đã thu thực hiện đầu tư không đúng, như cấp vốn cho các DN, góp vốn liên doanh
11

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


hoặc phản ánh vào số thu NSNN của địa phương. Hạch toán khoản hỗ trợ từ quỹ chưa có sự
thống nhất với Bộ Tài chính; cơ cấu nguồn thu không được đảm bảo, chủ yếu là nguồn thu từ

ngân sách. Việc ghi chép sổ theo dõi tiền gửi tại kho bạc không đầy đủ, tài khoản sử dụng chung
nhiều nguồn nhưng không tách thu, chi từng nguồn tiền gửi hàng tháng, năm.
- Về công tác chi: Một số quỹ sử dụng vốn sai mục đích như cho DN ngoài quỹ vay không hợp
đồng và ý kiến của cơ quan có thẩm quyền; cho DN vay vốn ưu đãi sai mục đích:
Còn có quỹ chi chưa đúng quy định, chưa đôn đốc thu hồi tạm ứng đối với các khoản nợ tồn
đọng; chưa hoàn thiện thủ tục, chế độ quy định về việc sử dụng quỹ để khen thưởng phúc lợi;
Một số DN chưa báo cáo số dư và chưa trích lập quỹ trợ cấp mất việc làm nên làm tăng số phải
hỗ trợ từ quỹ lao động dôi dư hay đề nghị cấp tiền hỗ trợ để chi trả cho các lao động không đúng
quy định
Việc sử dụng khoản tiền chi từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu không thống nhất, quyết toán không rõ ràng
dẫn đến việc hạch toán khác nhau; có đơn vị hạch toán tiền thưởng kim ngạch vào thu nhập,
nhưng có một số đơn vị lại hạch toán vào Quỹ khen thưởng, phúc lợi… Một số đơn vị sử dụng
tiền hỗ trợ xúc tiến thương mại chưa đúng đối tượng, hạch toán tiền thưởng vượt kim ngạch
không đúng
Nguyên nhân của thực trạng trên
Trước hế do tình hình chung là bất động sản đóng băng, rất ít giao dịch trên một số địa phương
khiến cho nguồn thu từ bất động sản, thuế đất giảm rõ rệt. .
Do hoạt động quản lý của địa phương còn kém, khiến cho tình trạng gian lận thuế, trốn thuế, kê
khai sai thuế diễn ra khá phổ biến, nhất là ở các thành phố lớn, khiến cho địa phương bị mất đi
một lượng thu đáng kể.
Do tình trạng nợ thuế kéo dài, không thu hồi được do doanh nghiệp không có khả năng chi trả
hoặc cơ quan có trách nhiệm thu hồi thuế chưa làm tốt nhiệm vụ của mình khiến cho giảm thu
ngân sách.
Do thiếu cơ chế giám sát đối với việc chi NSNN cho chi tiêu công điển hình qua các vụ việc chi
NSNN phát triển các tập đoàn, doanh nghiệp của Nhà nước làm thất thoát hàng nghìn tỷ đồng
NSNN như Vinashin, Vinalines.
Ngoài các lý do khiến nguồn thu ngân sách giảm, còn có lý do khác đến từ tăng chi ngân sách địa
phương. Đó là vấn đề chi sai mục đích, chi sai chế độ diễn ra khá phổ biến ở các địa phương.
Tình trạng chi sai chế độ như tiền xăng xe, chi phụ cấp ưu đãi đặc biệt không đúng đối tượng…
Việc chi sai trong đầu tư xây dựng cơ bản ở hầu hết các địa phương đều khá phổ biến dưới nhiều

dạng: tạm ứng sai quy định, thanh toán vượt quá giá trị thực tế thi công, thanh toán sai khối
lượng, sai đơn giá, để xảy ra lãng phí, thất thoát lớn. Hay một vấn đề quan trọng chủ yếu đấy là
về việc quy định vai trò của cơ quan nhà nước trong việc quản lý ngân sách nhà nước đang tồn
tại nhiều bất cập gây nên khó khăn cho các cơ quan hữu quan trong việc quản lý cũng như thực
hiện việc thu – chi nguồn ngân sách.

12

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


III. Đề xuất ý kiến pháp lý của nhóm về vấn đề chế độ quản lý quỹ ngân sách nhà nước, để sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Trên cơ sở những bất cập hiện nay nhóm chúng em đã thảo luận và đưa ra những ý kiến như sau:
1. Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch. Trong đó chú trọng đổi mới nội
dung và phương pháp lập quy hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế; chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành,
các cấp; điều chỉnh kịp thời những quy hoạch không còn phù hợp; không ghi kế hoạch đầu tư
xây dựng đối với các dự án không có trong quy hoạch, dự án chưa có đủ thủ tục về đầu tư xây
dựng, chưa đủ điều kiện về vốn và nguồn vốn; công khai các dự án quy hoạch, tăng cường kiểm
tra, thanh tra quản lý xây dựng và kế hoạch sử dụng đất đai.
2. Ban hành các chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động
đầu tư xây dựng. Theo đó, người quyết định đầu tư phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc
miễn nhiệm khi quyết định sai gây lãng phí, thất thoát. Chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm toàn
diện về hiệu quả, chất lượng và tiến độ xây dựng. Chủ đầu tư phải thực sự là người khai thác, sử
dụng công trình khi hoàn thành. Củng cố, nâng cao chất lượng của các tổ chức tư vấn.
Sắp xếp lại các tổ chức tư vấn trong nước, hình thành các tổ chức tư vấn độc lập như tập đoàn tư
vấn có đủ điều kiện năng lực thực hiện các dự án quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp. Có chế tài và cơ
chế kiểm tra và thẩm tra chất lượng các sản phẩm của các tổ chức tư vấn, chống hiện tượng
thông đồng, móc ngoặc và các tiêu cực khác giữa chủ đầu tư và tư vấn.

3. Cải cách hành chính trong đầu tư và xây dựng, tăng cường phân cấp việc lập, thẩm định và
phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng cho các đơn vị trực thuộc địa phương Từng bước tách chức
năng quản lý sản xuất ra khỏi chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành địa phương nhằm
xóa bỏ tình trạng khép kín các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, tổ chức đấu thầu, thi công...trong
cùng một Bộ, ngành, địa phương.
4. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, hệ thống văn bản về tiêu chuẩn, quy chuẩn và các chỉ
tiêu, định mức trong hoạt động đầu tư xây dựng; sửa đổi, bổ sung những tiêu chuẩn, quy chuẩn
xây dựng lạc hậu, không phù hợp; nghiên cứu ban hành hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn phù hợp
với tiến bộ khoa học kỹ thuật và thông lệ quốc tế.
5. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra và thanh tra trong hoạt động đầu tư và xây dựng;
thường xuyên thanh tra, kiểm tra các hoạt động đầu tư xây dựng nhằm phát hiện kịp thời, ngăn
chặn các hành vi gây lãng phí, thất thoát tiền vốn của nhà nước, sơ hở trong cơ chế quản lý; áp
dụng cơ chế thuê tư vấn kiểm tra, thẩm tra tư vấn công trình, chống thông đồng, mắc ngoặc giữa
chủ đầu tư và tổ chức tư vấn; chống "khép kín" trong công tác giám sát, đánh giá đầu tư.
6. Khắc phục những tồn tại trong công tác đấu thầu; bắt buộc áp dụng hình thức đấu thầu công
khai, rất hạn hữu khi áp dụng hình thức đấu thầu hạn chế; chống khép kín trong đấu thầu. Tỏ
chức, cá nhân nào vi phạm ngoài việc bị xử phạt còn bị đăng tải tên và nội dung vi phạm trên tờ
báo và trang web về đấu thầu. Tăng cường công khai, minh bạch quá trình đấu thầu bằng việc
quy định bắt buộc đăng tải công khai các thông tin về đấu thầu trên tờ báo về đấu thầu và trang
web về đấu thầu.

13

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


7. Nâng cao năng lực, nghiệp vụ, đạo đức cho cán bộ quản lý; đào tạo kiến thức cơ bản và tạo
điều kiện để cán bộ quản lý nghiên cứu về kinh tế thị trường và các kiến thức liên quan đến công
tác quản lý đầu tư và xây dựng; tăng cường vai trò của các tổ chức đảng trong các tổ chức hoạt
động và quản lý đầu tư xây dựng.


C KẾT LUẬN
Trên đây là cái nhìn cũng như ý kiến đánh giá của nhóm em về vấn đề trên. Bài toán trên sẽ được
tìm ra và dần giải đáp khi nhà nước ta thực hiện 1 cách mạnh tay trong việc quản lý và suy cho
cùng là việc phát triển nền kinh tế ngày 1 vững mạng và phát triển. Tận dụng thời cơ hội nhập
cũng như sự viện trợ từ các nước phát triển sử dụng nó 1 cách chính đáng và hiệu quả kết hợp
với quá trình quản lý sắc sảo. Có như thế thì việc quản lý quỹ ngân sách nhà nước mới đi vào
hoạt động thật sự tốt. bộ mặt đất nước mới có sự biến đổi tích cực

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước _ trường Đại học Luật Hà Nội
2. />3. Thực trạng đầu tư công: Đầu
/>


nhiều



hiệu

quả

thấp

-

4. Quản lý và giám sát các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách ở Việt Nam – THS NGUYỄN
MINH TÂN Thứ năm 05/09/2013 10:14
5.Trang web vietnamgov.vn về đề xuất ý kiến pháp lý đối với chế độ quản lý quỹ NSNN


14

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3


15

Tài chính NO8_ TL3 nhóm 3



×