Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bình luận các nguyên tắc bảo hộ của công ước Berne 1986 về bảo hộ quyền tác giả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.78 KB, 10 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………………………………..1
I-Khái quát chung…………………………………………………………………………...........1
1.1.Sơ lược sự ra đời của Công ước Berne……………………………………………………....1
1.2. Một số khái niệm…………………………………………………………………………..…1
1.2.1. Quyền tác giả…………………………………………………………….…………….….1
1.2.2. Bảo hộ quyền tác giả……………………………………………………….………….….2
II- Nguyên tắc bảo hộ của Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả……………….……2
2.1. Nguyên tắc đối xử quốc gia(National treatment)……………………….…………..…….2
2.2. Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Proctection).............................................3
2.3. Nguyên tắc bảo hộ tự động (Automatic Protection).........................................................4
2.4. Nguyên tắc “bảo hộ tối thiểu”……………………………………………………….………..5
III- Vấn đề thực thi công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam thực trạng và
phương hướng hoàn thiện…………………………………………………………………………5
3.1. Thực trạng……………………………………………………………………….………….5
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công ước tại Việt Nam…………..….6

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………………………7

1


MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, sở hữu trí tuệ ngày càng đóng vai
trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế quốc tế cũng như kinh tế mỗi quốc gia. Trong
đó, công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả là một điều ước quốc tế đa phương quan
trọng mang tính chất toàn cầu về quyền tác giả.Và với việc tham gia vào Công ước Berne đã mở ra
một trang mới với nhiều triển vọng cho nước ta trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Nhận thức tầm quan
trọng của Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả, nhóm chúng em đã chọn đề bài số 10
“Bình luận các nguyên tắc bảo hộ của công ước Berne 1986 về bảo hộ quyền tác giả ” làm đề tài


nghiên cứu cho bài tập nhóm tháng 1.
I-Khái quát chung.
1.1.Sơ lược sự ra đời của Công ước Berne.
Công ước Bern về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật là công ước quốc tế đa phương
đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả. Công ước đã được 10 nước châu Âu thông qua tại Berne( Thụy
Sĩ) vào ngày 9/9/1886.Cùng với Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp năm 1883
thì Công ước Berne ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ trên thế giới. Sau hơn 100 năm tồn tại thì Công ước đã được sửa đổi bổ sung 8 lần tại
Paris (1896), Béclin (1908), Bécnơ (1914), Rome (1928), Brussels( Bỉ) năm 1948, Stockholm
( Thụy Điển) năm 1967 và tại Paris (1971) và bổ sung năm 1979. Đạo luật hiện hành của Công
ước Berne gồm có 38 điều chính, 9 điều bổ sung và phụ lục gồm có 6 điều khoản đặc biệt dành
cho các nước đang phát triển. Ban đầu có 10 quốc gia thành viên của Công ước Berne nhưng hiện
nay đã có 164 quốc gia thành viên trên tất cả các quốc gia châu lục, với tất cả các cường quốc trên
thế giới. Ngày 26/10/2004, Việt Nam đã gia nhập Liên hiệp Berne và chính thức trở thành thành
viên thứ 156 của liên hiệp Berne. Việt Nam tham gia liên hiệp Berne không chỉ bảo hộ các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học mà còn mở ra nhiều triển vọng đầu tư khác với các quốc gia
thành viên trong Công ước Berne.
1.2. Một số khái niệm.
1.2.1. Quyền tác giả.
2


Về mặt pháp lý, quyền tác giả là quyền của cá nhân, tổ chức đối với tác phẩm do mình sáng tạo
ra hoặc sở hữu (theo khoản 2 điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005) bao gồm quyền nhân thân và
quyền tài sản đối với tác phẩm (Điều 738 Bộ Luật dân sự 2005và điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Tuy nhiên, dưới góc độ tư pháp quốc tế thì quyền tác giả trong tư pháp quốc tế được hiểu là quyền
tác giả có yếu tố nước ngoài. Theo đó các dấu hiệu xác định yếu tố nước ngoài trong quan hệ pháp
luật về quyền tác giả bao gồm: Chủ thể của quyền tác giả là người nước ngoài hoặc pháp nhân nước
ngoài. Yếu tố nước ngoài xác định dựa vào quốc tịch; Quyền tác giả phát sinh ở nước ngoài; đối
tượng của quyền tác giả được sử dụng ở nước ngoài.

1.2.2. Bảo hộ quyền tác giả.
Bảo hộ quyền tác giả có thể hiểu là những cách thức, biện pháp được các chủ thể có thẩm
quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả chống lại các hành vi vi phạm. Bảo hộ quyền tác giả không chỉ bảo vệ lợi
ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm mà còn tạo ra sự cân bằng quyền lợi giữa các chủ
thể đó.
IINguyên tắc bảo hộ của Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả.
2.1. Nguyên tắc đối xử quốc gia(National treatment).
Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong số các
nguyên tắc bảo hộ của công ước Berne 1986 về bảo hộ quyền tác giả. Nguyên tắc này được ghi
nhận tại khoản 1 Điều 5 Công ước Berne “ Đối với các tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các
tác giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp ngoại trừ quốc gia gốc của tác phẩm,
những quyền lợi do Luật quốc gia liên hệ dành cho công dân nước đó trong hiện tại và trong
tương lai cũng như những quyền lợi mà công ước này đặc biệt quy định.”. Nguyên tắc này đặt ra
cho mỗi quốc gia thành viên dành sự bảo hộ cho các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có
nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân nước
mình và sự bảo hộ đó không kém thuận lợi, không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc
gia mình. Ngoài ra, nguyên tắc này còn mở rộng phạm vi bảo hộ đối với các tác gỉa tuy không
mang quốc tịch của nước Liên hiệp nhưng có nơi cư trú thường xuyên tại một trong những nước
thành viên Liên hiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 của Công ước “ Các tác giả không phải là
công dân của một nước thành viên của Liên hiệp nhưng lại cư trú thường xuyên ở trong một
những nước trên, theo mục đích của công ước cũng được coi như là tác giả công dân nước thành
viên đó”. Khoản 3 Điều 5 công ước cũng ghi nhận: “ Việc bảo hộ trong quốc gia gốc do pháp luật
cuả quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của quốc gia gốc của tác
phẩm được Công ước bảo hộ thì tác giả đó vẫn được hưởng trong quốc gia này những quyền như
tác giả công dân nước đó”. Thuật ngữ “quốc gia gốc” của tác phẩm được quy định tại khoản 4
Điều 5 Công ước Berne :

3



+ Quốc gia gốc là quốc gia thành viên Liên hiệp, nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên, nếu là
tác phẩm được công bố đồng thời ở nhiều nước thành viên Liên hiệp với thời hạn bảo hộ khác
nhau, quốc gia gốc của tác phẩm là quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất;
+ Quốc gia gốc là quốc gia thành viên Liên hiệp nếu các tác phẩm cùng công bố đồng thời ở một
quốc gia Liên hiệp và một quốc gia ngoài Liên hiệp;
+ Quốc gia gốc là quốc gia thành viên Liên hiệp mà tác giả là công dân nếu tác phẩm chưa công
bố hay đã công bố lần đầu tiên ở một nước ngoài Liên hiệp mà không đồng thời công bố ở một
nước nào thuộc Liên hiệp. Nhưng quốc gia gốc của tác phẩm điện ảnh là quốc gia Liên hiệp mà
nhà sản xuất có trụ sở hay nơi thường trú; còn đối với một tác phẩm kiến trúc dựng lên tại một
nước thuộc Liên hiệp hay những tác phẩm hội họa hoặc tạo hình gắn liền với một tòa nhà hoặc
một cấu trúc đặt tại một nước thuộc Liên hiệp thì nước này sẽ là quốc gia gốc của tác phẩm.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ. Đó là khả năng hạn chế sự bảo hộ đối với một số
tác phẩm của công dân một số nước ngoài Liên hiệp. Chế độ báo phục quốc có thể được áp dụng “
Khi quốc gia ngoài Liên hiệp không bảo hộ đúng mức những tác phẩm của các tác giả là công dân
của một nước thuộc Liên hiệp thì nước thành viên này có thể hạn chế sự bảo hộ các tác phẩm mà
khi công bố lần đầu tiên, tác giả là công dân của nước ngoài Liên hiệp đó và không thường trú ở
một nước thuộc Liên hiệp”, và đặc biệt nếu quốc gia nơi tác phẩm được công bố lần đầu tiên áp
dụng biện pháp này thì các quốc gia khác trong Liện hiệp cũng có thể áp dụng biện pháp bảo hộ
tương tự như vậy ( khoản 1 Điều 6 Công ước Berne).
Với nguyên tắc đối xử quốc gia, Công ước Berne tạo ra nền tảng công bằng, bình đẳng cho
việc bảo hộ các tác phẩm của tác giả nước sở tại và tác phẩm của tác giả là công dân của các nước
thành viên khác. Chính bởi đặc điểm của bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh thổ nên việc tạo ra
quy tắc xử sự ổn định, thống nhất và công bằng là vai trò của điều ước quốc tế đa phương về
quyền tác giả. Ngày nay sự phát triển của các đối tượng của quyền tác giả không còn hạn chế trong
phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia cũng như trong lĩnh vực, đồng thời những vi phạm trong lĩnh
vực này đã được vượt qua biên giới các nước, đòi hỏi sự quan tâm hợp tác giải quyết chung của
cộng đồng nên việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia sẽ đảm bảo ổn định của các mối quan hệ
quốc tế và góp phần tạo nên quy tắc xử sự chung cho các quốc gia trên thế giới.
2.2. Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Proctection).

Khoản 3 Điều 5 Công ước Berne quy định: “ Sự bảo hộ trong quốc gia gốc do pháp luật
quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của quốc gia gốc của tác
phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng trong quốc gia gốc này những quyền
như tác giả công dân nước đó ”. Theo đó, nguyên tắc bảo hộ độc lập được hiểu là một tác phẩm
được bảo hộ không phụ thuộc vào việc tác phẩm đó có được bảo hộ hay không tại quốc gia gốc
4


của nó. Nói cách khác, một tác phẩm dù có hay không được bảo hộ ở quốc gia gốc nhưng nó vẫn
có thể được bảo hộ ở các quốc gia khác là thành viên của Liên hiệp với quy chế pháp lí theo về
bảo hộ quyền tác giả ở quốc gia này.
Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có ngoại lệ về vấn đề thời hạn bảo hộ. Khoản 8 Điều 7
Công ước quy định: “Trong bất kỳ trường hợp nào thời hạn bảo hộ sẽ do quy định của luật pháp
của nước nơi sự bảo hộ được áp dụng. Tuy nhiên, trừ trường hợp Luật pháp của nước đó quy định
khác đi, còn không thì thời hạn bảo hộ sẽ không quá thời hạn được quy định ở quốc gia gốc của
tác phẩm”. Về nguyên tắc thời hạn bảo hộ của quốc gia sở tại đối với tác phẩm không chịu ảnh
hưởng bởi thời hạn bảo hộ của quốc gia gốc, nhưng trên thực tế nếu thời hạn bảo hộ tại quốc gia
gốc đã hết thì quốc gia thành viên có quyền từ chối bảo hộ tác phẩm khác mặc dù theo pháp luật
nước này thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm đó vẫn còn. Ngoài ra, Công ước Berne cho phép các
quốc gia có thể dành cho tác giả là công dân nước mình những quyền lợi lớn hơn so với những
quyền lợi được quy định trong Công ước và không trái Công ước bằng cách quy định trong pháp
luật quốc gia hoặc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế có liên quan.
Nguyên tắc đem lại cho các tác giả sự bảo hộ hiệu quả hơn, giúp họ lựa chọn các quy định có
lợi nhất cho mình nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng cho pháp nhân và công dân có tác phẩm được
bảo hộ và đây cũng chính là sự bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các nước thành viên
công ước.
2.3. Nguyên tắc bảo hộ tự động (Automatic Protection).
Nguyên tắc này được ghi nhận tại Khoản 2 điều 5 Công ước Berne “Sự thụ hưởng và thực
hiện các quyền này không lệ thuộc vào một thể thức, thủ tục nào; sự thụ hưởng và thực hiện này
hoàn toàn độc lập không phụ thuộc vào việc tác phẩm có được bảo hộ hay không ở Quốc gia gốc

của tác phẩm. Do đó, ngoài những quy định của Công ước này, mức độ bảo hộ cũng như các biện
pháp khiếu nại dành cho tác giả trong việc bảo hộ quyền của mình sẽ hoàn toàn do quy định của
luật pháp của nước công bố bảo hộ tác phẩm đó”. Có nghĩa là, tại các quốc gia đã tham gia Công
ước thì việc hưởng và thực hiện các quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật không phải
làm bất kỳ thủ tục nào. Việc bảo hộ được thực hiện kể cả trong trường hợp tác phẩm không được
bảo hộ ở quốc gia gốc. Quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm định hình dưới dạng vật chất
nhất định không lệ thuộc vào bất kỳ thủ tục. Đây cũng là điểm khác biệt giữa bảo hộ quyền tác giả
với bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Bảo hộ quyền sử hữu công nghiệp hướng đến bảo hộ nội
dung đối tượng sáng tạo, chống lại việc sử dụng sở hữu công nghiệp mà không được chủ sở hữu
cho phépvà đảm bảo cho họ có thể độc quyền sử dụng trong một thời gian nên để phát sinh quyền
sở hữu công nghiệp thì chủ sở hữu phải làm các thủ tục nhất định.
Đây là nguyên tắc đặc thù trong các nguyên tắc bảo hộ của công ước Berne 1986 về bảo hộ
quyền tác giả. Nguyên tắc bảo hộ tự động không có và không thể áp dụng trong lĩnh vực bảo hộ
5


quyền sở hữu công nghiệp bởi vì xuất phát từ tính duy nhất (tính nguyên gốc) của tác phẩm văn
học nghệ thuật và một tác phẩm văn học nghệ thuật thường gắn với cảm xúc của tác giả. Nguyên
tắc này đã dành chỗ cho các tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật sự ưu đãi lớn để
các tác giả tập trung sáng tạo tác phẩm mà không phải chú ý đến các thủ tục hành chính.
2.4. Nguyên tắc “bảo hộ tối thiểu”.
Ngoài 3 nguyên tắc trên thì còn có nguyên tắc “bảo hộ tối thiểu”. Nguyên tắc bảo hộ tối
thiểu được hiểu là: Công ước chỉ đưa ra các tiêu chuẩn bảo hộ tối thiểu, theo đó các quốc gia thành
viên khi bảo hộ cho tác phẩm có xuất xứ từ các quốc gia thành viên khác phải đảm bảo ít nhất các
tiêu chuẩn tối thiểu đã định ra trong Công ước, nghĩa là không được thấp hơn những tiêu chuẩn đã
được quy định trong Công ước.
Nguyên tắc bảo hộ tối thiểu được quy định tại Điều 4, Điều 19, Điều 20 của công ước Berne.
Theo nguyên tắc này, tác giả là công dân nước thành viên Công ước sẽ được hưởng 2 loại quyền là
quyền dành cho tác giả là công dân và quyền tối thiểu được quy định trong công ước. Việc áp dụng
hai loại quyền này là phụ thuộc vào việc áp dụng luật nào sẽ có lợi hơn cho tác giả và tác giả hoàn

toàn có quyền lựa chọn.Tuy nhiên, việc lựa chọn áp dụng các quyền này không đồng nghĩa với việc
tước bỏ việc hưởng các quyền kia. Theo Điều 19 và Điều 20 của công ước thì luật quốc gia của các
nước thành viên không được phép có quy định phân biệt đối xử đối với người nước ngoài thuộc diện
bảo hộ của công ước, bất luận thời điểm ban hành đạo luật. Công ước Berne còn cấm việc kí kết các
điều ước song phương về quyền tác giả giữa các nước thành viên hoặc giữa nước thành viên với
nước khác có thể làm ảnh hưởng đến “quyền bảo hộ tối thiểu” của tác giả nước ngoài mà Công ước
quy định. Đây là một trong những quy định nhằm đem lại cho các tác giả sự bảo hộ hiệu quả hơn,
giúp họ lựa chọn các quy định có lợi cho mình nhất.Bảo hộ tối thiểu là chuẩn mực chung, áp dụng
tại mọi quốc gia thành viên, được thể hiện tại các quy định của Công ước, đặc biệt là quy định về
các quyền của tác giả và thời hạn bảo hộ.
III-

Vấn đề thực thi công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam thực trạng
và phương hướng hoàn thiện.
3.1. Thực trạng.

Trong những năm qua, chính sách bảo hộ quyền tác giả và các quyền liên quan đã phát huy
tác dụng tích cực. Nhiều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa - thông tin, từ báo chí, xuất bản, điện
ảnh, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật tạo hình đến phát thanh, truyền hình đã có ý thức tôn trọng
quyền tác giả và các quyền liên quan khi khai thác, sử dụng tác phẩm. Nhiều bộ, ngành, địa
phương đã có các chương trình triển khai thực thi cụ thể, hiệu quả hoạt động bảo hộ quyền tác giả
và các quyền liên quan. Nhiều chủ thể quyền đã áp dụng các biện pháp để tự bảo vệ quyền của
mình. Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan đã được hình thành và có các
hoạt động tích cực, hiệu quả. Trong năm 2003, mức độ vi phạm bản quyền phần mềm tại Việt
6


Nam lên tới 92%, đứng số một Thế giới trong bản xếp hạng các quốc gia có tỷ lệ sử dụng phần
mềm bị xâm phạm bản quyền nhiều nhất nhưng hiện nay đã giảm; 81% là con số máy tính tại Việt
Nam đang sử dụng “phần mềm lậu”. Con số này đã giảm 2% so với năm 2010 (83%), ước tính

tổng giá trị thương mại của phần mềm bị vi phạm bản quyền tại Việt Nam là 395 triệu USD, giảm
4% so với năm trước. Đó là kết luận của Liên minh Phần mềm Doanh nghiệp (BSA) được công bố
tại Việt Nam năm 2012. (5)
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan, nhưng ở nước
ta hiện nay, vi phạm bản quyền trong hầu hết các lĩnh vực vẫn diễn ra rất phức tạp. Hội nghị tổng
kết thực hiện Chương trình Hành động về hợp tác phòng và chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
(Chương trình Hành động 168) giai đoạn 1 (2006 - 2010) do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức
ngày 12/6/2012, tại Hà Nội tổng kết giai đoạn 2006-2010 đã xử lý hơn 4.000 vụ vi phạm về quyền
sở hữu trí tuệ. Chánh Thanh tra Bộ Khoa học và công nghệ Trần Minh Dũng cho biết, các lực
lượng thanh tra, kiểm tra ở các bộ và địa phương đã xử lý trên 4.577 vụ vi phạm về quyền sở hữu
trí tuệ, tổng số tiền xử phạt trên 19,7 tỷ đồng, giá trị hàng hóa, phương tiện vi phạm hàng chục tỷ
đồng. Cụ thể, Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã kiểm tra 118 cơ sở trong việc chấp
hành quy định về bảo vệ phần mềm máy tính, tác quyền âm nhạc và mỹ thuật ứng dụng. Tính
riêng trong 5 tháng đầu năm 2012, Thanh tra Bộ đã tiến hành thanh tra đột xuất 32 doanh nghiệp,
trong đó xử lý phạt 21 doanh (820 triệu đồng), cảnh cáo 2 doanh nghiệp. Thanh tra Bộ cũng đã xử
phạt vi phạm hành chính 8 công ty kinh doanh nội dung số có các hành vi lưu trữ, cung cấp và phổ
biến đến công chúng một số lượng lớn các bản ghi âm không được sự đồng ý của các thành viên
Liên đoàn công nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI) với số tiền phạt 227 triệu đồng.Thanh tra Bộ Khoa
học và công nghệ đã tiến hành thanh tra 159 cơ sở, phát hiện và xử lý 153 vụ xâm phạm quyền sở
hữu công nghiệp, Thanh tra ngành Thông tin và Truyền thông đã thanh tra 1.000 cơ sở, trong đó
phát hiện 180 cơ sở vi phạm các quy định về bản quyền trong hoạt động xuất bản, đã xử phạt cảnh
cáo 30 cơ sở, phạt tiền 150 cơ sở với tổng số tiền phạt 1,5 tỷ đồng, tịch thu và tiêu hủy 100 tấn
sách, 100.000 bản sách vi phạm bản quyền… Như vậy, có thể thấy rằng tình trạng vi phạm quyền
tác giả diễn ra phức tạp và trên nhiều lĩnh vực. Trong lĩnh vực xuất bản, tình trạng in lậu sách diễn
ra thường xuyên. Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh băng, đĩa, hoạt động nhập lậu, in lậu, lưu
hành, kinh doanh băng, đĩa lậu thường xuyên diễn ra trên thị trường và tại khu vực cửa khẩu, biên
giới. , những vi phạm quyền tác giả trong lĩnh vực phần mềm máy tính cũng tăng đáng kể. Trong
lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật,loại vi phạm nổi bật nhất là biểu diễn nghệ thuật không được sự
đồng ý của tác giả hoặc có xin phép nhưng không trả thù lao thoả đáng cho tác giả.
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công ước tại Việt Nam.

Để nâng cao hiệu quả thực thi công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam,
nhóm đưa ra một số kiến nghị sau:
7


+ Thứ nhất,hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền tác giả trong đó các dự thảo về sửa đổi
bộ luật dân sự năm 2005 và 1 số luật liên quan đến quyền tác giả cần đẩy nhanh tiến độ. Luật sở
hữu trí tuệ được sửa đổi, bổ sung 2009 có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 nhằm hoàn thiện pháp luật về
sở hữu trí tuệ nói chung và về quyền tác giả nói riêng. Tuy nhiên, luật sở hữu trí tuệ nước ta mới
chỉ quy định chung về thực thi quyền sở hữu trí tuệ nhưng các quy định này không trực tiếp chỉ ra
yêu cầu tổng quát được coi là tiêu chuẩn mà hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta phải
đạt được yêu cầu trên cơ sở hài hòa các nguyên tắc chung của công ước Berne. Pháp luật dân sự
cần quy định về việc xác định hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ, nâng cao vai trò của tòa án dân sự
trong việc giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ, xác định rõ thẩm quyền vụ việc của tòa án
trong việc xét xử tranh chấp sở hữu trí tuệ. Trong luật hành chính, cần quy định theo hướng mở
rộng thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành chính trong bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho tòa án.
+Thứ hai, tăng cường tính hiệu quả của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi
quyền tác giả. Để đạt hiệu quả trong việc thực thi quyền tác giả, cần đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên
môn về quyền tác giả cả trong phạm vi trong nước và nước ngoài, trước hết là đào tạo chuyên sâu về
pháp luật quyền tác giả cho đội ngũ cán bộ thông qua các lớp đào tạo chính quy, tại chức, lớp tập
huấn chuyên môn, thông qua các hội thỏa khoa học trong nước và quốc tế trong đó đặc biệt chú
trọng đến việc đào tạo ngoại ngữ. Bên cạnh đó, cần thành lập các cơ quan nhà nước thống nhất về sở
hữu trí tuệ và nước ta có thể học tập kinh nghiệm của các nước trên thế giới về vấn đề này.
+ Thứ ba, cần đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết với tình trạng vi phạm bản quyền. Để đảm
bảo hạn chế tới mức tối đa tình trạng vi phạm bản quyền tràn lan như hiện nay, pháp luật nước ta
cần phải quy định các chế tài trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả mạnh hơn nữa và dư luận xã hội
cần phải tẩy chay không sử dụng các sản phẩm xuất bản mà không được sự đồng ý của tác giả,
không sử dụng các sản phẩm như băng, đĩa lậu,sách lậu...
+ Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, giới
thiệu Công ước Berne tới công chúng để nâng cao ý thức cộng đồng về vai trò của sở hữu trí tuệ,

quyền sở hữu trí tuệ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Để tăng cường ý thức pháp luật của người dân,
nhà nước cần tổ chức hội thảo về Công ước; truyền tải nội dung Công ước trên các phương tiện
truyền thông; phát động các cuộc thi tìm hiểu Công ước; đưa kiến thức về sở hữu trí tuệ vào giáo
dục trong nhà trường...
+ Thứ năm, để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, cần
phải tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia. Cụ thể, chúng ta cần tích cực tham gia hoạt động có
hiệu quả hơn các chương trình hành động trong khuôn khổ tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới( WIPO) ;
tranh thủ sự ủng hộ của tổ chức cho việc thực thi Công ước Berne tại Việt Nam; cử các chuyên gia
đi học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ; tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính
phủ, các tổ chức nước ngoài...
KẾT LUẬN
8


Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả là công ước quan trọng về quyền bảo hộ
quyền tác giả trên phạm vi thế giới. Với việc quy định một hệ thống nguyên tắc bảo hộ quyền tác
giả, Công ước Berne đã cho thấy quyền tác giả là một trong những lĩnh vực được quốc tế hóa ngày
càng rộng rãi, thể hiện nỗ lực của thế giới trong việc xây dựng hành lang quốc tế chung có hiệu lực
ngày càng mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu bảo hộ quốc tế quyền tác giả. Với việc tham gia công ước
Berne, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, yêu
cầu đặt ra là cần hoàn thiện pháp luật quốc gia trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả kết hợp với các
biện pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực thi công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả ở
nước ta hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội – NXB Tư pháp, Hà Nội 2007.
2. Nguyễn Thị Vân Anh, “Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả và vấn đề thực

thi Công ước Berne tại Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội - Khóa luận tốt nghiệp, Hà

Nội, 2010.

9


3. Lê Thị thu, “ Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne và vấn đề thực thi

công ước tại Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội - Khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2010.
4. Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả.
5.

/>
option=com_content&view=article&id=3621&catid=36:tin-s-hu-tri-tu&Itemid=54
6. Luật sở hữu trí tuệ năm 2005.

10



×