Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Một số vẩn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.77 KB, 91 trang )

Ễ2
ìir

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẰN THƠ
TRƯỜNG
ĐẠI HỌC
CẰN THƠ
KHOA
LUẬT
KHOA
LUẬT MẠI
BÔ MÔN
THƯỜNG
Bộ MÔN THƯỜNG MẠI

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LUẬN
TỐT
NGHIỆP
CỬ VĂN
NHÂN
LUẬT
I
V
V

NHÂN
LUẬT
NIÊNCỬ
KHÓA
(2008-2012)


NIÊN KHÓA (2008-2012)

đề lý luận và thực tiễn về họp đồng ỉ:
Môt số vấn
ĐÈ TÀI:
 nhương
ĐÈ TÀI:
maivàở thưc
Viêt Nam
 hơp đồngv
Môt quyên
số vấnthương
đề lý luân
tiễn về

___ _____

I

Giảng
viên
hướng
dẫn
Giảng viên hướng dẫn
Nguyễn Thị Hoa Cúc
Nguyễn Thị Hoa Cúc

Cần Thơ, 04/2012

Sinh viên thực hiện

Sinh viên
thực
hiện
Phan
Văn
Dũng Em
Phan Văn Dũng Em
MSSV:
5086031
MSSV:
5086031
LỚP:
Thương
mại
2-k34
LỚP:
Thưong
mại
2-k34

\y
A

I


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN


NHẢN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIÊN

••


NQTM
LTM
CGCN
SHTT

TT
NHHH
SHCN

Nhượng quyền thương
mại
Luật thương mại
ChuyểnTỪ
giaoVIẾT
cồngTẮT
nghệTRONG LUẬN VĂN
DANH MỤC NHỮNG
Sở hữu trí tuệ
NHẢN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIÊN
Nghị định
••
Thông tơ
Nhãn hiệu hàng hóa
Sở hữu công nghiệp


MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài..........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài....................................................................................2
3. Phạm vi nghiện cứu.....................................................................................................2
4. Phuơng pháp nghiên cứu..............................................................................................2
5. Cơ cấu của luận vãn....................................................................................................2
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÈ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ HỢP
ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI.................................................................3

1.1........................................................................................ Nhuợng quyền thuong mại
.......................................................................................................................................3

1.1.1.......................................................................................................................... Lịc
h sử hình thành NQTM......................................................................................................3

1.1.2 Khái niệm, đặc điểm, phân loại NQTM..................................................................4
1.1.2.1 Khái niệm NQTM...........................................................................................4
1.1.2.2.............................................................................................................. Cá
c đặc điểm cơ bản của hoạt động NQTM....................................................................6

1.1.2.3 Phân loạiNQTM............................................................................................7
1.1.3 Khái niệm họp đồng NQTM...................................................................................9
1.1.3.1.............................................................................................................. Kh
ái niệm hợp đồngNQTM trên thể giới.........................................................................9

1.1.3.2.............................................................................................................. Kh
ái niệm hợp đồng NQTM ở Việt nam...........................................................................10


1.2.............................................................................................................................. Sự
hình thành và phát hiển pháp luật NQTM....................................................................10

1.2.1 Truớc ngày 01 tháng 01 năm 2006.........................................................................11
1.2.2.......................................................................................................................... Sau
ngày 01 tháng 01 năm 2006...............................................................................................11

1.3.............................................................................................................................. Phâ


17

1.4.3. Đổi với nền kinh tể..........................................................................................
1.5. Pháp luật về hợp đồng Nhượng quyền thương mại một số nước trên thế giới........18

1.5.1........................................................................................................................... Phá
p luật Mỹ về họp đồng NQTM..........................................................................................18

1.5.2 Pháp luật Trung Quốc về họp đồng NQTM...........................................................18
1.5.3 Pháp luật Đức về hợp đồng NQTM.......................................................................18
1.5.4 Pháp luật Pháp về họp đồng NQTM......................................................................19
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM...............................................................................................................................21

2.1 Chủ thể hợp đồng NQTM..............................................................................................21
2.2 Hình thức họp đồng NQTM.........................................................................................26
2.3 Giao kết họp đồng NQTM............................................................................................27
2.4 Nội dung hợp đồng NQTM..........................................................................................31

2.4.1....................................................................................................................... về
đối tượng hợp đồng NQTM................................................................................................31

2.4.2 về quyền và nghĩa vụ các bên.................................................................................33
2.4.3....................................................................................................................... Gi
á cả, phỉ nhượng quyền định kỳ và phương thức thanh toán.............................................37

2.4.4 Thời điểm và thời hạn có hiệu lực của hợp đồngNQTM.......................................38
2.4.5 Chẩm dứt hợp đồng.................................................................................................39
2.5 Vi phạm trong hợp đồng NQTM.................................................................................40
2.5.1........................................................................................................................... Mộ
t số vi phạm thường gặp trong quan hệ NQTM.................................................................40

2.5.2........................................................................................................................... Ch
ế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm hợp đồng NQTM...................................................42
2.5.2.7 Buộc thực hiện đúng hợp đồng........................................................................42


THỰC

TRẠNG

HOẠT

ĐỘNG

NHƯỢNG

QUYỀN


THƯƠNG

MẠI



VIỆT

NAM. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM 49

3.1 Thực trạng hoạt động NQTM ở Việt Nam...................................................................49
3.1.1 Tình hình hoạt động của một sổ mô hình nhượng quyền thương hiệu ở nước
ngoài vào Việt Nam..................................................................................................................49

3.1.2 Tĩnh hình hoạt động của một số mô hình mô hình nhượng quyền của

thương
hiệu Việt Nam...........................................................................................................................52

3.2 Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng
NQTM ở Việt Nam......................................................................................................56

3.2.1 về đối tuợng NQTM................................................................................................56
3.2.2 về chủ thể................................................................................................................57
3.2.3 về nội dung họp đồng..............................................................................................60
3.2.3.1 Vẩn đề đổi tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong hợp đồng nhượng quyền
thương mại.................................................................................................................................60

3.2.3.2. về quyền và nghĩa vụ các bên chủ thể trong hợp đồng NQTM...................62

64
KẾT
LUẬN ....................................................
3.2.3.3.
Một số vẩn đề khác liên quan đến hợp đồng nhượng quyền thương
mại
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

69


LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhượng quyền thương mại (Franchise) cùng với các hình thức kinh doanh khác đã
tạo nên một bức tranh sống động của nền kinh tế thế giới. Hình thành từ thế kỷ 19, hình
thức này không ngừng được mở rộng, phát huy tính hiệu quả trong kinh doanh. Doanh thu
từ hoạt động kinh doanh nhượng quyền trên thế giới năm 2000 là khoảng 1.000 tỉ USD
với khoảng 320.000 doanh nghiệp từ 75 ngành khác nhau.Nhượng quyền thương mại là
một phương thức kinh doanh rất phổ biến và đang lan rộng khắp thế giới. Theo thống kê
năm 2001 tại Mỹ có khoảng 800.000 cơ sở kinh doanh theo phương thức ữanchise với
hơn 10 hiệu nhân công và hơn 625 tỷ USD doanh số.(1)
Theo đánh giá của Hội đồng nhượng quyền quốc tế (WFC), hiện nay ở Việt Nam
có khoảng 70 hệ thống nhượng quyền hoạt động do cả doanh nghiệp trong và ngoài nước
tiến hành với các tên tuổi đã hở lên quen thuộc như Cafe Trung Nguyên, Phở 24, Kinh
Do Bakery, Kentucky Fried Chicken (KFC), Dilmahs,...về cơ bản, với thị trường tiềm
năng hơn 80 hiệu dân, hạ tầng dịch vụ ngày càng hoàn thiện, tốc độ tăng trưởng kinh tế
hàng năm đạt trên 7%, số lượng doanh nghiệp tăng đáng kể....là những tiền đề để hình
thức kinh doanh ữanchising phát triển mạnh mẽ ở Việt nam, hơn nữa theo dự báo, sau khi

gia nhập WTO, nhượng quyền thương mại ở nước ta sẽ có cơ hội phát triển nhanh do sự
đầu tư của các công ty và tập đoàn lớn chuyên về ữanchising. Để có thể hội nhập thành
công thì một điều kiện tiên quyết đối với các doanh nghiệp Việt Nam là cần tìm hiểu,
nghiên cứu các thuận lợi và thách thức của hệ thống kinh doanh đặc thù này trước khi
quyết định kí kết họp đồng để tham gia mô hình kinh doanh nhượng quyền thương mại.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là hình thức pháp lý thực hiện hoạt động
nhượng quyền thương mại là căn cứ pháp luật quan họng nhất và cũng là căn cứ hợp tác
kinh doanh của hai bên, đó là cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ các bên đồng thời là
căn cứ giải quyết tranh chấp giữa các bên. Mặt khác, đó cũng là cơ sở để nhà nước có thể
quản lý hoạt động nhượng quyền trên lãnh thổ Việt Nam, có thể nói họp đồng nhượng
quyền thương mại đóng vai trò quan họng trong quan hệ nhượng quyền giữa các chủ thể.
Chính vì vậy việc nghiên cứu “Một số vẩn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng nhượng
quyền thương mại ở Việt Nam” rất cần thiết và quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc cả về mặt
lý luận lẫn thực tiễn.

(1) Nhượng quyên thương mại: Lịch sử, hiện tại và tương lai. Đăng trên:
http
://www.saga.vn/
Thuonghieu/Nhuongquyenvagiatrithuonghieu/3148.saga 15/07/2007


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận về nhuợng quyền thuơng mại nói chung
và họp đồng nhuợng quyền thuơng mại nói riêng, đồng thời nghiêng cứu một số nét cơ
bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm làm rỏ các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp
đồng nhuợng quyền thuơng mại, kết hợp với việc xem xét thực hạng hoạt động nhuợng
quyền thuơng mại ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đua ra một số đánh giá và kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy phạm pháp luật điều chỉnh họp đồng nhuợng quyền thuơng mại ở Việt
Nam.


3. Phạm vỉ nghiên cứu
về lỷ luận: Đề tài này nghiên cứu về quy định của pháp luật về NQTM trong đó
tập trung vào các vấn đề về họp đồng nhu: chủ thể, hình thức, nội dung... đuợc quy định
tại Luật thuơng mại và các vãn bản liên quan nhu: Luật cạnh tranh 2004; Luật sở hữu trí
tuệ 2005; Luật chuyển giao công nghệ 2006; Nghị định 35/2006/NĐ-CP ...

về thực tiễn’. Nghiên cứu thực tiễn hoạt động NQTM. Trên cơ sở đó, tìm ra những
vuớng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật về NQTM để đua
ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về NQTM.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận vãn lấy phuơng pháp trong nghiên cứu khoa học pháp lý nhu: phuơng pháp
phân tích tổng họp, phuơng pháp đối chiếu so sánh, phuơng pháp liệt kê...Các phuơng
pháp này đuợc sử dung đan xem lẫn nhau xem xét toàn diện các vấn đề lý luận và thực
tiễn về họp đồng nhuợng quyền thuơng mại.

5. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của luận vãn gồm ba
chuông:
Chương 1: Một sổ vẩn đề lý luận về nhượng quyền thương mại và hợp đồng nhượng
quyền thương mạù
Chương 2: Pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam
Chương 3: Thực trạng hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam. Một số đánh
giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thong pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng
quyền thương mạù


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
VÀ HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI


1.1 Nhượng quyền thương mại
1.1.1 Lịch sử hình thành NQTM
NQTM tuy mới được biết đến ở Việt Nam khoảng 20 năm trở lại đây nhưng nó là
khái niệm rất phổ biến trên thế giới với lịch sử phát triển khá lâu đời.
Cách đây hàng ứăm năm NQTM đã xuất hiện ở châu Âu và sau đó lan rộng, phát
triển mạnh mẽ ở Mỹ, từ ữanchise có nguồn gốc từ “ữanc” trong tiếng Pháp có nghĩa là
“sự tự do”. Vào thời đó bên nhượng quyền là một người rất quan họng, được trao quyền
hạn và quyền tự do để thay mặt nhà nước điều hành hiển khai các luật lệ tại một số các
lãnh thổ nhất định. Khái niệm trao quyền này sau đó được áp dụng trong ngành kinh
doanh và khu vực kinh tế tư nhân.
Trước thế chiến thứ 2, NQTM phát triển 0 ạt trong các trạm xăng dầu và gara buôn
bán xe hơi, về thực chất đây chỉ là hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm, các đại
lý xăng dầu hay gara xe hơi được cấp giấy phép dưới tên một thương hiệu nào đó tuy
nhiên họ không phải trả khoản phí nhượng quyền nào. Điều kiện duy nhất để các đại lý
được hoạt động là phải mua sản phẩm độc quyền cung cấp bởi chủ thương hiệu mà thôi.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, mô hình kinh doanh này mới thật sự phát triển và
trở nên phổ biến đặc biệt đối với các mặt hàng dich vụ bán lẻ, phân phối, nhà hàng, chuỗi
khách sạn. Phương thức nhân rộng mô hình kinh doanh này phát hiển mạnh nhất ở Mỹ từ
khoảng thập niên 90, vào năm 1994, 35% của tổng doanh số bán lẻ tại Mỹ là từ các cửa
hàng nhượng quyền. Theo số liệu thống kê năm 2001 có khoảng 800.000 cở sở kinh
doanh NQTM, hoạt động nhượng quyền tạo ra gần 10 hiệu chỗ làm và chiếm đến 7.4%
tổng lực lượng lao động, chiếm 5% tổng số tiền lương trong khối kinh tế tư nhân. Khối
lượng hàng hóa và dịch vụ mà lĩnh vực này tạo ra hàng năm là khoảng 630 tỷ USD,
chiếm 3.9% tổng số lượng hàng hóa, dịch vụ trong khu vực kinh tế tư nhân Hoa Kỳ(2).
Ngày nay, một số tiểu bang của Mỹ đã có luật bắt buộc bất kỳ công ty tư nhân nào
(2)

: Nghiên cứu tác động kinh tế của hoạt động NQTM - thực hiện bởi quỹ giáo dục
hiệp hội nhượng

quyền quốc tế IFA.


muốn tham gia thị trường chứng khoán phải có đãng kí nhượng quyền.
Khái niệm NQTM mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1990 và đến nay có khoảng
70 hệ thống nhượng quyền nhưng hoạt động này đã từng bước khẳng định vai trò của
mình đối vói sự phát hiển kinh tế Việt Nam. Giờ đây người tiêu dùng đã quen thuộc với
các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới như KFC, DIMAL, QUALITEA, cho đến nay một
số thương nhân Việt Nam đã kinh doanh khá thành công theo mô hình này (điển bình là
cà phê Trung Nguyên, Phở 24 và bakerry Kinh Đô), và các doanh nghiệp có tiềm năng
khác cũng đang khẩn trương chuẩn bị để chuyển nhượng quyền thương mại. Khái niệm
này cũng đã được các trường đại học về kinh tế đưa vào giảng dạy chính thức, một số
buổi hội thảo do các doanh nghiệp kinh doanh nhượng quyền đã được tổ chức như hội
chợ hiển lãm về ữachise tổ chức bởi Vina Capital tại Thành phố Hồ Chí Minh 06/2005;
hội thảo về ữachise tổ chức bởi trung tâm xúc tiến thương mại (ITPC) và công ty Việt Âu
tại khách sạn New Word 12/2005, nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các thương nhân. Điều
đó cho thấy khái niệm NQTM đã được đề cập đến rất nhiều trong thời gian gần đây. Mặt
khác, theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay Việt Nam đã gia nhập WTO thì NQTM
sẽ tiếp tục phát hiển mạnh, cũng theo họ để Việt Nam có thể hội nhập kinh tế thế giới một
các nhanh chóng thì NQTM là con đường tốt nhất và rất phù họp với hoàn cảnh Việt Nam
hiện nay.

1.1.2

Khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của NQTM

1.1.2.1 Khái niệm NQTM
Tuy có lịch sử phát hiển lâu dài nhưng đến nay hên thế giới vẫn chưa có khái niệm
thống nhất về NQTM. Mỗi quốc gia đưa ra khái niệm khác nhau phù họp với điều kiện
kinh tế xã hội và quan điểm lập pháp của nước mình.

Định nghĩa của Uỷ ban thương mại liên minh Hoa Kỳ nhấn mạnh tới việc bên giao
quyền kinh doanh hỗ trợ và kiểm soát bên nhận trong hoạt động kinh doanh, theo đó hoạt
động nhượng quyền thương mại được hiểu như sau: “NQTM là thỏa thuận, theo đó bên
nhượng quyền có trách nhiệm hỗ trợ đáng kể cho bên nhận quyền trong việc điều hành
doanh nghiệp và kiểm soát chặt chẽ phương pháp điều hành doanh nghiệp của bên nhận
quyền. Đồng thời bên nhượng quyền phải cho phép bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu để


phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hóa của bên nhượng và yêu cầu
bên nhận thanh toán một khoản phí tối thiểu”.
Theo hiệp hội NQTM quốc tế (IFA- The International Franchise Association) thì:
“NQTM là mối quan hệ theo họp đồng giữa bên giao và bên nhận, theo đó bên giao đề
xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh nghiệp của bên nhận trên các khía
cạnh như bí quyết kinh doanh, đào tạo nhân viên. Bên nhận quyền hoạt động dưới nhãn
hiệu hàng hóa, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên giao sở hữu hoặc kiểm soát
và bên nhận quyền đang và sẽ tiến hành đầu tư đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng nguồn
lực của mình”. Theo định nghĩa này vai trò của bên nhận quyền kinh doanh trong việc đầu
tư vốn và điều hành doanh nghiệp được đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của
bên giao quyền.
Liên minh Châu Âu định nghĩa: “NQTM là tập hợp những quyền sở hữu công
nghiệp và sở hữu hí tuệ liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu cửa
hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai thác để bán sản
phẩm hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”. Như vậy có thể thấy cách tiếp
cận của liên minh Châu Âu là việc nhấn mạnh quyền của bên nhận quyền khi sử dụng tập
hợp các quyền sở hữu trí tuệ
Định nghĩa của Australia là định nghĩa khá toàn diện về NQTM, ngoài việc chỉ ra
các đặc điểm đặc trưng khái quát lên bản chất của NQTM còn chỉ ra được một quy trình
khá chi tiết và đầy đủ của hoạt động NQTM. Định nghĩa đó như sau: “NQTM là một thỏa
thuận một bên (bên nhượng quyền) cấp cho bên khác (bên nhận quyền) quyền thực hiện
hoạt động đề nghị giao kết hợp đồng, cung cấp hoặc phân phối hàng hóa hàng hóa hoặc

dịch vụ trong lãnh thổ Australia theo hệ thống hoặc kế hoạch kinh doanh mà cơ bản được
xác định kiểm soát hoặc đề xuất bởi bên nhượng quyền, theo đó: Việc tiến hành hoạt động
kinh doanh được chủ yếu gắn liền với thương hiệu, hoạt động quảng cáo hoặc biểu tượng
thương mại của bên nhượng quyền. Trước khi bắt đầu kinh doanh và trong quá trình kinh
doanh, bên nhận quyền phải thanh toán cho bên nhượng quyền một khoản phí NQTM”.

(3)

; Xem Một số khái niệm nhượng quyền thương mại trên thế giới. Đăng trên http://www.
sagq.

vn/


Đối với Việt Nam khái niệm nhượng quyền thương mại lần đầu tiên được đề cập
đến trong pháp luật tại Đ284 luật thương mại 2005, theo quan điểm các nhà làm luật thi:
“NQTM là hoạt động thượng mại theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên
nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều
kiện sau:

1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức do
bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí
quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên
nhượng quyền.

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền trong việc
điều hành công việc kinh doanh.”

Qua các định nghĩa trên ta có thể thấy mặc dù quan điểm của các quốc gia về
nhượng quyền thương mại là khác nhau nhưng tất cả các định nghĩa trên đều có đặc điểm

chung là:
Bên nhận quyền phân phối sản phẩm, cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu
hàng hóa, các đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và theo quy trình kỹ thuật do bên nhượng
quyền xây dựng và sở hữu.
Bên nhận quyền phải trả một khoản phí và chấp nhận các điều kiện do bên
nhượng quyền quy định (các quy định về tiêu chuẩn hàng hoá, giá sản phẩm, cách bài trí
cửa hàng, cung cách phục vụ của nhân viên...)

1.1.2.2 Các đặc điểm cơ bản của hoạt động NQTM
NQTM là phương thức kinh doanh đặc biệt, mặc dù rất giống với lisence, đại lý
thương mại và chuyển giao công nghệ nhưng nó không phải là một trong các phương thức
đó, chúng ta có thể nhận biết NQTM qua một số đặc điểm cơ bản của nó như:
Thứ nhất, chủ thể tham gia hoạt động NQTM gồm bên nhượng quyền và bên nhận
quyền là các pháp nhân độc lập và hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về mặt pháp lý
cũng như tài chính. Bên nhận quyền mặc dù kinh doanh dưới thương hiệu của bên
nhượng quyền nhưng lại hoàn toàn chủ động trong việc kinh doanh của mình, việc có lãi


khách hàng và các đối tác khác trong kinh doanh, vì vậy nó sẽ có địa vị pháp lý ngang
nhau khi kinh doanh NQTM.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động NQTM là vô hình - chính là quyền thưong mại _
đó là một thể thống nhất tạo bởi rất nhiều các quyền tài sản khác nhau như quyền sử dụng
các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (nhãn hiệu hàng hóa, tên thưong mại, bí
quyết kinh doanh, bí quyết kỹ thuật...), quyền kinh doanh theo hệ thống vận hành với
phương thức quản lý, tiếp thị, đào tạo của bên nhượng quyền.
Thứ ba là mối quan hệ hỗ trợ mật thiết giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền.
Bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền
để sản xuất, phân phối hàng hóa và cung ứng dịch vụ, đồng thời còn nhận được sự giúp
đỡ về mặt kỹ thuật, đào tạo của bên nhượng quyền trong quá trình kinh doanh theo hợp
đồng NQTM. Chính vì vậy bên nhượng quyền luôn có quyền kiểm soát đối với hoạt động

kinh doanh của bên nhận quyền để đảm bảo tính đồng bộ cho toàn hệ thống nhượng
quyền. Ngược lại, bên nhận quyền khi tham gia vào mạng lưới kinh doanh nhượng quyền
sẽ phải trả cho bên nhượng quyền các khoản tiền cho việc sử dụng đối tượng NQTM để
kinh doanh cũng như các khoản tiền cho các công việc đào tạo, hỗ trợ mà mình nhận
được.Tuy nhiên có trường hợp ngoại lệ là trong hình thức nhượng quyền phân phối (được
đề cập trong phần 1.1.2.3) thì bên nhận quyền chủ yếu thực hiện phân phối các sản phẩm
do bên nhượng quyền sản xuất, cung cấp dưới thương hiệu của bên nhượng quyền và sự
giúp đỡ, hỗ trợ từ phía bên nhượng quyền đó thì hạn chế.
Trên đây chỉ là một số đặc điểm cơ bản của nhượng quyền thương mại, tùy theo
từng hình thức nhượng quyền cụ thể mà quan hệ nhượng quyền thưong mại còn có thể có
các đặc điểm khác.
1.1.23 Phân loạiNQTM
Theo thông lệ quốc tế, nếu căn cứ vào phạm vi, tính chất của quan hệ nhượng
quyền thì NQTM sẽ được chia thành nhượng quyền sản xuất, nhượng quyền phân phối
sản phẩm và nhượng quyền phương pháp kinh doanh.
Thứ nhất, nhượng quyền sản xuất: Đây là loại hình NQTM theo đó bên nhận được
sử dụng các nguyên liệu đặc thù và có thể là bí quyết kinh doanh để thực hiện việc sản
xuất và phân phối sản phẩm dưới tên thương mại và nhãn hiệu của bên giao. Bên giao


quyền chỉ cung cấp các nguyên liệu đặc thù, các bí quyết kỹ thuật và cấp lisence quyền sử
dụng các đối tuợng sở hữu trí tuệ cho bên nhận để tiến hành kinh doanh.
Thứ hai, nhuợng quyền phân phối: Đây là loại hình NQTM đơn giản nhất, mà mối
quan hệ giữa hai bên chủ thể (bên nhuợng quyền và bên nhận quyền) thực chất là quan hệ
giữa nhà cung cấp và nhà phân phối. Theo đó bên nhận quyền chỉ đuợc thực hiện phân
phối các sản phẩm do bên giao quyền sản xuất, cung cấp duới thuơng hiệu của bên giao
quyền còn sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía bên giao quyền nhu các hình thức nhượng quyền
kinh doanh khác thì rất hạn chế. Có chăng chỉ là việc bên nhận quyền được sử dụng các
quyền sở hữu trí tuệ thuộc sở hữu của bên giao quyền như tên thương mại, nhãn hiệu
hàng hoá, biển hiệu cửa hàng để kinh doanh. Chính vì vậy, bên nhận quyền cũng tự do

hơn trong việc kinh doanh của mình, ít chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao quyền
trong quá trình kinh doanh. Hình thức nhượng quyền này được áp dụng rộng rãi vào thời
kì trước chiến tranh thế giới thứ 2 và đến nay vẫn còn phổ biến ở các nước phương tây
trong các lĩnh vực như kinh doanh trong các trạm xăng dầu, đại lý bán ô tô.
Thứ ba, nhượng quyền phương pháp kinh doanh (nhượng quyền kinh doanh): Đây
là hình thức nhượng quyền phổ biến nhất hiện nay, nó là hình thức kinh doanh hội tụ tất
cả các đặc trưng của phương thức NQTM. Nhượng quyền kinh doanh không đơn thuần là
việc bên giao quyền cho phép bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và bí
quyết kinh doanh của mình để sản xuất và kinh doanh mà nó còn gồm cả việc chuyển
giao kỹ thuật kinh doanh và công thức điều hành quản lý. Bên nhận quyền được phép sử
dụng tất cả các quyền đối với đối tượng kinh doanh của bên giao quyền, đó là các quyền
đối với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh để kinh doanh. Trong
hình thức này, bên giao quyền không thực hiện việc sản xuất và cung cấp sản phẩm cho
bên nhận quyền mà thay vào đó là chuyển giao bí quyết kỹ thuật, các trang thiết bị,
nguyên liệu đặc thù cho bên nhận quyền để sản xuất, kinh doanh dưới thương hiệu của
bên nhượng quyền. Không những vậy, bên nhận quyền còn nhận được sự trợ giúp, hỗ trợ
của bên nhượng quyền trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đổi lại bên nhận quyền
phải trả cho bên nhượng quyền khoản phí nhượng quyền và các khoán lợi tức được tính
hàng năm trong qúa trình họp đồng NQTM có hiệu lực. Mặt khác bên nhận quyền còn
phải tuân thủ tuyệt đối các quy định kỹ thuât, chuẩn mực do bên giao quyền đặt ra. Hình


thức nhượng quyền kinh doanh được áp dụng nhiều trong các lĩnh vực khách sạn, nhà
hàng ăn uống.
Có thể nói đây là ba hình thức nhượng quyền cơ bản nhất, từ đây có thể phát triển
thành nhiều hình thức nhượng quyền khác. Phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mình
mà các bên chọn ra hình thức nhượng quyền thương mại phù họp để kinh doanh.

1.1.3 Khái niệm họp đồng NQTM
Xuất phát từ bản chất kinh tế cũng như bản chất pháp lý của hoạt động nhượng

quyền thương mại, hợp đồng nhượng quyền thương mại cũng giống như các loại họp
đồng thông thường khác, là sự thoả thuận của các bên trong quan hệ nhượng quyền
thương mại về những vấn đề chính trong nội dung của quan hệ này. Đây chính là cơ sở
phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên trong hoạt động nhượng quyền và cũng là cơ sở để
giải quyết tranh chấp có thể sẽ phát sinh trong quá trình các bên thực hiện họp đồng.

1.1.3.1 Khái niệm hợp đồngNQTM trên thể giới
Theo Hiệp ước EEC, “Hợp đồng nhượng quyền thương mại là một thoả thuận
trong đó, một bên là bên nhượng quyền cấp phép cho một bên khác là bên nhận quyền
khả năng được khai thác một “quyền thương mại” nhằm mục đích xúc tiến thương mại
đối với một loại sản phẩm hoặc dịch vụ đặc thù để đổi lại một cách trực tiếp hay gián tiếp
một khoản tiền nhất định. Hợp đồng này phải quy định những nghĩa vụ tối thiểu của các
bên, liên quan đến: việc sử dụng tên thông thường hoặc dấu hiệu của cửa hàng hoặc một
cách thức chung; việc trao đổi công nghệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền; việc
tiếp tục thực hiện của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong việc trợ giúp, hỗ
trợ thương mại cũng như kỹ thuật trong suốt thời gian họp đồng nhượng quyền thương
mại còn hiệu lực”
Hiệp hội nhượng quyền thương mại của nước Đức đã đưa ra một khái niệm chính
thức về hoạt động nhượng quyền thương mại, nhưng pháp luật thương mại của nước này
lại không đề cập đến khái niệm hợp đồng NQTM với tư cách là một loại hợp đồng đặc
thù. Ở Đức, họp đồng nhượng quyền thương mại chỉ là một loại hợp đồng họp tác để
phân phối sản phẩm.
Có thể nói, hợp đồng NQTM là một loại hợp đồng chứa đựng những đặc điểm tổng
hợp của rất nhiều loại họp đồng khác nhau. Hợp đồng NQTM có chứa đựng những yếu tố
của hợp đồng li -xăng, đó là sự hướng tới việc sử dụng một số đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp. Bên cạnh đó,


giao, cung cấp, hướng dẫn cho bên nhận quyền các công nghệ đi kèm và các tài liệu
hướng dẫn vận hành công nghệ đó. Không những thế, bóng dáng của các họp đồng cung

ứng, họp đồng đại lý phân phối cũng hiện hữu trong họp đồng nhượng quyền thương
mại.
Như vậy, hợp đồng NQTM là một tập hợp các thoả thuận của các bên chủ thể,
trong đó các bên phải đề cập đến ít nhất một số vấn đề chủ yếu liên quan đến: thứ nhất, sự
chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ từ bên nhượng
quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận; thứ hai, sự hỗ trợ của bên
nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện họp đồng; thứ ba,
nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận quyền đối với bên
nhượng quyền. Với khái niệm này, hợp đồng nhượng quyền thương mại đã thể hiện được
đúng bản chất pháp lý của hoạt động nhượng quyền thương mại, giúp cho công chúng có
thể dễ dàng phân biệt được loại họp đồng thương mại đặc biệt này với một số loại hợp
đồng khác có cùng một hoặc một số tính chất nhất định.

1.1.3.2 Khái niệm hợp đồng NQTM ở Việt nam
Ở Việt Nam, pháp luật không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương
mại mà chỉ quy định về hình thức của loại hợp đồng này tại Điều 285 Luật Thương mại
năm 2005. Như vậy, có thể hiểu, trên phương diện pháp luật, hợp đồng nhượng quyền
thương mại là một loại họp đồng được các thương nhân ký kết trong quá trình thực hiện
hoạt động thương mại, mà cụ thể ở đây chính là thực hiện hoạt động nhượng quyền
thương mại . Vì vậy, họp đồng này cũng phải có những đặc điểm chung của họp đồng
được quy định ở chương VI của Bộ luật Dân sự và đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp
luật dân sự đặt ra dưới góc độ của một loại giao dịch dân sự. Thêm vào đó, về cơ bản, nó
phải thể hiện được bản chất của giao dịch nhượng quyền thương mại đã được định nghĩa
tại Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 * (4).

1.2

Sự hình thành và phát triển pháp luật NQTM

Trên thế giới, nhượng quyền thương mại đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVIII,

XIX ở châu Âu và Mỹ. Tại Việt Nam, nhượng quyền thương mại mới du nhập vào từ
(4) Vũ Đặng Hải Yến, Một sổ vấn đề pháp lý về chủ thể hợp đồng NQTM, Tạp chí Nghiên cứu
lập 2008.
pháp số
4 năm


1.2.1 Trước ngày 01 tháng 01 năm 2006
Đây là giai đoạn mà các quy định về nhượng quyền thưong mại chưa được luật
hóa. Các quy định sơ lược và hạn chế về nhượng quyền thưong mại được thể hiện trong
một số vãn bản dưới luật như:
Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 của Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7/1998 của
Chính phủ quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ. Tại Thông tư này, theo Mục 4 về
“quản lý chuyển giao công nghệ” thì việc phân cấp phê duyệt họp đồng quy định tại Điều
32 Nghị định 45/1998 được hiểu như sau: “Các Hợp đồng với nội dung cấp lì xăng sử
dụng nhãn hiệu hàng hóa kèm theo các bỉ quyết sản xuất, kinh doanh được chuyển giao
từ nước ngoài vào Việt Nam có giá trị thanh toán cho một Hợp đồng trên 30.000 USD
(Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh - tiếng Anh gọi là franchiseỴ\ Như vậy, bằng
quy định này pháp luật Việt Nam đã đề cập đến việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh
trong quan hệ nhượng quyền thương mại.(5)

Tiếp đó, tại khoản 6, Điều 4, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngàỵ 02/2/2005 của
Chính phủ Quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ (thay thế Nghị định số
45/1998/NĐ-CP) có quy định về nội dung chuyển giao công nghệ như sau: “Cấp phép
đặc quyền kinh doanh, theo đó Bên nhận sử dụng tên thưcmg mại, nhãn hiệu hàng hoá và
bỉ quyết của Bên giao để tiến hành hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ thương
mại. Thời hạn Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh do hai Bên thoả thuận theo quy
định của pháp luật. ”
Điều 755 của Bộ luật dân sự năm 2005 cũng quy định rằng hành vi cấp phép đặc

quyền kinh doanh là một trong các đối tượng chuyển giao công nghệ.
Đồng thời, theo Thông tư số 30/2005/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ
ngày 30/12/2005 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 1 l/2005/NĐ-CP ngày
02/2/2005 thì ở phần giải thích từ ngữ, tại khoản 5, Phần I của Thông tư nêu: “Cấp phép
đặc quyền kinh doanh còn gọi là Nhượng quyền thương mại trong Luật Thương mại
(franchise). ”
Ở nước ta, trước ngày 01/01/2006, khái niệm nhượng quyền thương mại đã được
đề cập đến nhưng chưa có quy định chi tiết và rõ ràng. Hoạt động nhượng quyền thương
mại được xem là nội dung của chuyển giao công nghệ và được điều chỉnh bởi các quy
định của pháp luật chuyển giao công nghệ. Điều này đã tạo nên những rào càn bó buộc
hoạt động này trên thị trường Việt Nam.

1.2.2 Sau ngày 01 tháng 01 năm 2006
Đây là giai đoạn khái niệm về nhượng quyền thương mại đã được luật hóa. Luật
thương mại năm 2005 đã dành hẳn Mục 8, Chương VII quy định riêng về “nhượng quyền
(5) Hoàng Thị Thanh Nguyệt, Tìm hiểu khái niệm NQTM Theo quy định của pháp luật
Việt
Nam,
BẢN TIN KHOA HỌC, CAO ĐẲNG THƯONG MẠI - SỐ 13 (QUÝ 1/2011)


thương mại”. Các vấn đề pháp lý đặt ra ở Luật thương mại năm 2005 cũng được quy định
chi tiết tại Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết
về hoạt động nhượng quyền thương mại và được hướng dẫn tại Thông tư số 09/2006/TTBTM ngày 25/5/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn về nhượng quyền thương mại. Điều
284 Luật thương mại nêu khái niệm nhượng quyền thương mại như sau: “Nhượng quyền
thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên
nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bản hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều
kiện sau đây: 1. Việc mua bán hàng hoả, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức
tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hoả,
tên thương mại, bi quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh,

quảng cáo của bên nhượng quyền; 2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp
cho bên nhận quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh. ”
Như vậy, đến nay pháp luật nước ta đã quy định nội dung khái niệm “nhượng
quyền thương mại” bằng vãn bản luật, đồng thời các quy định điều chỉnh hoạt động
nhượng quyền thương mại cũng đã được ban hành khá đầy đủ. Đây là điều kiện rất cần
thiết để nhà nước quản lý hoạt động này.

1.3 Phân biệt NQTM vói một sổ phương thức kỉnh doanh khác
1.3.1. NQTM và lisence đổi tượng SHTT
Lisence đối tượng sở hữu trí tuệ là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ (hoặc
người được chủ sở hữu đối tượng SHTT chuyển giao độc quyền quyền sử dụng đối tượng
SHTT) chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng đối tượng SHTT của mình cho
cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, qua đó bên chuyển giao lisence SHTT thu được
một khoản tiền.
Có thể thấy NQTM và lisence giống nhau ở điểm cả hai đều có hoạt động chuyển
giao quyền sử dụng các đối tượng SHTT, tuy nhiên đây là hai hoạt động kinh doanh hoàn
toàn khác nhau, mà dựa vào một số tiêu chí sau ta có thể phân biệt chúng:
Thứ nhất, đối tượng họp đồng NQTM rộng hơn so với họp đồng lisence, ngoài các


Thứ hai, bên nhận chuyển giao lisence ngoài việc sử dụng đối tượng SHTT của
bên chuyển giao thì không còn mối quan hệ nào với chủ thể giao lisence. Ngược lại, trong
hợp đồng NQTM mối quan hệ giữa các chủ thể rất chặt chẽ, bên nhận quyền phải tuân
theo các quy định tiêu chuẩn kỹ thuật do bên nhượng quyền đặt ra đồng thời phải chịu sự
kiểm soát của bên nhượng quyền. Đổi lại, bên nhượng quyền có nghĩa vụ giúp đỡ, hỗ trợ
cho bên nhận quyền trong suốt thời hạn có hiệu lực của họp đồng.
Thứ ba, về vấn đề phí: phí trong họp đồng lisence là phí trả cho từng đối tượng
lisence cụ thể, còn phí trong hợp đồng NQTM chính là khoản tiền trả cho việc sử dụng
tổng họp mọi quyền SHTT được giao bởi bên nhượng quyền.
Điểm khác biệt nữa là trong hợp đồng NQTM bên nhượng quyền cho phép bên

nhận quyền được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh theo những cách thức của
bên nhượng quyền để sản xuất, kinh doanh. Nhưng với hợp đồng lisence bên nhận chuyển
giao chỉ được quyền sử dụng các đối tượng SHTT để tiến hành kinh doanh và không nhận
được bất kỳ sự trợ giúp nào từ bên chuyển giao lisence.

1.3.2. NQTM và chuyển giao công nghệ
Chuyển giao công nghệ là việc chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một
phần hoặc toàn bộ công nghê từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công
nghệ. Như vậy giữa NQTM và CGCN có đặc điểm chung chính là ở nội dung chuyển
giao quy trình kỹ thuật và bí quyết kinh doanh, vì thế giữa hai phương thức này nhiều khi
vẫn có sự nhầm lẫn, Tuy nhiên đây là hai hình thức kinh doanh khác nhau về bản chất,
trong chuyển giao công nghệ, bên có quyển chuyển giao có thể chuyển giao quyền sở hữu
hoặc quyền sử dụng công nghệ, nhưng trong họp đồng NQTM, đối tượng chuyển giao chỉ
có thể là quyền sử dụng các đối tượng sở hữu hí tuệ. Mặt khác, khi tham gia quan hệ
chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao chỉ nhằm mục đích ứng dụng nó vào quá
trình sản xuất để tăng năng suất, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm; còn mục đích tham
gia quan hệ nhượng quyền của bên nhận quyền là việc tìm kiếm lợi nhuận bằng cách khai
thác giá trị thương hiệu đã thành công của bên nhượng quyền.
Sau khi được chuyển giao công nghệ, bên nhận chuyển giao có thể sử dụng theo
bất kỳ tên thương mại, kiểu dáng, thương hiệu nào mà họ muốn. Ngược lại, bên nhận
quyền chỉ được sử dụng công nghệ mà mình nhận được để sản xuất hàng hoá và cung ứng


các loại dịch vụ có cùng chất lượng, hình thức, dưới nhãn hiệu hàng hoá, tên thưong mại
của bên nhượng quyền.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các chủ thể trong hai hình thức kinh doanh này cũng
khác nhau. Neu như trong hợp đồng chuyển giao công nghệ, giữa các bên không có quan
hệ gì sau khi công nghệ được chuyển giao thì ngược lại, quan hệ giữa các chủ thể trong
hợp đồng NQTM rất chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau.


1.3.3. NQTM và Đại lỷ thương mại
Đại lý thương mại là hoạt đông thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý
thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá, hoặc cung ứng dịch
vụ của bên giao đại lý để hưởng thù lao.
về hình thức, NQTM và đại lý thương mại đều là việc cùng phân phối hàng hoá,
dịch vụ ữên thương hiệu doanh nghiệp khác, tuy nhiên về bản chất thì NQTM và đại lý
thương mại tương đối khác nhau:
Thứ nhất, bên nhận quyền trong quan hệ NQTM là một pháp nhân độc lập, tiến
hành phân phối hàng hoá, dịch vụ cho chính mìnhvà tự hạch toán tài chính trong hoạt
động kinh doanh của mình. Còn bên nhận đại lý trong đại lý thương mại chỉ là đại diện
của doanh nghiệp trong việc phân phối, cung ứng dịch vụ theo mức giá quy định của
doanh nghiệp đó, bên nhận đại lý sẽ nhận được khoản hoa hồng từ phía doanh nghiệp tính
trên doanh số bán được của đại lý đó
Thứ hai, trong quan hệ đại lý thương mại bên nhận đại lý không phải trả khoản phí
nào cho doanh nghiệp khi trở thành đại lý của doanh nghiệp, không chỉ vậy, trong suốt
quá trình kinh doanh, bên nhận đại lý còn được hưởng thù lao do bên giao đại lý trả (gọi
là hoa hồng) cho hoạt động kinh doanh của mình. Ngược lại, bên nhận quyền trong
NQTM muốn than gia vào mạng lưới nhượng quyền phải trả cho bên nhượng quyền
khoản phí ban đầu để mua "quyền thương mại", đồng thời trong suốt qúa trình kinh
doanh, bên nhận quyền còn phải đóng các khoản phí hàng tháng để tiếp tục duy trì sử
dụng các đối tượng SHTT.
Một điểm phân biệt khá quan trọng giữa NQTM và đại lý thương mại chính là
cách bài trí cửa hàng. Đối với các cửa hàng nhượng quyền bên nhận quyền bắt buộc phải
bố trí thiết kể cửa hàng theo đúng quy định của bên nhượng quyền. Nhưng với các cửa


hàng đại lý, bên nhận đại lý được toàn quyền quyết định việc bài trí cửa hàng, không chịu
bất kỳ sức ép nào từ bên giao đại lý.

1.4 Vai trò và ý nghĩa của NQTM

Hoạt động NQTM ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới là một
thực tế cho thấy đó là mô hình kinh doanh rất thành công và được các thương nhân lựa
chọn. Đây là phương thức kinh doanh không chỉ mang lại lợi ích cho các bên tham gia mà
còn có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế quốc gia cũng như thế giới.

1.4.1. Đổi với bên nhượng quyền
Lợi ích đầu tiên mà bên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh NQTM là nhân
rộng mô hình kinh doanh mà không cần bỏ ra nhiều chi phí. Đây là điều mà bất kì thương
nhân nào cũng mong muốn bởi lẽ khi mô hình kinh doanh được nhân rộng đồng nghĩa với
thương hiệu của mình sẽ mạnh lên, có chỗ đứng trên thị trường và tăng khả năng cạnh
hanh với các thương hiệu khác. Đối với một thương nhân không kinh doanh theo mô hình
NQTM thì điều này rất khó khăn bởi chủ thương hiệu sẽ phải tự bỏ ra các khoản chi phí
để xây dựng hệ thống cửa hàng của mình, phải tìm hiểu phong tục tập quán địa phương
nơi mình định đặt cửa hàng để có hướng kinh doanh phù họp, phải tổ chức quản lí một
cách đồng bộ hệ thống kinh doanh nhượng quyền. Tuy nhiên với những thương nhân
kinh doanh NQTM thì những vấn đề trên không còn là trở ngại, đây chính là lợi ích lớn
nhất mà nên nhượng quyền nhận được khi kinh doanh theo phương thức này.
Khi thực hiện NQTM bên nhượng quyền sẽ nhận được các khoản phí từ bên nhận
quyền, các khoản phí này bao gồm phí nhượng quyền ban đầu, phí hàng tháng và các loại
phí khác, đây là một nguồn thu rất lớn đối với bên nhượng quyền, thương hiệu càng mạnh
thì các khoản phí này càng cao. Như vậy, ngoài doanh thu từ hoạt động kinh doanh của
mình bên nhượng quyền còn được hưởng một khoản tiền lớn mà chỉ khi kinh doanh
NQTM mới có, hay nói cách khác kinh doanh NQTM giúp bên nhượng quyền tăng doanh
thu của mình một cách đáng kể.
Lợi ích tiếp theo mà bên nhượng quyền nhận được chính là việc tiết giảm các chi
phí như phí quảng cáo, tiếp thị, các khoán chi mua nguyên liệu đặc thù. Đối với các
nguyên liệu đặc thù bên nhận quyền phải mua với số lượng lớn để phân phối cho cả hệ
thống cửa hàng nhượng quyền của mình, với số lượng lớn như vậy bên nhượng quyền sẽ



mua được nguyên liệu với giá thấp hơn so với giá thông thường của hàng hóa đó. Các chi
phí về quảng cáo, tiếp thị cũng được tiết giảm nhờ ưu thế chia nhỏ ra cho nhiều đơn vị
cùng mang một nhãn hiệu chia sẻ với nhau thông qua phí hàng tháng của bên nhận quyền.

1.4.2. Đối với bên nhận quyền
Theo con số thống kê ở Mỹ, trung bình chỉ có khoảng 23% doanh nghiệp nhỏ kinh
doanh độc lập có thể tồn tại sau 5 năm kinh doanh, trong khi đó con số này là 92% đối với
các danh nghiệp kinh doanh NQTM. Điều đó cho thấy tỷ lệ thành công của mô hình kinh
doanh này cao hơn nhiều so với các mô bình khác. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi bên nhận
quyền sản xuất, phân phối hàng hoá và cung ứng dịch vụ dưới nhãn hiệu, thương hiệu của
bên nhượng quyền - thường là những thương hiệu lớn và có sức cạnh tranh trên thị
trường. Bên nhận quyền chỉ cần bỏ ra một khoản tiền và đáp ứng các điều kiện của bên
nhượng quyền là có thể kinh doanh mà không phải tự xây dựng và phát hiển thương hiệu.
Đây có thể được coi là khoản đầu tư an toàn và khôn ngoan của bên nhận quyền vì khi
kinh doanh dưới thương hiệu mạnh thì vấn đề hồi vốn và thu lợi nhuận chỉ trong thời gian
ngắn. Một thí nghiệm nhỏ sau sẽ cho thấy sức mạnh của thương hiệu trên thị trường lớn
như thế nào: Người ta bỏ bơ, lạc dở và rẻ tiền vào lọ của thương hiệu mạnh và bỏ bơ, lạc
ngon, đắt tiền vào lọ chưa có thương hiệu gì cho người tiêu dùng ăn thử, kết quả là đa số
mọi người cho rằng bơ lạc dở, rẻ tiền đựng trong lọ có thương hiệu nổi tiếng ngon hơn .
Điều này chứng minh sức mạnh của thương hiệu trong quyết định mua hàng của khách
hàng, hay nói cách khác, khi mua ữanchise của một sản phẩm đã có thương hiệu thì khá
an tâm vì coi như họ đã chắc chắn có một lượng khách hàng nhất định.
Khi kinh doanh NQTM bên nhận quyền sẽ giảm thiểu được nhiều rủi ro trong kinh
doanh. Bên nhận quyền sẽ nhận được sự giúp đỡ từ bên nhượng quyền không chỉ trước
trước mà cả sau khi cửa hàng nhượng quyền được khai trương về các vấn đề như quảng
cáo, tiếp thị, đào tạo nhân viên. Mặt khác các thương hiệu được chuyển nhượng thường
đã được bảo hộ sẵn, như vậy bên nhận quyền không phải mất phí bảo hộ (một khoản phí
không nhỏ) như các thương nhân kinh doanh độc lập khác và cũng không lo bị khiếu kiện
liên quan đến vấn đề bảo hộ. Không chỉ vậy, bên nhận quyền còn được học hỏi kinh
nghiệm quản lý, được tiếp nhận các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến từ bên nhượng



quyền. So với các thưomg nhân kinh doanh độc lập thì đây là những nguồn lợi rất lớn của
thuong nhân kinh doanh NQTM.

1.4.3. Đổi với nền kinh tế
NQTM là phuơng thức kinh doanh không chỉ có ý nghĩa đối với các bên chủ thể
mà còn tác động rất lớn đến nền kinh tế. Ngay từ khi hình thành, NQTM đã chứng minh
vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn thu cho nền kinh
tế, thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới.
Albert Kong - diễn giả quốc tế về NQTM trong một cuộc hội thảo đã ví NQTM
như là hình thức “nhân bản vô tính” trong kinh doanh, cách so sánh này xuất phát từ đặc
tính nổi bật của mô hình kinh doanh NQTM là sự đồng bộ. Chính đặc điểm này làm cho
NQTM trở thành phương thức kinh doanh có lợi cho người tiêu dùng. Thông qua NQTM
khách hàng có thể tiếp cận một cách dễ dàng, nhanh chóng những sản phẩm chính hãng
của các thương hiệu nổi tiếng kháp mọi nơi trên thế giới, người tiêu dùng có thể yên tâm
sử dụng tiền của mình vào các sản phẩm này mà không lo sợ mua phải hàng nhái, hàng
giả và hàng kém chất lượng.
Đối với các thương nhân lần đầu tiên kinh doanh, NQTM là một cách học rất hay
và thiết thực. Thông qua cửa hàng nhượng quyền, doanh nghiệp mới vào nghề có cơ hội
học hỏi kinh nghiệm điều hành từ một hệ thống bài bản và đã được chứng minh thành
công của chủ thương hiệu. Sau khi được trang bị kiến thức và khả năng thực tế, bên nhận
quyền sẽ tự tin hơn nếu muốn bắt đầu xây dựng mô hình kinh doanh mới, xã hội và nền
kinh tế nói chung sẽ bớt thiệt hại gây ra bởi những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do thiếu
kinh nghiệm.
Mặt khác, NQTM sẽ làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn, từ
đó có sự giao lưu giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới về cả kinh tế, vãn hoá và
chính trị. Vì vậy có thể nói NQTM là một trong các phương thức giúp thúc đẩy quá trình
hội nhập toàn cầu.
Với những ý nghĩa to lớn như vậy, NQTM đang là phương thức kinh doanh được

các doanh nghiệp tin tưởng và lựa chọn, không những thế, nó cũng là mô hình kinh doanh
được các quốc gia trên thế giới đánh giá cao trong việc đưa nền kinh tế phát triển và hội
nhập với kinh tể thể giới.


1.5 Pháp luật về họp đồng Nhượng quyền thương mại một sổ nước trên thế giới
1.5.1 Pháp luật Mỹ về họp đồng NQTM
Hoạt động NQTM ở Mỹ được điều chỉnh bởi Quy chế về công bố thông tin, các
điều cấm trong NQTM và các cơ hội kinh doanh NQTM của ủy ban thương mại liên bang
Hoa Kỳ năm 1979. Quy chế này quy định các thông tin bắt buộc mà bên nhượng quyền
phải cung cấp cho bên nhận quyền thông qua tài liệu công bố (UFOC-Uniform Franchise
Oííering Circular). Một tài liệu UFOC chuẩn tại Mỹ có 23 hạng mục thông tin cập nhật
nhất về bên nhượng quyền và gần như tất cả điều kiện chính của một hợp đồng NQTM,
bên nhận quyền sẽ rà soát từng hạng mục và sau đó góp ý xem hạng mục nào nên hay có
thể chỉnh sửa. Đi kèm tài liệu UFOC thường có đính kèm một bản hợp đồng mẫu cho các
bên tham khảo, tài liệu UFOC thường chỉ ra hạng mục chi tiết mà bên nhượng quyền phải
công bố cho các bên dự định nhận quyền và phải được trao cho bên nhận quyền trước khi
hợp đồng. Pháp luật Mỹ quy định bên nhượng quyền bắt buộc phải cung cấp tài liệu
UFOC cho bên dự định nhận quyền ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên hoặc chậm nhất là 10
ngày trước khi ký họp đồng hay trả phí nhượng quyền. Nếu việc này không được thực
hiện đúng, bên nhượng quyền có nguy cơ bị khiếu kiện bởi đối tác mua ữachise của mình.

1.5.2 Pháp luật Trung Quốc về họp đồng NQTM
Ngày 14/10/1997 Bộ Nội Thương Trung Quốc thông qua Thông tư công bố các
biện pháp quản lý hoạt động NQTM. Thông tư quy định cụ thể các vấn đề có liên quan
đến họp đồng NQTM như:
Điều kiện trở thành chủ thể của họp đồng
Quyền và nghĩa vụ các bên tham gia ký kết họp đồng
Yêu cầu công bố thôngtin trước khi ký họp đồng
Nội dung họp đồng

Các hình thức thanh toán phí nhượng quyền
Ngoài ra Thông tư còn quy định một số vấn đề khác như việc giải quyết tranh chấp; vấn
đề công bố thông tin về vấn đề giải quyết tranh chấp, các bên sẽ được giải quyết theo cơ
chế đã thỏa thuận trong họp đồng.

1.5.3 Pháp luật Đức về hợp đồng NQTM
Mặc dù Hiệp hội NQTM của nước Đức đã đưa ra một khái niệm chính thức về
hoạt động NQTM, nhưng pháp luật thương mại của nước này lại không đề cập đến khái
niệm hợp đồng NQTM với tư cách là một loại họp đồng đặc thù. Theo quan niệm của


×