Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nội dung và tác động của chính sách tiền tệ đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.86 KB, 10 trang )

A.

MỞ ĐẦU

Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, kinh tế đã và đang chứng tỏ vai trò vô cung
quan trọng của nó trong tiến trình phát triển của xã hội loài người từ sự hình
thành và thay thế các kiểu nhà nước đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy
nhiên nền kinh tế cũng vận động và phát triển theo những quy luật nhất định, hình
thái kinh tế sau bao giờ cũng tiến bộ và hiệu quả hơn hình thái kinh tế trước, và
hiện nay, trong tiến trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, kinh tế thị trường
là một điều tất yếu. Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của nhà nước. Mặc dù nền kinh tế thị
trường có khả năng tự điều tiết khá tốt nhưng vẫn không tránh khỏi những khuyết
tật của thị trường, chính vì vậy nhà nước luôn có sự điều tiết với nền kinh tế bằng
nhiều biện pháp khác nhau và một trong số đó là chính sách tiền tệ. Chính sách
tiền tệ tác động khá linh hoạt vào nền kinh tế, vừa đảm bảo tính tự do của thị
trường vừa đảm sự can thiệp kịp thời và hiệu quả của nhà nước và đặc biệt trong
giai đoạn khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, để Việt Nam có thể là 1 trong
những điểm sáng hiếm hoi trong thời kì suy thoái không thể không kể đến tác
động của chính sách tiền tệ trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn
2011-2013.
B.
1.

NỘI DUNG

Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Theo Điều 3, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010: “Chính sách
tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện
bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện


mục tiêu đề ra.”. Thực chất, chính sách tiền tệ là sự cụ thể hóa những biện pháp
nhằm tác động vào mức cung tiền của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất
trên thị trường và thông qua lãi suất, chính sách tiền tệ tác động đến tổng cầu và
sản lượng của nền kinh tế để từng bước thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô được
đặt ra trong từng thời kì, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng
Nhà nước điều chỉnh mức cung tiền và lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau
được quy định tại Điều 10 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam như tái cấp vốn,
1


tỉ giá hối đoái, quy định các loại lãi suất, … nhưng trong đó nghiệp vụ thị trường
“mở”, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và lãi suất chiết khấu là 3 công cụ chủ yếu. Bằng công
cụ nghiệp cụ thị trường “mở”, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp tác động vào lượng
tiền cơ sở bằng việc “mua, bán giấy tờ có giá đối với tổ chức tín dụng” (chứng
khoán) nhằm tác động vào lượng tiền cơ sở và từ đó điều chỉnh mức cung tiền;
nếu Ngân hàng Nhà nước mua chứng khoán thì mức cung tiền sẽ tăng và ngược
lại. Thông qua tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước tác động vào số nhân
tiền trong nền kinh tế, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng thì mức tiền dự trữ bắt buộc
tăng làm số nhân tiền giảm xuống và ngược lại. Và nhờ vào việc điều chỉnh mức
lãi suất chiết khấu (mức lãi suất mà ngân hàng thương mại phải trả cho các khoản
tiền vay từ Ngân hàng Nhà nước để bù đắp thiếu hụt dự trữ), Ngân hàng Nhà
nước tác động vào mức cung tiền của nên kinh tế theo quy luật, khi lãi suất chiết
khấu tăng thì các ngha thương mại sẽ dự trữ nhiều tiền hơn làm mức cung tiền
trên thị trường giảm xuống và ngược lại. Có thể thấy, bằng 3 công cụ chủ yếu
trên, Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng linh hoạt để điều chỉnh mức cung tiền
trong nền kinh tế ngay lập tức bằng nghiệp cụ thị trường mở nhưng cũng có thể
điều chỉnh một cách từ từ, dài hạn thông qua việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
và lãi suất chiết khấu.
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước, chính sách tiền tệ
là 1 trong những công cụ quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu

thông tiền tệ nhằm mục đích ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo
thêm việc làm trong xã hội. Chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ với các
chính sách kinh tế vĩ mô khác mà đặc biệt là chính sách tài khóa.
Chính sách tiền tệ gồm hai loại là chính sách tiền tệ mở rộng và chính sách
tiền tệ thắt chặt. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng quá cao, lạm phát có nguy
cơ bùng nổ, Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm
giảm bớt mức cung tiền trong nền kinh tế, tăng lãi suất trên thị trường và từ đó
thu hẹp tổng cầu, giảm mức giá chung. Khi nền kinh tế suy thoái hoặc có mức
tăng trưởng quá thấp thì Ngân hàng Nhà nước sẽ áp dụng chính sách tiền tệ mở

2


rộng làm tăng mức cung tiền trong nền kinh tế, giảm lãi suất và qua đó tăng tổng
cầu, tăng thu nhập và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
2. Chính sách tiền tệ và việc thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam
hiện nay.
2.1. Nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2013 và các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
2.1.1.

Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Kinh tế vĩ mô là các vấn đề bao trùm toàn bộ nền kinh tế như sản lượng

quốc gia, tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, tổng cung, tổng cầu, các
chính sách kinh tế quốc gia, thương mại quốc tế, …
Các mục tiêu kinh tế vĩ mô bao gồm:
-

Sản lượng: Nhà nước luôn đặt ra mục tiêu tăng sản lượng thực tế bởi đạt
mục tiêu về sản lượng thực tế nghĩa là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng


-

cao và vững chắc.
Việc làm: Nhà nước đặt mục tiêu tạo ra nhiều việc làm nhằm hạ thấp tỉ

-

lệ thất nghiệp.
Ổn định giá cả: Mục tiêu được đặt ra nhằm duy trì và ổn định nức giá
chung của hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, trên thực tế, giá cả chịu tác
động cảu nhiều yếu tố phức tạp nên thực chất ổn định giá cả là hạ thấp

-

và kiểm soát lạm phát.
Ổn định tỷ giá hối đoái và cân bằng cán cân thanh toán: nhằm giữ vững
giá trị của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ, ổn định và tăng cường hoạt

-

động thương mại và đầu tư quốc tế.
Phân phối công bằng: mục tiêu nhằm giảm bớt chênh lệch về thu nhập
và mức sống giữa các tầng lớp dân cư nhưng vẫn duy trì sự chênh lệch

trong giới hạn tạo động lực phát triển kinh tế.
Khi thực hiện được cùng lúc năm mục tiêu nói trên thì đó là thái lí tưởng
của nền kinh tế. Việc thực hiện các mục tiêu là bổ sung cho nhau, mục tiêu về sản
lượng thường được đặt lên hàng đầu, tuy nhiên, cũng có trường hợp xuất hiện
mâu thuẫn trong việc thực hiện các mục tiêu buộc phải có sự ưu tiên thậm chí là

hi sinh một số mục tiêu trong ngắn hạn.
2.1.2.
Nền kinh tế Việt Nam và các mục tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 20112013
3


Trải qua thời kì khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế thế giới có những bước
phục hồi rõ rệt vào các tháng đầu năm 2010, tuy nhiên đến quý II, cuộc khủng
hoảng nợ công bắt đầu và đến nay vẫn chưa hạ nhiệt. Từ năm 2011 đến nay, giá
cả hàng hóa liên tục tăng, giá dầu và giá vàng không ngừng lập các kỉ lục mới
trong khi đồng USD mất giá khiến giá cả các loại hàng hóa nhập khẩu cao hơn.
Trước bối cảnh nền kinh tế thế giới không mấy khả quan, nền kinh tế Việt Nam
vẫn tăng trưởng đều đặn qua các năm với mức tăng trưởng GDP ổn định (tổng sản
phẩm quốc nội qua 3 năm 2010-2012 tăng lần lượt là 6,78%; 5,89%) cùng với sự
hội nhập ngày càng sâu rộng và có hiệu quả. Việt Nam bước vào giai đoạn 20112013 trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đối mặt với nhiều thách thức to lớn
trong khi tốc độ tăng trưởng chưa cao và sức cạnh tranh yếu.Năm 2011, giá cả
trong nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng do nhiều nguyên nhân nội tại
của nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-2010 đã làm tăng nguy
cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI) tháng 10-2011 đã xác định
giai đoạn 2011-2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình
tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Đó là các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nước ta
những năm gần đây và được cụ thể hóa trong các nghị quyết của Chính phủ (Nghị
quyết số 01/2011/NĐ-CP, số 11/2011/NĐ-CP, số 01/2012/NĐ-CP).
2.2.

Nội dung và tác động của chính sách tiền tệ trong việc thực hiện mục
tiêu kinh tế vĩ mô ở Việt Nam hiện nay.

Theo luật Ngân hàng Nhà nước 2010, thì mục tiêu cao nhất, mục tiêu cuối

cùng của chính sách tiền tệ của Việt Nam hiện nay là: Ổn định giá trị đồng tiền
biểu hiện bằng chỉ số lạm phát. Đây là sự đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của
chính sách tiền tệ ở Việt Nam, theo hướng chính sách tiền tệ đơn mục tiêu, phù
hợp với các chuẩn mực quốc tế. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước
ta đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt làm giảm mức cung tiền trong nền
kinh tế, tăng lãi suất trên thị trường, qua đó thu hẹp tổng cầu, làm giảm mức giá
4


chung. Để thực hiện mục tiêu đó, Ngân hàng Nhà nước có thể sử dụng các biện
pháp như: bán chứng khoán ra thị trường (nghiệp vụ thị trường mở), tăng mức dự
trữ bắt buộc, tăng lãi suất chiết khấu, kiểm soát khắt khe với các hoạt động tín
dụng, … Sở dĩ Nhà nước ta chủ trương thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bởi
trước tình hình diễn biến phức tạp và không nhiều hứa hẹn của nền kinh tế thế
giới, Nhà nước ta chủ trương phát triển chậm nhưng chắc, tăng trưởng kinh tế ở
mức hợp lí, ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát phòng ngừa nguy cơ khủng
hoảng với những bước tiến thận trọng.
Nhằm thu hẹp mức cung tiền bằng nghiệp vụ thị trường “mở”, Sở Giao
dịch chứng khoán Hà Nội đã tổ chức nhiều phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ
như phiên đấu thầu vào ngày 22/4/2013 thu được 4.500 tỷ đồng và tính từ đầu
năm 2013 đến thời điểm đó, tổng số tiền được huy động thành công thông qua
hoạt động này là 61.474 tỷ đồng; năm 2012 huy động thành công 156.544 tỷ
đồng. Có thể thấy, hoạt động này đã có hiệu quả khá tốt khi làm giảm đáng kể
mức cung tiền trên thị trường một cách trực tiếp và nhanh chóng. Bên cạnh đó,
Ngân hàng Nhà nước cũng tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng như
các lần tăng vào tháng 5 (2%), tháng 6 và tháng 8 (1%) năm 2011. Tăng dự trữ
bắt buộc là một công cụ mạnh làm giảm cung tiền trên thị trường một cách đáng
kể nhưng đi kèm với đó là tăng lãi suất khiến hoạt động cho vay khó khăn dẫn

đến tăng khả năng vỡ nợ của các doanh nghiệp, hạn chế tăng trưởng kinh tế.
Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước vẫn cân nhắc kĩ trước khi sử dụng công cụ
này trong năm 2013. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã có những điều chỉnh
khá linh hoạt về lãi suất. Ngày 1/5/2011, Ngân hàng Nhà nước tăng lãi suất chiết
khấu từ 13% lên 14% và ngày 6/10/2011 đã tăng lên 15%. Tuy nhiên, tăng lãi suất
chiết khấu không phải là biện pháp thường xuyên vì để đảm bảo cho nền kinh tế
phát triển, đồng tiền có cơ hội đi vào sản xuất thì cần thiết tạo điều kiện cho
doanh nghiệp vay vốn. Chính vì vậy, Ngân hàng Nhà nước không mạnh tay trong
việc tăng lãi suất chiết khấu mà còn kết hợp với việc tăng các loại lãi suất cho
vay, giảm lãi suất tiền gửi khiến lượng cung tiền giảm, cầu về tiền tăng nhưng vẫn

5


đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Ngoài 3 công cụ chủ yếu trên, Ngân hàng
Nhà nước còn vận dụng linh hoạt các biện pháp khác như kiểm soát khắt khe đối
với hoạt động tín dụng, điều chỉnh tỷ giá hối đoái … Thực tế, các biện pháp của
Ngân hàng Nhà nước không phải luôn cùng hướng đến 1 mục tiêu duy nhất là
kiềm chế lạm phát mà có sự phối hợp hợp lí nhằm giảm tỉ lệ lạm phát nhưng
trong chừng mực nhất định vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Theo Tổng cục Thống kê, trong tỷ lệ lạm phát 11,75% năm 2010, yếu tố
tiền tệ chiếm 4,65%. Chính vì vậy, nhờ đổi mới và thực hiện hiệu quả chính sách
tiền tệ, giai đoạn 2011-2013, nhiều mục tiêu kinh tế vĩ mô đã được thực hiện một
cách ấn tượng. Tiêu biểu là chỉ số lạm phát. Theo mục tiêu đề ra trong Nghị quyết
của Quốc hội số 01 /NQ-CP ngày 03/01/2012, chỉ tiêu lạm phát được đặt ra dưới
10%. So với mục tiêu này, lạm phát năm 2012 đã được thực hiện rất tốt ở mức
6,81 %, thấp nhất từ năm 2007 tới nay, thậm chí tháng 6 và tháng 7 năm 2012,
lạm phát ở mức âm (CPI tháng 6, tháng 7 lần lượt là -0,26% và -0,29% so với
tháng trước). Trong khi đó, theo Ủy ban giám sát Tài chính Quốc gia, lạm phát
năm 2013 ở mức 6-7%. Có thể thấy, việc kiềm chế lạm phát đã tạo nền tảng thúc

đẩy kinh tế phát triển, ổn định giá cả hàng hóa qua đó ổn định đời sống xã hội,
giữ vững giá trị đồng nội tệ, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào
Việt Nam. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ thắt chặt buộc các ngân hàng thương
mại muốn tồn tại phải tái cơ cấu, dẫn đến sự tái cơ cấu của các tổ chức tín dụng
và cả nền kinh tế. Trong khi khủng hoảng nợ công, bất ổn ở châu Âu vẫn cản trở
sự tăng trưởng kinh tế của toàn cầu, suy thoái có khả năng xảy ra ở khu vực đồng
euro, thì kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá ổn định và bền vững, tuy tốc độ
không cao nhưng phù hợp mục tiêu phát triển hợp lí được đề ra (năm 2012, kinh
tế Việt Nam tăng trưởng 5,03% trong khi kinh tế thế giới tăng trưởng 3,3%). Bên
cạnh đó, mục tiêu về việc làm không được chú trọng trong thời điểm hiện nay
khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng cao tác động ngược trở lại vấn đề an sinh xã hội. Tuy
nguồn vốn FDI không bị ảnh hưởng nhiều nhưng cam kết ODA giảm (7,4 tỷ năm
2012 so với 7,9 tỷ năm 2011). Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2012 đã biến

6


chuyển theo hướng tích cực: từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010
(-1,7 tỷ USD) sang thặng dư trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư
trong các quý năm 2012 - quý I: 4,28 tỷ USD; quý II: 2,17 tỷ USD; quý III: 4,2 tỷ
USD. Đây là sự chuyển dịch vị thế quan trọng, góp phần làm tăng sức mạnh tài
chính quốc gia chống lại kỳ vọng về biến động tỷ giá, kỳ vọng lạm phát.
Những thành tựu đạt được và 1 số hạn chế xuất phát từ những nguyên nhân
sau: Do tình hình kinh tế toàn cầu với sự khủng hoảng của các nền kinh tế lớn
trong khi Việt Nam với nền kinh tế đang phát triển còn chịu nhiều tác động từ bên
ngoài, cùng với đó là những tồn tại do sai lầm trong hoạch định chính sách của
giai đoạn trước. Nền kinh tế đã có sự tái cơ cấu mạnh mẽ nhưng còn khá rải rác
và thiếu hiệu quả thực tế, những yếu kém trong nội tại nền kinh tế là: cơ cấu kinh
tế, cơ cấu đầu tư bất hợp lý và kém hiệu quả, kéo dài, tích tụ trong nhiều thời kỳ,
chậm được đổi mới. Nền kinh tế phát triển theo chiều rộng và dựa nhiều vào tăng

vốn đầu tư; công nghệ lạc hậu, năng suất thấp sức cầu trong và ngoài nước yếu,
hàng tồn kho còn ở mức cao, tăng trưởng tín dụng ngân hàng thấp, nợ xấu ngân
hàng ở mức cao. Cơ cấu ngành, lĩnh vực chậm được chuyển đổi; tình trạng gia
công kéo dài quá lâu, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, hàng hóa xuất khẩu
chủ yếu dựa vào nguyên vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài. Bên cạnh đó, việc điều
chỉnh giảm giá trị tiền nội tệ để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cũng
phần nào làm tăng giá thành sản xuất, đẩy giá bán lẻ tăng cao. Đồng thời, các
biện pháp và sự điều tiết của Nhà nước Sự mất cân đối về cán cân thương mại
cũng gây thiếu hụt ngoại tệ, tác động đến giá cả, lạm phát trong nước. Tuy nhiên,
Nhà nước ta đã có những biện pháp quyết liệt và mạnh tay trong việc thực hiện
chính sách tiền tệ khá linh hoạt, hiệu quả và đồng bộ. Đảng và Nhà nước đã nhận
diện được tình hình và vấn đề của nên kinh tế từ đó có xác định đúng mục tiêu
kinh tế vĩ mô, đồng thời có những hoạch định, chính sách phù hợp với tình hình
thực tế.
2.3.

Đề xuất một số giải pháp.

7


- Hoạch định mục tiêu kiểm soát lạm phát trong cả thời kỳ trung và dài
hạn, chia ra từng năm, theo một lộ trình phù hợp với quá trình tái cơ cấu và đổi
mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
- Kiểm soát chặt chẽ các yếu tố gây nên áp lực tăng tổng cầu quá mức,
ngăn ngừa tái lập nguy cơ lạm phát tiền tệ từ kênh tín dụng, tài khóa và
cung tiền. Cần kiểm soát được các yếu tố gây nên “lạm phát chi phí đẩy” và tránh
nóng vội trong giải quyết mục tiêu ngắn mà cấn quan tâm tầm nhìn trung, dài hạn,
phù hợp với lộ trình điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, điều chỉnh các loại giá hàng hóa và dịch vụ do nhà nước quản lý giá sang cơ

chế thị trường, nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện hiệu quả quản lý đầu tư công .
- Đối với những ngành kinh tế chưa đạt đến mức sản lượng tiềm năng, thì
việc kích cầu là một chính sách có hiệu quả, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Cần xác định rõ mức độ ưu tiên các mục tiêu:kiểm soát lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng, tránh sự thiếu đồng bộ giữa các giải pháp.
C. KẾT

LUẬN

Hiện nay, khi tình hình kinh tế thế giới không mấy sáng sủa, lạm phát có
nguy cơ quay lại thì nền kinh tế Việt Nam ngày càng đứng trước nhiều khó khăn
và thử thách, đòi hỏi Nhà nước phải có những biện pháp thực sự hiệu quả trong
ngắn và dài hạn. Chính sách tiền tệ cũng vậy. Dù vẫn tồn tại nhiều hạn chế nhưng
không thể phủ nhận những thành tích mà Ngân hàng Nhà nước đã đạt được trong
việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô nhờ công cụ chính sách tiền tệ. Mong
rằng, trong thời gian tới, Nhà nước sẽ khắc phục được những hạn chế còn tồn tại
và có sự phối hợp tốt hơn giữa chính sách tiền tệ với các biện pháp khác mà đặc
biệt là chính sách tài khóa giúp nền kinh tế khởi sắc, đủ sức đối mặt với những tác
động tiêu cực từ bên ngoài cũng như khắc phục yếu kém trong nội tại nền kinh tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010
Nhóm nghiên cứu học viện chính sách phát triển, Nhìn lại chính sách tiền tệ (2011-

2012). Gợi ý chính sách tiền tệ những năm tiếp theo.
3. Chính sách tiền tệ với việc thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế ở Việt Nam


8


Nguồn: />4. Mai Phương – Trọng Triết, Chính sách tiền tệ 2013: tiếp tục điều hành linh hoạt và
thận trọng.
Nguồn:
5.

/>
p_page_id=1&pers_id=42972397&item_id=87625601&p_details=1
Chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, thực trạng & giải pháp
Nguồn:
/>
nay-thuc-trang-giai-phap-2279/
6. ThS. Trần Thị Hồng Minh – Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia,
Năm 2013 – Dự báo lạm phát sẽ thấp?, Tạp chí Tài chính số 2/2013.
Nguồn: />
se-thap/22106.tctc
Các công cụ chính sách tiền tệ và việc vận dụng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Nguồn: />
viec-van-dung-cua-ngan-hang-nha-nuoc-viet-nam-15832/
8. TS. Nguyễn Thị Kim Thanh, Diễn biến giá cả năm 2012 và xu hướng năm 2013, Tạp
chí Hỗ trợ và phát triển.
Nguồn: />9. Phân tích tác động cảu chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát
Nguồn: />10. TS. Hạ thị Thiều Dao, Kinh tế vĩ mô Việt Nam năm 2012 và xu hướng năm 2013,
Tạp chí Tài chính.
Nguồn: />11. Chính sách tiền tệ với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát
Nguồn: />12. Chính sách tiền tệ và việc vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
Nguồn: />13. Trí An, Nhận diện những “vi-rút” gây lạm phát ở Việt Nam.
Nguồn: />

viet-nam-20130306022331460ca33.chn
Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn kủng hoảng tài chính quốc tế hiện
nay.
9


Nguồn:

/>
trong-giai-doan-khung-hoang-tai-chinh-quoc-te-hien-nay-11719/
15. Lê Mỹ, Dự báo lãi suất năm 2013.
Nguồn: />16. Hoàng Yến, Kinh tế 2012: Mừng ít, lo nhiều.
Nguồn: />kinh_te_2012_mung_it_lo_nhieu.html

10



×