Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Thị trường tài chính Việt Nam hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.23 KB, 30 trang )

1

Chúng ta đang sống trong thế kỉ 21, thế kỉ mà các hoạt động kinh tế
diễn ra rất sôi nổi. Cứ mỗi một phút trôi qua thì nền kinh tế thế giới lại có
những biến đổi mới. Và bất cứ một nước nào trên thế giới muốn phát triển thì
họ đều xây dựng cho mình một “Thị trường tài chính” để có thể ứng biến với
mọi điều bất ngờ có thể xảy ra cho nền kinh tế. Trên thế giới thì “Thị trường
tài chính đã xuất hiện từ lâu rùi nhưng ở Việt Nam thì thị trường này mới phát
triển mạnh trong thời gian gần đây thôi, nhưng nó cũng rất được sự quan tâm
của các nhà đầu tư. Chằng hạn như tờ báo Thanh niên đã từng nhận xét rằng
“Thị trường tài chính Việt Nam hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài”
(www.thanhnienonline.vn, 23:56:22, 22/11/2007).
Tuy chúng ta đã đạt được một số thành công nhưng vì thị trường tài
chính luôn biến đổi nhanh chóng với những công cụ tài chính xuất hiện hầu
như hằng ngày, cho nên thị trường tài chính ở nước ta cũng gặp một số hạn
chế. Và kể từ khi nước ta gia nhập WTO thì chúng ta càng nên phát triển thị
trường tài chính hơn nữa. Để có thể hiểu thêm về vị trí quan trọng của thị
trường tài chính ở nước ta thì chúng ta hãy cùng nghiên cứu về “Thị trường
tài chính: Thực trạng và giải pháp phát triển”


2

Chương 1: Những lý luận chung về thị trường tài
chính
1.1Khái quát chung về thị trường tài chính:
1.1.1Cơ sở hình thành thị trường tài chính: [phụ lục, 23]
1.1.2 Khái niệm thị trường tài chính:
-Trước đây hiểu theo quan niệm hẹp thì, tài chính được hiểu là
tiền của. Từ khi các loại tài sản khác nhu phiếu nợ, chúng thư bất động sản…
cũng đem ra thế chấp, mua bán, được coi như tài sản giống như tiền, của cải


nên khái niệm tài chính được hiểu theo nghĩa rộng hơn: tài chính là khái niệm
chỉ ra các loại tài sản. Nếu hiểu một cách đơn giản thị trường tài chính là nơi
diễn ra hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá, nơi gặp gỡ các nguồn cung
cầu về vốn, qua đó hình thành nên giá mua và bán các loại cổ phiếu, kì phiếu,
tín phiếu…hình thành nên giá cả các loại vốn đầu tư bao gồm: lãi suất đi vay,
lãi suất cho vay,…
BẢNG LIỆT KÊ HÀNG HOÁ VÀ XUẤT XỨ CUẢ HẢNG HOÁ TRÊN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH - CHỨNG KHOÁN [Phụ lục,25]
Tuy nhiên để tạo lập môi trường sôi động của thị trường tài chính trên thực tế
đó là sự kết hợp của nhiều yếu tố , trong đó có 3 yếu tố cơ bản là:
-Đối tượng của thị trường tài chính bao gồm: những nguồn cung
vá cầu về vốn trong xã hội các chủ thể kinh tế như nhà nước, các doanh
nghiệp, các rổ chức xã hội và các tầng lớp dân cư.
-Công cụ tham gia trên thị trường tài chính: là các loại công trái
nhà nước, các loại chúng khoán doanh nghiệp phát hành, các loại giấy tờ có
giá khác như kì phiếu…
-Chủ thể tham gia trên thị trường tài chính: pháp nhân hay thể
nhân đại diện cho những nguồn cung và cầu về vốn nhàn rỗi tham gia trên thị


3

trường tài chính, chủ yếu là các Ngân hàng thương mại, công ty tài chính,
công ty đầu tư.

1.1.3 Cơ cấu thị trường tài chính:
-Tùy theo cách thức vận dụng của mỗi nước trong việc tổ chức một
mô hình thích hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Thị trường tài chính gồm 2
bộ phận đó là: thị trường tiền tệ và thị trường vốn ( thị trường chúng khoán)
-Cơ cấu này được căn cứ vào 2 loại yếu tố sau: (MÔ HÌNH CƠ CẤU

TTTC, [PHỤ LỤC, TRANG 27])
+Thời gian sử dụng vốn vay của người đi vay và thời gian cho
vay của người tích lũy. Theo tiêu chuẩn này, người ta phân biệt 2 loại vốn:
vốn ngắn hạn, vốn dài hạn. Các nguồn vốn ngắn hạn vận động ko tập trung,
chủ yếu là các phương tiện thanh toán được quy thành đối tượng của thị
trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn vận động tập trung thành các kênh lớn
và có khối lượng lớn để đáp ứng nhu cầu vào đầu tư sản xuất kinh doanh và
được tụ lại trên các điểm giao dịch vốn lớn, được coi là đối tượng của thị
trường chứng khoán.
-Dựa vào hình thức vận động này người ta phân ra làm 2 loại: vận
động gián tiếp và vận động trực tiếp. Tương ứng với hai hình thức vận động
trên của các nguồn vốn là 2 dạng thị trường: thị trường tiền tệ chuyên môn
hóa công cụ tài chính gián tiếp và thị trường vốn chuyên môn hóa công cụ tài
chính trực tiếp.
-Như vậy, theo mô hình này thị trường tiền tệ hoạt động chủ yếu cho
vay ngắn hạn, thị trường vốn chủ yếu là đầu tư dài hạn. Ở Việt Nam để phù
hợp với chức năng quản lý kinh tế vĩ mô nhà nước, thị trường tài chính được
cơ cấu theo cấp mô hình: thị trường tiền tệ và thị trường vốn

1.1.4 Vai trò của thị trường tài chính:
-Hoạt động của thị trường tài chính mang lại lợi ích cho cả 2 chủ thể
tham gia người mua và người bán. Thị trường tài chính là nơi tạo ra môi


4

trường thuận lợi để dung hòa các lợi ích kinh tế khác nhau của các thành viên
khác nhau trên thị trường.
-Điều hòa các nguồn vốn nhàn rỗi từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn
trong nền kinh tế, góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả sử dụng vốn của

xã hội.
-Thúc đẩy, phản ánh trình độ xã hội sản xuất.
-Tạo môi trường thuận lợi để dung hóa các lợi ích kinh tế của các chủ
thể kinh tế khác trên thị trường.
-Khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh.
-Quyết định cơ cấu kinh tế, quyết định cơ cấu đầu tư vốn, đẩy nhanh
tốc độ vòng quay của vốn, góp phần làm tăng trưởng kinh tế.
-Tạo điều kiện cho sự ra đời những doanh nghiệp mới.
-Là sợi dây chuyền chuyển giao thực hiện về mặt kinh tế giữa người
sở hữu và người sử dụng vốn.

1.2 Phân loại thị trường tài chính:
1.2.1 Thị trường tiền tệ:
-Khái niệm: Thị trường tiền tệ (TTTT) là nơi mà các công cụ nợ
ngắn hạn (thường dưới 1 năm) được mua bán với số lượng lớn. Các công cụ
nợ ngắn hạn lưu hành trên TTTT thường do nhà nước, các ngân hàng, các xí
nghiệp lớn phát hành ( trái phiếu ngắn hạn, giấy có giá ngắn hạn…) có đặc
điểm tính thanh khoản cao và rủi ro không thanh toán thấp.
-Hiểu theo nghĩa đơn giản TTTT là thị trường vay và cho vay
vốn ngắn hạn, là nơi cung ứng những nhu cầu vốn ngắn hạn cho nền kinh tế.
TTTT là một bộ phận của TTTC, ra đời trong giai đoạn đầu của nền sản xuất
hàng hóa. Nhìn vào quá trình phát triển thì thị trường liên ngân hàng là hình
thức cổ điển của thị trường tiền tệ hoạt động với mục đích điều hòa, cân đối
vốn giữa các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.


5

-Xét theo chiều ngang, TTTT biểu hiện quan hệ điều tiết vốn
giữa các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Còn xét theo chiều

dọc, TTTT biểu hiện quan hệ giữa ngân hàng trung ương và ngân hàng
thương mại qua con đường tái chiết khấu, trong đó lãi suất tái chiết khấu đã
trở thành một trong những công cụ linh hoạt để ngân hàng trung ương điều
tiết vĩ mô kinh tế trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
Phân loại thị trường tiền tệ: -Nếu căn cứ vào cơ cấu tổ chức, thị trường tiền tệ
được chia làm 2 cấp :
-Thị trường tiền tệ sơ cấp chuyên phát hành các loại trái phiếu
mới của ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc..
-Thị trường thứ cấp tổ chức mua bán các trái phiếu đã phát hành
ở thị trường sơ cấp.
Nếu căn cứ vào các loại công cụ tham gia trên thị trường, thì TTTT bao gồm:
-Thị trường vay nợ ngắn hạn giữa các Tổ chức tín dụng với sự
điều hành của Ngân hàng trung ương.
-Thị trường trái phiếu ngắn hạn và thị trường các loại chúng từ
có giá ngằn hạn như: kỳ phiếu thương mại, khế ước giao hàng, tín phiếu, kỳ
phiếu….
Chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ:
-Hiểu theo nghĩa hẹp chủ thể tham gia trên TTTT là các ngân
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng
-Hiểu theo nghĩa rộng thì chủ thể tham gia trên TTTT bao gồm
chủ thể cho vay đại diện cho nguồn cung về vốn như ngân hàng trung ương,
ngân hàng thương mại….chủ thể di vay đại diện cho nguồn cầu về vố như các
doanh nghiệp, kho bạc nhà nước…

1.2.2 Thị trường vốn:
Khái niệm: Là thị trường giao dịch của các công cụ tài chính có kì hạn trên 1
năm, là thị trường cung ứng vốn đầu tư dài hạn cho nền kinh tế.


6


-Thị trường vốn bao gồm:
+Thị trường vay nợ dài hạn biểu hiện qua hoạt động của hai dạng thị
trường phổ biến là thị trường tín dụng thuê mua và thị trường vay thế chấp.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán
chứng khoán có giá.
+Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức vận động điển hình của
thị trường vốn với khối lượng giao dịch và sức thu hút mạnh mẽ đối với các
nhà đầu tư thị trường này luôn giữ vị trí chủ yếu trong kết cấu thị trường vốn
các nước. Vì vậy, người ta sẽ sử dụng thuật ngữ thị trường chứng khoán thống
nhất cho thị trường vốn.
Phân loại thị trường chứng khoán(TTCK):
-Căn cứ vào phương diện pháp lý TTCK được chia làm 2 loại
+Thị trường chứng khoán chính thức, +Thị trường chứng khoán
phi chính thức
-Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán, thị trường chứng
khoán bao gồm 2 bộ phận cấu thành:
+Thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp
-Căn cứ vào phương thức giao dịch, TTCK được chia làm 2 loại:
+Thị trường giao ngay, thị trường tương lai
-Các sản phẩm lưu hành trên TTCK:
+Cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu dài hạn kho bạc, trái
phiếu đô thị, công trái nhà nước, trái phiếu cầm cố
-Các chủ thể tham gia trên TTCK:
+Những người phát hành chứng khoán: Chính phủ Trung ương,
chính quyền địa phương, các công ty cổ phần…
+Những người trung gian: Các nhà môi giới, các nhà bán chứng
khoán…



7

+Những người điều hòa: Hội đồng chứng khoán quốc gia hay ủy
ban chứng khoán nhà nước

Chương 2: Thực trạng hoạt động của thị
trường tài chính nước ta trong thời gian qua
2.1 Thực trạng hoạt động thị trường tài chính ở
nước ta:
2.1.1Thị trường tiền tệ:
-Trước khi hình thành hệ thống 2 cấp(trước năm 1990):
Lúc đó, ở nước ta chưa hình thành thị trường liên ngân hàng, trong giai
đoạn này chỉ có duy nhất ngân hàng nhà nước Việt Nam vừa thực hiện chức
năng kinh doanh vừa quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân
hàng. Đặc điểm nổi bật tín dụng trong thời kì này là: cho vay theo kế hoạch
tập trung, không căn cứ vào nhu cầu nguồn vốn, không quan hệ vay mượn
vốn giữa các ngân hàng, mà chỉ có quan hệ chuyển vốn trong hệ thống. Hậu
quả tất yếu là lạm phát cao trong thời kì này ( do phát hành quá nhiều để cung
ứng tín dụng cho nền kinh tế).
-Vì vậy, sự ra đời hai pháp lệnh ngân hàng ( 5-1990) đã đánh dấu
sự ra đời của hệ thống ngân hàng hai cấp với việc hình thành các ngân hàng
thương mại của nhiều thành phần kinh tế như: ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng hợp tác với nước ngoài.. và Thị trường liên ngân hàng Việt
Nam ra đời theo chỉ thị số 07/ CT-NH1 ngày 7-10-1992 của Thống đốc Ngân
hàng
-Từ năm 1992-1998 để thúc đẩy việc giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng được thuận lợi, Thống đốc ngân hàng đã lần lượt ra các chỉ thị


8


cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay và đi vay lẫn nhau
(07/CT-NH1) nhưng vì chỉ thị này bộc lộ một số nhược điểm như chỉ đề cập
tới một mặt của thị trường liên ngân hàng ( chỉ thị quy định vốn cho vay được
bảo đảm bằng hình thức thế chấp hoặc cầm cố, việc quy định như vậy làm hạn
chế hoạt động của thị trường liên ngân hàng). Để thúc đẩy giao dịch trên thị
trường liên ngân hàng 21-6-1993, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban
hành Quy chế tổ chức hoạt động của thị trường liên ngân hàng kèm theo
Quyết định số 114/QD-NH14. Mục đích của quy chế này tạo điều kiện cho
các tổ chức tín dụng hiểu nhau hơn. Theo đó thì hàng tuần các tổ chức tín
dụng là thành viên của thị trường liên ngân hàng do Ngân hàng nhà nước tổ
chức cùng gặp nhau tại ngân hàng Nhà nước, để đưa ra nhu cầu vay và cho
vay của mình trên thị trường, từ đó hình thành nên lãi suất giao dịch và khối
lượng giao dịch.
Bảng số liệu giao dịch qua trung tâm thị trường liên ngân hàng
(1993-1996)

Doanh số
Trong đó NHNN

1993
VND USD

1994
VND USD

1995
VND USD

61,9


80,3
80,3

45,5
45,5

1,5
1,5

10,5
10,5

1996
VND USD

24
24

3,5
3,5

8%/

7,2%/

năm

năm


bảo lãnh
Lãi suất bình
quân

1,63%/ 5,5%/ 1,77%/ 6,0%/ 2,1%/
tháng

tháng

tháng

năm

tháng

[3, trang 198]
-Ngoài việc là trung tâm giao dịch thì Ngân hàng nhà nước còn
đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, thực hiện cho vay trực tiếp các thành
viên tại trung tâm thị trường.


9

Bảng số liệu vay vốn giữa các ngân hàng trên thị trường nội tệ liên
ngân hàng (1993-1996).
Hoạt động

1993 1994

1995


Vay Ngân hàng nhà nước 61,9
Các NHTM vay lẫn nhau 17
NHNN bão lãnh
2,0

80,3
14
12

45,5
15
15

NHNN cho vay

66,3

30,5

Vay mượn trực tiếp lẫn

44,9

10.000

1996

9.500


nhau
[3,trang 199]
-Hiện nay, tham gia là thành viên của các dạng thị trường tiền tệ
có 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng chính sách xã hội, 36 Ngân
hàng thương mại cổ phần, 4 Ngân hàng liên doanh, 27 chi nhánh Ngân hàng
nước ngoài, Qũy tín dụng TW, 900 Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, một số công
ty bảo hiểm và tái bảo hiểm, Quỹ đầu tư.... Tuy nhiên tham gia là thành viên
của thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu thầu tín phiếu Kho bạc nhà
nước, thị trường mở... thì không phải tất cả các tổ chức trên, hầu như chỉ có
các NHTM NN, NHTM cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
Ngân hàng nước ngoài, một số công ty bảo hiểm...
-Về cơ chế tác động và can thiệp trên thị trường tiền tệ, được thể
hiện tập trung ở các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân
hàng Trung ương. Theo đó, dần dần phù hợp với thông lệ quốc tế, từ tháng 62002, Ngân hàng Nhà nước chuyển sang thực hiện cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản trước đó. Hàng tháng Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản,
vẫn quy định lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; cùng với lãi suất
nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ Swap, lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc nhà nước tác động vào lãi suất thị trường, lãi suất
huy động vốn và lãi suất cho vay của các Tổ chức tín dụng.


10

-Tác động vào lãi suất còn có công cụ dự trữ bắt buộc. Khi Ngân
hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, có tác động làm tăng chi
phí đầu vào của các TCTD. Do đó hoặc là các TCTD giữ nguyên lãi suất huy
động vốn thì phải tăng lãi suất cho vay; hoặc là đồng thời vừa phải tăng lãi
suất cho vay, vừa phải tăng lãi suất huy động vốn.
-Công cụ điều hành tỷ giá cũng có tác động vào lãi suất của các
TCTD trên thị trường tiền tệ, nhưng không rõ nét.

-Với sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính, đặc biệt là
các TCTD, với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và nghiệp vụ Ngân hàng
Trung ương tiến dần tới phù hợp với thông lệ quốc tế, các Ngân hàng thương
mại và Tổ chức tín dụng được chủ động trong các hoạt động huy động vốn và
cho vay của mình, tham gia tích cực, năng động và cạnh tranh mạnh mẽ với
nhau trên thị trường tiền tệ, theo đó, nó cũng có điều kiện thúc đẩy thị trường
tiền tệ phát triển.

2.1.2 Thực trạng thị trường vốn (thị trường chứng khoán):
-Trong 7 năm qua, TTCK phát triển nhanh về qui mô; tổng mức
vốn hoá đến nay đã đạt mức 38% GDP, khoảng 22 tỷ USD, nếu kể cả trái
phiếu đạt mức 46% GDP. Hệ thống tổ chức trung gian cũng đã hình thành và
phát triển, cho đến nay đã có 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ,
6 ngân hàng hoạt động lưu ký chứng khoán, 26 công ty niêm yết cổ phiếu và
một số loại trái phiếu được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lĩnh vực này, hệ thống ngân hàng tiếp tục
đóng vai trò tích cực trong phát triển thị trường chứng khoán, với 7 công ty
trong số 11 công ty kinh doanh chứng khoán đang hoạt động là trực thuộc các
ngân hàng thương mại, với đa dạng các nghiệp vụ: môi giới, tư vấn đầu tư,
lưu ký chứng khoán, cho vay thanh toán chứng khoán... Hầu hết các công ty
này đều kinh doanh có hiệu quả. Một số công ty đã tổ chức đại lý đấu thầu cổ
phiếu của một số NHTM cổ phần phát hành mới tăng thêm vốn điều lệ.


11

NHNN cũng đã ban hành quy định tạm thời về việc niêm yết cổ phiếu của
NHTM cổ phần trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Hiện nay nhiều
NHTM cổ phần đã sẵn sàng niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch
chứng khoán. Được biết hiện nay NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín đã có

đơn và hồ sơ đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho phép vấn đề này.
-Tuy chưa chính thức niêm yết giao dịch trên Trung tâm giao
dịch chứng khoán, nhưng thời gian qua, cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần
đã giao dịch đơn lẻ, không chính thức trên thị trường phi tập trung OTC.
Mệnh giá cổ phiếu của nhiều NHTM cổ phần được giao dịch cao gấp 1,1 lần
đến 2,5 lần so với mệnh giá ban đầu. Uy tín trong và ngoài nước của nhiều
ngân hàng thương mại cổ phần ngày càng tăng lên. Nhiều tổ chức tài chính
quốc tế và ngân hàng nước ngoài đã và đang mua cổ phần, chuyển giao công
nghệ ngân hàng hiện đại, hỗ trợ về tài chính cho các ngân hàng thương mại cổ
phần.
-Thủ tướng Chính phủ đã chính thức có quyết định cổ phần hóa
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Theo kế hoạch, Ngân hàng ngoại thương
Việt Nam sẽ triển khai bước đầu tiên cổ phần hóa vào đầu năm 2006. Tổng
giá trị cổ phiếu phát hành trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán để tăng
vốn điều lệ vào khoảng 1.000 tỷ đồng.
-Với khối lượng giá trị cổ phiếu lớn như vậy nếu được giao dịch
và niêm yết trên hai Trung tâm giao dịch chứng khoán, thì chứng khoán giao
dịch chủ yếu của hai Trung tâm này sẽ là cổ phiếu của Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam. Tiếp theo đó sẽ là Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng
sông Cửu Long và Ngân hàng Đầu tư-phát triển Việt Nam cũng đề nghị được
cổ phần hóa. Khi đó chắc chắn hoạt động của hai Trung tâm giao dịch chứng
khoán sẽ sôi động hẳn lên, tạo nền tảng mới cho sự phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam.


12

2.2 Thành tựu và những hạn chế cần giải quyết của thị
trường tài chính:
2.2.1 Thành tựu:

-Thứ nhất, trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách
kinh tế, TTTC Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết,
các thị trường cấu thành cơ bản của TTTC đã được hình thành và từng bước
hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành lập. Đặc
biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết lập và có những đóng góp ban đầu
trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
-Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được
cơ cấu lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch
trong chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành
mạnh hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt
là các ngân hàng thương mại (NHTM) Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được
đổi mới theo hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay
trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
-Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực
quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng
bước được thể chế hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về
quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất
là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cuối cùng, song
không kém phần quan trọng, khung pháp luật của TTTC đang ngày càng phù
hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng ngày
càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư
nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép mở rộng
phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình.


13

2.2.2 Những hạn chế cần giải quyết:
-Mẫu hình TTTC Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng hay do

ngân hàng chi phối (bank-based or bank dominated financial market), trong
khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như:
-Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các NHTM
nhà nước hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn
hệ thống ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền thống của các NHTM Nhà
nước là các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Các ngân hàng thương mại cổ
phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm
khách hàng của các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài
là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Hơn nữa, áp lực cho vay theo chỉ định của Chính phủ trên thực
tế và vấn đề “rủi ro đạo đức” vẫn tồn tại. Phần lớn các khoản vay lại được thế
chấp bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản biến động mạnh.
Các khoản vay được thế chấp chứng khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song
cũng đáng lo ngại khi năng lực của các nhà đầu tư cá nhân còn thấp và thị
trường chứng khoán (TTCK) vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về
giá cả.
-Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều
hạn chế. Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu.Quá trình giám sát từ
xa còn bất cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong
bối cảnh các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng
rãi, nhất quán. Công tác giám sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ các
định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ thống
tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các quy định
quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản có, tài sản
nợ, kiểm toán nội bộ,…mới được áp dụng, nên chưa thật sự có hiệu lực và


14


hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng chưa đáp ứng tốt các
chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL. Thị trường chứng khoán vẫn còn
ít các định chế tài chính quan trọng như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ
và chưa có các công ty định mức tín nhiệm. Các nhà bảo lãnh phát hành chủ
yếu là các NHTM Nhà nước. Các công ty chứng khoán chưa đóng vai trò nhà
tạo lập thị trường quan trọng trên thị trường, mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát
hành đối với trái phiếu chính phủ. Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung chưa có
tính chuyên nghiệp; hành vi đầu tư thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”,
gây biến động mạnh về giá và làm giảm độ tin cậy đối với thị trường, nhất là
trong bối cảnh mức độ công khai, minh bạch của thị trường chưa cao.
-Lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo được đường cong lãi
suất chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động
đầu tư trên TTTC. Cách thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu quốc gia
trên thị trường quốc tế dường như vẫn thiếu tầm nhìn, chưa thật rõ ràng về
mục tiêu dài hạn (huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng hay “bảo lãnh”
cho một số ngành hàng/dự án “chiến lược” được ưu tiên?).
-Thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ trên thực tế
chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Thị trường thứ cấp kém phát triển. Sự
tham gia đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của công chúng còn hạn chế. Hệ
thống tư pháp, các chuẩn mực về công bố thông tin và kế toán, hệ thống thanh
toán,... cần được cải thiện nhiều. Việc thiếu vắng các tổ chức định mức tín
nhiệm cũng là nguyên nhân kìm hãm thị trường.
-Có thể nói, hiện Việt Nam còn thiếu nhiều điều kiện nền tảng để
phát triển thị trường trái phiếu công ty.


15

Chương 3: Giải pháp thúc đẩy phát triển thị
trường tài chính

3.1 Định hướng mở rộng và phát triển thị trường
tài chính VN:
-Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu
trúc (bao gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công
cụ phái sinh, thị trường tập trung, thị trường phi tập trung…), vận hành theo
các thông lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực
và quốc tế.
-Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước
cho thị trường; mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có
tổ chức; phát triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ
cung cấp, … đảm bảo có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thị trường vốn phát
triển trong khu vực.
-Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá;
hài hoà giữa mục tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền
vững thị trường vốn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo
an ninh tài chính quốc gia.
-Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng
thanh tra, kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động trên thị trường.


16

3.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thị
trường tài chính:
3.2.1 Về thị trường vốn:
-Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động
vốn và đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 giá
trị vốn hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70%
GDP, đó là một trong những mục tiêu cụ thể mà Thủ tướng Chính phủ đề ra tại

Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 về việc phê duyệt Đề án phát
triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
a) Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hàng
hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường:
-Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương
thức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái
phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển
đổi của doanh nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng
trọng điểm của quốc gia;
-Đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, tổng
công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước,
gắn việc cổ phần hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc
phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những
doanh nghiệp đã cổ phần hoá đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng
thời tiến hành rà soát, thực hiện việc bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các
doanh nghiệp nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối hoặc không cần nắm
giữ cổ phần. Chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang
hình thức công ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán;
-Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như: quyền chọn
mua, quyền chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các
sản phẩm liên kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín dụng, tiết kiệm


17

- chứng khoán...); các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và các khoản
nợ....
b) Từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng
quản lý, giám sát của Nhà nước:
-Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình

thành thị trường trái phiếu chuyên biệt. Từng bước nghiên cứu hình thành và
phát triển thị trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường
chứng khoán hoá các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng…;
-Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu
cầu phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp
và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị
trường giao dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC), thị
trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
-Chuyển Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành Sở Giao dịch
chứng khoán hoạt động theo mô hình công ty theo tinh thần của Luật Chứng
khoán. Sở Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán thực
hiện chức năng tổ chức và giám sát giao dịch chứng khoán tập trung. Nâng
cấp đồng bộ hạ tầng kỹ thuật của thị trường, đảm bảo khả năng liên kết với thị
trường các nước trong khu vực;
-Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC)
theo hướng có quản lý thông qua các giải pháp: thực hiện đăng ký, lưu ký tập
trung đối với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng
khoán; nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều
kiện niêm yết theo mô hình thoả thuận thông qua các công ty chứng khoán;
các giao dịch chứng khoán tập trung thanh toán và chuyển giao thông qua
Trung tâm Lưu ký chứng khoán; đồng thời, thiết lập cơ chế giám sát của thị
trường giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin để tăng cường tính
công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám sát của Nhà


18

nước đối với các giao dịch chứng khoán, thu hẹp hoạt động trên thị trường tự
do.
c) Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường:

-Tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng
lực tài chính cho các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu
tư chứng khoán,.... Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị
trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính
công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường;
-Mở rộng phạm vi hoạt động Trung tâm Lưu ký chứng khoán, áp
dụng các chuẩn mực lưu ký quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán
giữa thị trường vốn và thị trường tiền tệ;
-Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt
Nam. Cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại
Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước
ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
d) Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước:
-Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng,
chứng khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường theo quy định của
pháp luật. Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp
nước ngoài vào thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết;
-Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư; tạo điều kiện cho phép
Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện,… tham gia đầu tư trên thị
trường vốn; từng bước phát triển, đa dạng hoá các quỹ hưu trí để thu hút các
vốn dân cư tham gia đầu tư; khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở
nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường Việt Nam.
đ) Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám
sát của Nhà nước:


19

-Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp
ứng được yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu

vực và quốc tế;
-Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để
phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn,
thị trường chứng khoán;
-Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối
với hoạt động chứng khoán, khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn
hạn; điều tiết lợi nhuận thu được do kinh doanh chứng khoán, đồng thời thông
qua thuế, phí, lệ phí góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán
và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường (bao gồm cả các nhà đầu tư
trong và ngoài nước);
-Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc
tế; đẩy mạnh việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các
thành viên tham gia thị trường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị trường,
đảm bảo tính công khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế
thực thi của cơ quan giám sát thị trường;
-Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà
nước đối với thị trường vốn; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức
năng giám sát các hoạt động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ
quan giám sát tài chính quốc gia, giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối chính
sách và công cụ cảnh báo, điều hành, giám sát hoạt động tài chính tiền tệ ở
tầm vĩ mô.
e) Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế:
-Thực hiện mở cửa từng bước thị trường vốn cho nhà đầu tư
nước ngoài theo lộ trình hội nhập đã cam kết, đồng thời đảm bảo kiểm soát
được luồng vốn vào, vốn ra; mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt
tư vấn chính sách, tư vấn pháp luật và phát triển thị trường;


20


- Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị
trường vốn; tăng cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường chứng
khoán cho công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
g) Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia: thực hiện tốt việc giám sát các
giao dịch vốn; áp dụng các biện pháp kiểm soát luồng vốn chặt chẽ; trong
những trường hợp cần thiết để giảm áp lực đối với tỷ giá, ngăn ngừa nguy cơ
biến dạng và khủng hoảng trên thị trường, cần có những giải pháp xử lý thích
hợp. Các giải pháp này được thể hiện trong văn bản quy phạm pháp luật và
công bố cho nhà đầu tư được biết và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh
hưởng đến an ninh của hệ thống tài chính. Thực hiện cơ chế giám sát đặc biệt
với các định chế trung gian yếu kém để giảm thiểu tác động tiêu cực có tính
chất dây chuyền trong toàn hệ thống.

3.2.2 Thị trường tiền tệ:
-Văn kiện đại hội X của Đảng đã nêu rỏ quan điểm về việc việc
xây dưng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, trong đó các quan điểm về việc xây dựng hệ thống ngân hàng Việt
Nam vững mạnh được khẳng định mạnh mẽ. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2000-2010 đã nêu rõ định hướng điều hành thị trường tiền tệ trong thời
gian tới là: “ thực thi chính sách tiền tệ bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm
soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư phát triển. Sử
dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá, lãi suất,
nghiệp vụ thị trường mở theo nguyên tắc của thị trường. Nâng dần và tiến tới
thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam”.
-Từng bước đổi mới một cách căn bản, đồng bộ việc xây dựng và
điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với thông lệ quốc tế, từ đó đảm bảo mức
gia tăng huy động vốn luôn đáp ứng mức gia tăng cung ứng tín dụng cho nền
kinh tế. Đến năm 2010 nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế được tiền tệ hóa


21


và các nguồn vốn được thương mại hóa.(chiến lươc tiền tệ-ngân hàng giai
đoạn 2000-2010).
-Hình thành đồng bộ, thị trường tiền tệ, tăng khả năng chuyển
đổi của đồng tiền Việt Nam, phát triển thị trường tiền tệ với các hình thức đa
dạng thích hợp, bao gồm hệ thống ngân hàng, thể chế tài chính phi ngân hàng,
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… và bảo lãnh đầu tư nhằm thu hút các
nguồn vốn trong xã hội, mở rộng nguồn vốn dài hạn và trung hạn.
-Ngân hàng Nhà nước sẽ nhanh chóng thực hiện các chính sách
điều hành tiền tệ để có biện pháp thích hợp kiểm soát được mức tăng trưởng
tổng phương tiện thanh toán và mức huy động tín dụng; thực hiện các biện
pháp nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng tiền trong lưu thông ở mức
hợp lý; giữ bình ổn tỷ giá hối đoái, các lãi suất chủ đạo của đồng tiền Việt
Nam, không để xảy ra những đột biến trên thị trường tiền tệ.
-Hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối nhằm giám sát và quản lý
chặt chẽ các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn trên thị trường. Đồng thời, đảm
bảo dự trữ ngoại hối nhà nước đủ khả năng can thiệp thị trường, đảm bảo ổn
định kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ.
-Để đẩy mạnh và phát triển thị trường tài chính ở nước ta thì cần
phải có một cơ chế chính sách phù hợp và thông thoáng, để đáp ứng được mọi
nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong nước. Đặc biệt là sau
khi nước ta gia nhập WTO thì việc phát triển thị trường tài chính ngày càng
trở nên quan trọng và cần thiết. Và đó cũng là một trong những đòi hỏi cấp
bách hiện nay, điều đó sẽ giúp đất nước ta phát triển tốt hơn.


22

Kết luận:
-Tuy thị trường tài chính đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới, và

đã đạt được nhiều thành tựu nhất định nhưng đối với Việt Nam thì thị trường
tài chính mới được hình thành trong vài năm gần đây. Tuy vậy nó cũng đã có
một vài thành tựu nhỏ, cũng đã gây được sự chú ý của các nhà đầu tư nước
ngoài.
-Chẳng hạn như: một tờ thời báo Anh nói rằng: “Thị trường tài
chính Việt Nam bắt đầu sôi động”(Tờ ''Thời báo tài chính'' (Anh) số ra ngày
19/9 đăng bài viết về thị trường tài chính của Việt Nam, trong đó nêu rõ hiện
nay, giới kinh doanh Mỹ, châu Âu và châu Á đang hướng tới Việt Nam để
khai thác thị trường vốn mới nổi lên này).( www.mofa.gov.vn, 4 tháng 12
năm 2007)
-Điều này cũng dể hiểu thôi vì kinh tế Việt Nam đang phát triển
với tốc độ 8%/năm, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc. Việt Nam là
đất nước giàu tài nguyên và cũng là một nước xuất khẩu dầu mỏ. Quan trọng
hơn cả, Việt Nam có sự ổn định về chính trị, thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) lớn và thị trường chứng khoán tăng 67% trong năm 2006. Cũng
chính vì lý do đó làm cho thị trường tài chính ở Việt Nam ngày càng trở nên
sôi động
-Nhưng Việt Nam chỉ mới đạt được những bước đi nhỏ trên đoạn
đường dài thôi. Và vẫn còn nhiều khó khăn thử thách đang chờ đất nước ta
phía trước.


23

Phụ lục:
1.1.1Cơ sở hình thành thị trường tài chính:
-Trước đây khi sản suất và trao đổi hàng hóa chưa phát triển, quá
trình tái sản xuất xã hội mang nặng tính giản đơn và nền kinh tế không có
nhiều đòi hỏi những nguồn vốn đầu tư lớn. Lượng của cải dư thừa người ta
có xu hướng cất trữ dưới dạng những nén thoi và nén vàng trong những chum,

lọ cho con cháu đời sau mà người ta thường gọi là hình thức “cất trữ ngây
thơ”. Khi xã hội phát triển và nền sản xuất hàng hóa được đổi mới về chiều
rộng lẫn chiều sâu, để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của
con người, do đó quá trình tái sản xuất phát sinh hàng loạt các dự án đòi hỏi
những khoản vốn đầu tư lớn. Các doanh nghiệp thường không thỏa mãn với
quy mô hiện có và luôn có kế hoạch ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật nhằm cải tạo và mở rộng quy mô, nhà nước thực hiện những công trình
phát triển kinh tế xã hội mang tầm vóc quốc gia mà bản thân ngân sách nhà
nước cũng không đử khả năng đáp ứng. Tất cả đã tạo nên nhu cầu về vốn đầu
tư rất lớn. Mặt khác, trong khung cảnh nền kinh tế sôi động người ta không
dại gì cất những đồng tiền kiếm được trong két sắt mà luôn tìm cách so sánh
giữa đồng tiền hiện tại và tương lai và luôn tìm cách để sinh sôi chúng. Đó
cũng chính là nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức
các tầng lớp dân cư. Do thực tế khách quan nêu trên đã đặt ra yêu cầu là tạo
điều kiện cho những dòng chảy của vốn gặp gỡ nhau thông qua hàng loạt các
hình thức đầu tư thích hợp. Và trong nền kinh tế thị trường phát triển luôn
luôn xuất hiện nguồn cung và cầu về vốn đầu tư. Sự kết nối giữa cung và cầu
luôn được thực hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức phổ biến và đơn giản
nhất là hình thức vay mượn trực tiếp giữa các tầng lớp dân cư hoặc quan hệ
tín dụng thương mại giữa các doanh nghiệp. Song vì hình thức này còn gặp
phải nhiều hạn chế như quy mô vốn không lớn phạm vi điều tiết không rộng


24

và chỉ diễn ra trên cơ sở quen biết và tín nhiệm giữa hai chủ thể. Hình thức
thứ hai tương đối phổ biến là sự ra đời và phát triển của các tổ chức tài chính
trung gian như ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các công ty tài
chính. Hoạt động các tổ chúc này thật sự là nhịp cầu giao lưu giữa cung và
cầu vốn vì họ vừa là người di vay vừa là người cho vay. Cùng với sự phát

triền kinh tế các ngân hàng ngày càng mở rộng quy mô và trở thành trung tâm
tín dụng quan trọng của nền kinh tế. Tuy nhiên xét trên góc độ là người đầu tư
thì việc bỏ vốn vào ngân hàng để hưởng lãi suất cố định chỉ phù hợp với
những người không muốn mạo hiểm. Cho nên đối với một số nhà đầu tư hình
thức giao lưu vốn thông qua ngân hàng trở nên đơn điệu và hạn hẹp về phạm
vi lựa chọn vì không biết một cách chính xác đồng vốn của họ đang nằm ở
lĩnh vực nào của nền kinh tế. Hình thức thứ ba được phát triển khi các chủ
đầu tư không muốn thông qua các tổ chức tài chính trung gian mà sẽ chủ động
kiếm nguồn vốn đầu tư bổ sung bằng cách phát hành các chúng từ có giá. Phát
triển sớm nhất là những tờ công trái do ngân sách nhà nước phát hành để huy
dộng vốn nhằm thỏa mãn nhu cầu chi và sau này khi các doanh nghiệp cần tập
trung vốn đầu tư thì các loại cổ phiếu, trái phiếu ra đời ngày càng nhìu trong
nền kinh tế.
Sự có mặt của các loại đã thu hút sự quan tâm của giới đầu tư vì
không những nó đa dạng phong phú về chủng loại, người đầu tư sẽ biết được
đường di chính xác đồng vốn của mình, mặt khác việc mua bán chúng từ có
giá dễ dàng nên người đầu tư cản thấy họ không bị bó buộc trong một phạm
vi may rủi hạn hẹp. Trên thực tế thị trường giao dịch các loại chúng từ có giá
đã hình thành và phát triển ngày càng manh mẽ mà người ta dùng các thuật
ngữ thị trường tài chính để chỉ ra nơi diễn ra các hoạt động mua bán chúng từ
có giá trong nền kinh tế. Như vậy, có thể nói sự ra đời và phát triển các loại
chúng từ có giá và quá trình giao lưu chuyển nhượng chúng trong nền kinh tế


25

vừa có tác dụng giải quyết nhu cầu vốn đầu tư cho các chủ thể vay vừa là cơ
sở hình thành thị trường tài chính.

BẢNG LIỆT KÊ HÀNG HOÁ VÀ XUẤT XỨ CỦA HÀNG

HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - CHỨNG KHOÁN
Nơi Sản Xuất Hoặc Nơi Tạo Ra
Hàng Hoá
Khu
bộ phận Tên gọi
vực
Doanh Kinh
Ngân hàng
nghiệp doanh
tiền tệ và
tài chính

Các công ty
và tổ chức
tài chính
khác ngân
hàng
Kinh
Xí nghiệp
doanh
công ty nhỏ
hàng hoá và vừa
hữu bình

Loại Hàng Hoá Và Tên Gọi
Nhóm cổ
phiếu
Cổ phiếu
ngân hàng


- Cổ phiếu
ưu tiên
- Cổ phiếu
thông
thường
- Cổ phiếu
ưu tiên
- Cổ phiếu
thông
thường
Kinh
- Tập đoàn - Cổ phiếu
doanh
công nghiệp ưu tiên
tổng hợp
- Cổ phiếu
hàng hoá - Các công thông
hữu bình ty đa quốc
thường
& tài
gia
- Cổ phiếu
chính
- Các công dành riêng
tiền tệ
ty và xí
cho ngân
nghiệp lớn
hàng
(private


Phương
Thức Để
Có Hàng
Nhóm trái phiếu
Hoá
- Séc, tín phiếu
- Đem tiền
- Chứng thư tiền gửi có
mặt ký gửi
kỳ hạng và tiết kiệm
vào ngân
- Trái phiếu tiết kiệm
hàng
- Chứng thư tiền gửi các - Hoặc
loại (CDs)
đem tiền
- RPs, Euro-Dollar
mặt để
- Chứng thư tài sản khác. mua.
- Sec-traveler checkVisa-Master-Creditcard
- Trái phiếu các loại
- Thương phiếu
- Trái phiếu các loại
Đem tiền
mặt mua

- Sec, traveler checkVisa-Master -Creditcard
- Thương phiếu
- Trái phiếu công ty, trái

phiếu Junk, trái phiếu
chuyển đổi, các loại
phiếu nở khác

Đem tiền
mặt mua


×