Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giải pháp cho xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý ở Việt Nam hiện nay ( giới hạn trong cơ cấu ngành)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.43 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế chính trị Mác-Lênin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công
cuộc đổi mới hiện nay yêu cầu học tập nghiên cứu kinh tế chính trị Mác-Lênin càng được
đặt ra một cách bức thiết, nhằm khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách
rời lý luận cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Nước ta đang trên đà phát
triển kinh tế và xã hội, trong kho tàng nhận thức của nhân loại có rất nhiều lý luận kinh tế
với những quan diểm khác nhau, chính vì vậy kinh tế chính trị càng đóng vai trò quan
trọng hơn trong việc định hướng đường lối lý luận đúng đắn với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Một trong những nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước là xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý. Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều
kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu hiện đại, hợp lý.Trong cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu
các ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác.
Việt Nam đang ở một giai đoạn quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, có thể nói đây là giai đoạn đạt được sự phát triển đỉnh điểm với sự tăng
trưởng và tiến bộ không ngừng. Chúng ta là những sinh viên của thế kỉ XXI, là chủ nhân
tương lai của đát nước. Vì vậy, việc sử dụng lý luận kinh tế chính trị làm nền tảng để
phân tích và đánh giá những vấn đề còn đang tồn tại của quá trình xây dựng cơ cấu kinh
tế và đưa ra những giải pháp chủ yếu cho những vấn đề còn tồn đọng là hết sức cần thiết.
Đó là lí do em lựa chọn phân tích đề tài : “ Giải pháp cho xây dựng cơ cấu kinh tế hiện
đại và hợp lý ở Việt Nam hiện nay ( giới hạn trong cơ cấu ngành)”.


NỘI DUNG
I.

Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý

1.


Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế bao gồm

các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế… và mối quan hệ hữu cơ
giữa chúng.
Cơ cấu kinh tế không ngừng vận động, biến đổi (hay còn gọi là chuyển dịch) do
sự vận động, biến đổi của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Nền kinh tế phát
triển tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong phân công lao động xã hội, khi đó cơ cấu
kinh tế cũng từng bước bị phá vỡ và được thay đổi dần bằng cơ cấu kinh tế mới. Đó
chính là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay
đổi các quan hệ tỷ lệ về lượng và mối quan hệ tương tác giữa các bộ phận cấu thành
nên nền kinh tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, tiến bộ là tỷ trọng khu
vực công nghiệp và xây dựng, đặc biệt là tỷ trọng khu vực dich vụ ngày càng tăng, tỷ
trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá
trị sản phẩm xã hội.
Một trong những nội dung quan trọng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý. Cơ cấu kinh tế hợp lý là
điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy, quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu hiện đại, hợp lý. Trong cơ cấu của nền kinh
tế, cơ cấu các ngành kinh tế là quan trọng nhất, quyết định các hình thức cơ cấu kinh
tế khác.
2.

Cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý
Quá trình hình thành và phát triển các ngành kinh tế, nhất là những ngành có hàm

lượng khoa học cao, sự xuất hiện các vùng sản xuất chuyên canh tập trung…không
chỉ là biểu hiện của sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển cơ sở vật chất – kỹ



thuật trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà còn làm cho cơ cấu kinh tế
thay đổi tiến bộ.
Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi công –
nông nghiệp – dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý, đồng bộ và khai thác được tiềm
năng, thế mạnh của các ngành, các vùng kinh tế. Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một
ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự phát triển mạnh mẽ các ngành
công nghiệp và nông nghiệp.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu khách quan của mỗi nươc trong thời kì công
nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý. Ở nước ta, một cơ
cấu kinh tế được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
- Nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải
tăng dần về tỷ trọng.
- Trình độ kỹ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng
của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của các ngành, các địa
phương, các thành phần kinh tế.
-

Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế,

do vậy cơ cấu kinh tế được tạp dựng phải là “cơ cấu mở”.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được thực hiện theo phương châm: kết hợp công nghệ nhiều trình độ, tranh thủ công
nghệ mũi nhọn - tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào, vừa cho phép
rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy
quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý
và có điều kiện; giữ được tốc độ tăng trưởng hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành,
các lĩnh vực và các vùng trong nền kinh tế… Chuyển dịch cơ cấu của nước ta trong
những năm trước mắt cần phải thực hiện theo định hướng chung sau đây: chuyển dich
cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so

sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu thị trường trong nước và
ngoài nước, nhu cầu đời sống của nhân dân và quốc phòng, an ninh. Tạo thêm sức


mua của thị trường trong nước và mở rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất
khẩu.

II. Giải pháp xây dựng cơ cấu ngành hiện đại hợp lý ở nước ta hiện
nay
1. Thực trạng cơ cấu ngành ở nước ta hiện nay
a) Những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
Ở nước ta, kể từ Đại hội đại biểu toàn quôc lần thứ VI của Đảng đến nay, dưới
ánh sáng của đường lối đổi mới, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã đạt được những
thành tựu quan trọng. Thông qua cách mạng khoa học và công nghệ và phân công lại
lao động với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta,
Đảng ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý mà “bộ xương” của nó là cơ cấu kinh
tế công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ gắn với phân công lao động và hợp tác quốc
tế sâu rộng.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện tương đối rõ nét ở sự thay đổi
cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong
những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu,
bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất
chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, không đem lại hiệu quả
kinh tế, thì bước vào công cuộc đổi mới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực. Nhờ vậy, chỉ sau 3 năm của thời kỳ
phôi thai về kinh tế thị trường (từ 1987 - 1989) nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ
tăng trưởng khá trong những năm 1990 - 1997. Mọi dự kiến của kế hoạch 5 năm 1991
- 1995 đều được thực hiện vượt mức khá cao. Trong thời kỳ khủng khoảng tài chính
tiền tệ ở các nước châu Á, tuy tốc độ tăng trưởng của nước ta có sự giảm sút, nhưng
về cơ bản chúng ta vẫn tránh được "cơn bão" của cuộc khủng khoảng, để sau đó tiếp

tục tăng quy mô GDP của đất nước, tăng xuất khẩu, phát triển công nghiệp, trở thành
một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới.


Bảng 1: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế qua các năm( đơn vị: %)
Năm

1990

1995

1997

2000

2001

2002

2003 2004 2005 2006

Nông lâm thủy sản
Công
nghiệp
và xây
dựng
Dịch vụ

38,8


27,2

25,8

24,5

23,2

23,1

22,5

21,8

20,9

20,4

22,7

28,8

32,1

36,8

38,1

38,5


39,5

40,2

41,0

41,2

38,6

44,1

42,2

38,8

38,7

38,5

38,0

38,0

38,1

38,1

Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê
Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều

bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp
phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất
nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm. Trong
ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3%
(năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004), 23,4% (năm 2005); còn tỷ trọng trong trồng
trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới
76,3% (năm 2004) và 74,5% (năm 2005). Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta
đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa
giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây công
nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương...; cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su, hạt
tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất
khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông
nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn. Đặc biệt
thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, những năm
gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu quả
thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và
duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân.


Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến
nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới
36,73% (năm 2000) và 41,2% (năm 2006). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh
của tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm
2004 tính theo giá thực tế) và sự giảm tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ
15,7% xuống còn 12,8%), tăng tỷ trọng của công nghiệp sản xuất và phân phối điện,
ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%) trong thời kỳ tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ
cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng
chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp những năm qua là tích cực, theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Bởi, các

ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh,
tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một
nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ô-tô, sản phẩm điện tử, tàu thủy...
Các ngành có trình độ công nghệ trung bình và thấp phát triển ở tốc độ trung bình và
thấp để sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng chưa quá khắt khe của thị
trường trong nước, cũng như nhằm duy trì cung cấp những sản phẩm thông thường
thiết yếu cho nhân dân. Trong công nghiệp, trước Đổi mới, công nghiệp nặng được
chú trọng phát triển nhưng do thiếu nguồn lực nên kém hiệu quả. Trong thời kì đầu
Đổi mới, các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm được chú trọng phát
triển để phục vụ ba chương trình kinh tế lớn : lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng
và hàng xuất khẩu. Hiện nay, trong cơ cấu ngành công nghiệp chiếm ưu thế là các
ngành sử dụng lợi thế tương đối về lao động (dệt, may, da giày, chế biến thực phẩm)
và tài nguyên (dầu khí, điện, xi măng…). Nhưng các ngành đòi hỏi hàm lượng kỹ
thuật cao (kỹ thuật điện và điện tử) sẽ được phát triển mạnh hơn trong thập kỷ tới.
Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất
là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh
vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh
của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu
hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch


vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt
44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm
1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1%. Điều đáng lo ngại
là tỷ trọng của một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và
trong cơ cấu GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ,
vận tải, viễn thông, dịch vụ kinh doanh. Và mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ
mới trong lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ
cấu nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện
một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại.

Bảng 2 : Cơ cấu GDP và các phân ngành lớn

Tổng số GDP

1986

1990

1995

2000

2003

0,559

41,955

228,892

441,64
6

605,491

Tăng
trưởng

- Nông, lâm, ngư 38,06% 38,74% 27,18%
21,80% -16,26%

Trong đó:
24,53%
* Nông nghiệp
30,88
32,71
23,04
16,69
-14,19
* Lâm nghiệp
5,01
2,98
1,24
19,81
1,10
-3,91
* Ngư nghiệp
2, 17
3,05
2,91
1,34
4,01
+1,84
- Công nghiệp – 28,88% 22,67% 28,76%
3,38
39,97% +11,09%
xây dựng
36,73
Trong đó:
%
* Công nghiệp

1,84
5,21
4,81
9,43
+7,59
mỏ
* Công nghiệp 22,37
12,26
14,99
9,65
20,81
-1,56
chế biến
* Công nghiệp
1,84
1,37
2,05
18,56
3,85
+2,01
điện, nước, gas
3,84
6,90
5,88
+3.04
* Xây dựng
2,84
3,17
- Dịch vụ
33,06% 38,59% 44,06%

5,35
38,23
+5,17%
Trong đó:
%
* Thương mại
12,69
13,01
16,38 38,74%
+1,08
* Khách sạn, nhà
13,77
hàng
3,17
4,23
3,77
14,23
-0,05
* Vận tải, kho
3,12
bãi, viễn thông
1,67
3,45
3,98
3,25
+2,06
* Tài chính, tín
0,83
1,17
2,01

3,73
+0,97
dụng
3,93
1,80


1,84

Bảng 3: So sánh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Nền kinh tế
Việt Nam

Ngành
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ

Năm
1985
0,4017

0,2735
0,3248
1955
0,329
0,211
0,460
1970
0,180
0,345
0,475
1970
0,265
0,289
0,446

Chuyển dịch
2003
0,2180
0,3997
0,3823
1973
0,141
0,438
0,421
1988
0,060
0,455
0,485
1988
0,105

0,439
0,456

7,6%


Nguồn: Niên giám thống kê của Hàn Quốc, Đài Loan và số liệu của Tổng cục Thống
kê Việt Nam 2004.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế một cách tích cực trong những năm
qua góp phần quan trọng đến phát triển xuất khẩu của đất nước, thể hiện qua những
khía cạnh sau:
-

Làm thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng có lợi, đó là tăng tỷ trọng hàng chế

biến có giá trị gia tăng cao (từ 45,1% trong những năm 1996 - 2000 lên 48,0% trong
những năm gần đây), giảm tỷ trọng hàng thô và sơ chế; tăng tỷ trọng nhóm hàng công
nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhiều lao động như hàng dệt may, giày
dép, sản phẩm gỗ,...; giảm tỷ trọng nhóm hàng nông - lâm - thủy sản (từ 52,2% năm
1990 xuống còn 27,6% năm 2003). Điều đáng lưu ý là, tuy tỷ trọng của hàng nông lâm - thủy sản trong cơ cấu xuất khẩu của nước ta giảm, nhưng nhờ chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng tăng sản xuất các sản phẩm có năng suất
cao, giá trị kinh tế hơn nên giá trị xuất khẩu của hàng nông - lâm - thủy sản của nước
ta vẫn khá cao và có những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: xuất khẩu gạo đạt kim
ngạch 4,4 tỉ USD; cà phê 2,6 tỉ USD, cao su 2,2 tỉ USD, thủy sản 11,2 tỉ USD trong 5
năm 2001- 2005.
-

Tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu của đất nước nhờ phát huy những lợi thế

so sánh của từng ngành, vùng và sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu một cách

có hiệu quả. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh cùng với quá trình
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: năm 2000 đạt 14,5 tỉ USD, năm 2001: 15 tỉ USD,
năm 2002: 16,7 tỉ USD, năm 2003: 20,1 tỉ USD, năm 2004: 26,5 tỉ USD, năm 2005:
32,4 tỉ USD.
Ngoài ra, nguồn vốn đầu tư của ngân sách nhà nước cho chuyển dịch cơ ngành
kinh tế đã có sự điều chỉnh phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đặc
biệt, vốn đầu tư đã tập trung hơn cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, khoa học công
nghệ, giáo dục đào tạo và các vấn đề xã hội nhằm tạo nền tảng cho việc chuyển dịch


cơ cấu ngành kinh tế được thuận lợi. Hệ thống luật pháp, chính sách và cách thức chỉ
đạo của nhà nước đã có nhiều thay đổi theo hướng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế. Các luật thuế được sửa đổi, luật lao động, luật đất đai, các chính sách khuyến
khích xuất khẩu, chính sách hỗ trợ vốn luôn được quan tâm điều chỉnh phù hợp với
lợi ích của nhân dân.
Để đi theo chiến lược mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế có hiệu quả, vấn đề
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở trong nước có ý nghĩa rất lớn. Bởi, sản xuất trong
nước cần phải được dịch chuyển sao cho vừa khai thác được những tiềm năng, lợi thế
của đất nước, vừa sản xuất được những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường thế
giới. Trong bối cảnh chung là phân công lao động quốc tế ngày một sâu sắc, sự cạnh
tranh giữa các nước xuất khẩu cũng vô cùng gay gắt, lại muốn phát triển được sản
xuất của đất nước theo một chiến lược chung, việc lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý,
đem lại hiệu quả cao là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, ngày nay việc thực hiện công
nghiệp hóa định hướng xuất khẩu đi sau không thể sử dụng nguyên mẫu của các mô
hình sẵn có bởi dưới tác động của những nhân tố mới, những lợi thế so sánh truyền
thống không còn được đánh giá cao như trước đây, nên việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế của các nước đi sau cũng cần phải được nhận thức lại nhằm tạo ra một cơ cấu kinh
tế hiện đại, cân đối, năng động và tăng trưởng nhanh một cách bền vững hơn.
b) Những hạn chế còn tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành

kinh tế của nước ta hiện nay vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.
Một là, cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, nhất là
theo hướng hiện đại hóa. Nhận định quan trọng này đã được nêu tại Hội nghị Trung
ương khóa IX, phản ánh một thực tế rất đáng quan tâm trong tiến trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa giai đoạn vừa qua.Liên quan đến hạn chế này, nổi lên ba vấn đề lớn:
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu chưa tuân thủ nguyên tắc là dựa vào lợi thế so sánh
và phải liên tục tạo ra lợi thế so sánh mới cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế mở, để
cạnh tranh thắng lợi và khẳng định vị thế trong nền kinh tế thế giới được cấu trúc theo


nguyên lý dựa trên lợi thế và luôn tạo ra lợi thế mới (lợi thế động) là yêu cầu bắt
buộc. Nhưng trong giai đoạn vừa qua, trên thực tế, nguyên tắc này chưa được coi
trọng đúng mức, do vậy dẫn tới chỗ cơ cấu kinh tế chậm thoát khỏi tình trạng lạc hậu,
kém sức cạnh tranh và hiệu quả thấp.
-

Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, chưa cùng nhịp với sự chuyển dịch cơ cấu

ngành và yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Đây là vấn đề hết sức lớn của
nền kinh tế nước ta. Nó là hậu quả trực tiếp của việc đầu tư nghiêng về các ngành, các
dự án dùng nhiều vốn hơn là nhiều lao động, chưa quan tâm đúng mức đến khu vực
tạo nhiều việc làm trong nền kinh tế. Về mặt xã hội, sự chuyển dịch này dẫn đến sự
gia tăng chênh lệch về cơ hội việc làm và thu nhập, làm cho tình trạng thất nghiệp và
thiếu việc làm ngày càng tăng lên, gây ra hậu quả xấu trong xã hội.
-

Trong cơ cấu công nghiệp, một khâu đặc biệt quan trọng là các ngành công nghiệp

phụ trợ chưa được quan tâm phát triển. Việc định hướng sử dụng công nghệ chưa
được quan tâm, thực chất là còn tự phát. Vì thế, cơ cấu kinh tế không tạo được sự kết

nối và lan tỏa phát triển cần có giữa các doanh nghiệp, nhất là giữa doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Thiếu khâu này, lợi
thế quan trọng lớn nhất, tác động lan tỏa phát triển mạnh nhất mà dòng đầu tư nước
ngoài và trong nước có thể mang lại cho nền kinh tế nước ta bị lãng phí; sức cạnh
tranh của cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lẫn các doanh nghiệp trong nước
chậm được cải thiện, thậm chí có thể bị suy yếu đi.
Hai là chính sách chưa đồng bộ, thiếu nhất quán trong việc định hướng các lĩnh
vực ưu tiên phát triển, dẫn đến sự chuyển dịch chậm vừa không phát huy lợi thế của
từng ngành, vừa không gắn kết với nhu cầu của thị trường. Nguồn lực phát triển còn
hạn hẹp, chưa đủ sức cơ cấu lại nền kinh tế. Đó là vấn đề cần được nghiên cứu trong
chính sách và phân bổ nguồn lực phát triển để xây dựng cơ cấu kinh tế có hiệu quả và
hợp lý, nâng dần khả năng tích luỹ để công nghiệp hoá.
Ba là, cơ cấu kinh tế giữa ba nhóm ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
chuyển dịch chậm nhất là trong ngành công nghiệp. Năm 2000 tỷ trọng công nghiệp


trong GDP là 31,4%. Năm 2001 là 32,1%, năm 2002 là 32,6%, năm 2003 là33,4%,
năm 2004 là 34% và năm 2005 là 34,7%.
Bốn là, khả năng cạnh tranh của nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ còn thấp nhiều sản phẩm khó tiêu thụ. Công nghệ lạc hậu từ 50 - 100 năm so
với các nước phát triển và 20 - 30 năm so với các nước đang phát triển. Về nhóm
ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản Việt Nam đứng thứ 4/10 trong khu vực Đông Nam
Á; đứng thứ 16/38 ở châu Á; đứng thứ 47/162 trên thế giới. Về nhóm ngành công
nghiệp -xây dựng, Việt Nam đứng thứ 4/10 trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ
10/38 ở châu Á, đứng thứ 70/162 trên thế giới. Về nhóm ngành dịch vụ, Việt Nam
đứng thứ 7/10 trong khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 70/162 trên thế giới.
Năm là, nguồn vốn để chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn thiếu cơ cấu đầu tư chưa
hợp lý, phương thức đầu tư chậm thay đổi nên ảnh hướng đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
Sáu là, giải quyết vấn đề thị trường ra cho sản phẩm hàng hóa còn gặp nhiều khó

khăn chưa tạo ra thế chủ động chiếm lĩnh thị trường. Chính vì vậy, năm 2005 thị
trường xuất khẩu của Việt Nam mặc dù đã được mở rộng nhưng doanh thu lại không
cao. Tổng doanh thu đạt 16, 3 tỷ USD, trong đó Mỹ đạt 6, 8 tỷ USD, Australia đạt 2,
58 tỷ USD, Anh đạt 1, 0 tỷ USD.
Nếu nhìn nhận ở khía cạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát
triển xuất khẩu, thì tỷ trọng của ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm cao trong
GDP của đất nước. Đây là ngành mà sản xuất phải phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự
nhiên, bị giới hạn bởi năng suất, diện tích, khả năng khai thác, giá cả sản phẩm lại
chịu nhiều tác động của sự biến động lên xuống trên thị trường thế giới và có xu
hướng giảm theo giá "cánh kéo" với hàng công nghiệp, do đó giá trị kim ngạch xuất
khẩu của hàng nông sản sẽ không cao và không ổn định. Chưa kể, tỷ trọng của ngành
chăn nuôi trong nông nghiệp cũng thấp và chưa có dấu hiệu phát triển trong những
năm tới. Đồng thời, tỷ trọng của ngành công nghiệp chưa cao, đặc biệt là ngành công
nghiệp chế tạo. Sự đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của ngành công nghiệp một
số năm qua mới chủ yếu là do phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công như


lắp ráp ô-tô, xe máy, dệt may, giày dép, là những ngành chủ yếu dựa vào nguồn nhân
lực, còn nguồn nguyên liệu bị phụ thuộc vào thị trường nước ngoài. Tỷ trọng công
nghiệp chế biến của nước ta còn nhỏ (tỷ lệ sản phẩm chế biến trong cơ cấu xuất khẩu
chỉ tăng khoảng 1,5%/năm), vì thế kéo theo tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến
sâu vẫn còn thấp, mới xuất khẩu chủ yếu hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng
của sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng thấp của ngành dịch vụ trong GDP và
rất thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu (13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu - dưới mức
trung bình của thế giới là 20,0%) càng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế của nước ta chưa có khả năng tạo ra sự chuyển biến mạnh trong xuất khẩu của
đất nước. Ngoài ra, năng lực cạnh tranh yếu của nhiều mặt hàng cũng như sản phẩm
dịch vụ đã hạn chế và làm cho sự phát triển xuất khẩu trở nên không vững chắc.
Trong chuyển dịch cơ cấu ngành, tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm, các loại dịch
vụ cao cấp có giá trị tăng thêm lớn chưa phát triển mạnh. Trong nông nghiệp, sản xuất

chưa gắn kết có hiệu quả với thị trường; việc đưa khoa học, công nghệ vào sản xuất
còn chậm; công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn còn lúng túng.
Trong công nghiệp, ít sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; công
nghiệp công nghệ cao phát triển chậm; một số sản phẩm công nghiệp có sản lượng lớn
còn mang tính gia công, lắp ráp, giá trị nội địa tăng chậm; công nghiệp bổ trợ kém
phát triển; tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm.
2. Giải pháp xây dựng cơ cấu ngành hiện đại hợp lý ở nước ta hiện nay
Đứng trước những khó khăn và hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hiện nay, chúng ta cần phải có những giải pháp tích cực để khắc phục, đưa nền kinh tế
Việt Nam trở thành nền kinh tế có cơ cấu hợp lý, hiệu quả và kinh tế.
Một là, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Đưa nhanh khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp; có chính sách
đủ mạnh để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp và hoạt động dịch vụ ở nông
thôn; tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội nông thôn và
xây dựng nông thôn mới. Bao gồm các biện pháp sau:


-

Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, phục vụ xuất

khẩu và thị trường nội địa, đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái.
-

Nâng cao sức cạnh tranh, bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất và xuất

khẩu thủy sản.
-

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.


-

Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, các loại hình kinh tế hợp tác; đẩy nhanh

việc sắp xếp lại và đổi mới quản lý các nông, lâm trường; phát triển mạnh các loại
hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn.
-

Tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn.

Tiếp tục đầu tư phát triển giao thông nông thôn, bảo đảm các xã đều có đường ô tô tới
khu trung tâm; phấn đấu đến năm 2010, trên 90% dân cư nông thôn có điện sinh hoạt,
trên 75% dân cư nông thôn có nước sạch.
-

Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn, nâng cao mức sống, góp
phần xóa đói giảm nghèo ở khu vực nông thôn.
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất

lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hóa. Bao gồm các biện pháp sau:
-

Phát triển đồng bộ công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất tư liệu sản suất,

công nghiệp quốc phòng, góp phần xây dựng nền tảng cho một nước công nghiệp và
nâng cao khả năng tự chủ của nền kinh tế.
-


Tập trung nguồn lực phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo

ra sản phẩm xuất khẩu và thu hút nhiều lao động như: chế biến nông -lâm -thủy sản;
may mặc, giày dép, công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp chế tạo thiết bị
đồng bộ…
-

Tăng cường hợp tác liên kết, đưa ngành công nghiệp và xây dựng nước ta hội

nhập vào khu vực và quốc tế, thông qua việc thu hút mạnh đầu tư và công nghệ nguồn
các công ty đa quốc gia tham gia phát triển công nghiệp và xây dựng ở Việt nam.
Ba là: Tạo bước phát triển vượt bậc trong khu vực dịch vụ. Bao gồm các biện
pháp sau:


-

Phát triển nhanh khu vực dịch vụ đáp ứng yêu cầu và phù hợp với tiềm năng còn

rất lớn ở nước ta và xu hướng phát triển chung của thế giới; tận dụng tốt thời cơ hội
nhập kinh tế tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ, đưa tốc độ tăng trưởng
khu vực dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP, phấn đấu đạt 7,7 – 8,2% / năm.
-

Ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và sức cạnh tranh cao. Mở

rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như: vận tải, thương mại,
ngân hàng, bưu chính viễn thông. Phát triển mạnh các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất
nông – lâm – ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở nông thôn. Mở rộng các ngành dịch vụ
mới nhất là những ngành dịch vụ cao cấp, dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao, dịch vụ

hỗ trợ kinh doanh.
-

Phát triển các dịch vụ pháp luật, kiểm toán, bảo hiểm, khoa học, công nghệ, giáo

dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin thể thao. Tăng số lượng và nâng cao chất
lượng dịch vụ việc làm.
Bốn là, đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện các chính
sách kinh tế vừa đảm bảo sự ổn định của chính sách để làm yên tâm những người sản
xuất kinh doanh nhưng đồng thời cũng phải điều chỉnh chính sách khi điều kiện thay
đổi .
Năm là, cần thay đổi cơ cấu đầu tư, tập trung vào những lĩnh vực có tiềm lực,
tránh dàn trải, thiếu trọng điểm, kém hiệu quả ở các ngành, địa phương; nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn nhà nước, kết hợp với tăng cường huy động vốn đầu tư trong dân;
đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Sáu là, phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực. Trong bối cảnh các
nước trên thế giới chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng tới những sản phẩm có hàm
lượng tri thức cao, rõ ràng để quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta
có hiệu quả, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc phát triển và ứng dụng những thành
tựu của khoa học, công nghệ vào sản xuất, đồng thời phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Làm được điều này đòi hỏi cần ưu tiên nhập khẩu công nghệ tiên tiến, bằng
sáng chế phát minh, xây dựng các trung tâm công nghệ cao có sự tham gia của nước


ngoài, khuyến khích liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu trong đào tạo,
nghiên cứu và ứng dụng, triển khai, đổi mới phương pháp và giáo trình giảng dạy...

KẾT LUẬN
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những chủ trương lớn của Đảng và nhà nước

ta. Qua gần 20 năm đổi mới, cơ cấu kinh tế của nước ta đã chuyển dịch đúng hướng và có
những bước thay đổi hiệu quả. Xu hướng đó là tích cực, nhưng để hướng đến một cơ cấu
kinh tế hiện đại, hợp lý và hiệu quả theo tiêu chí một nước công nghiệp thì phải có sự
chuyển dịch đồng bộ, cơ bản ở tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế. Để hoàn
thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ngành là một trong những bước đi quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Để
thực hiện mục tiêu:“Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến
quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần


của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát
triển kinh tế tri thức. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt
nam trên trường quốc tế” thì chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế luôn là một giải pháp để
tăng trưởng và phát triển kinh tế, đây cũng là điều kiện cơ bản để thực hiện các mục tiêu
mà đại hội X của Đảng đã đề ra. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cơ cấu kinh tế
ngành ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn và hạn chế, làm chậm quá trình chuyển
dịch và ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Để khắc phục những
khó khăn và hạn chế đó, chúng ta cần đề ra những giải pháp cụ thể và tích cực thực hiện
để xây dựng một cơ cấu kinh tế hoàn thiện, hiện đại, hợp lý và hiệu quả cho nền kinh tế
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đi lên chủ nghĩa xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Tuệ Anh : Tăng trưởng kinh tế trong 15 năm (19912005) – nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật - năm 2006.
2. Đặng Thị Loan, Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa : Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi
mới (1986 – 2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra – Đại học Kinh tế quốc dân –
năm 2006.
3. Trần Xuân Giá :Về chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 và kế hoạch 5
năm 2001-2005 của nước ta - Tạp chí Cộng sản số 13 tháng 7/2001.

4. Đỗ Hoài Nam : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng
điểm, mũi nhọn ở Việt Nam – Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1996


5. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, X Đảng Cộng sản Việt
Nam .
6. Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: . www.mpi.gov.vn
7. Website Báo quân đội nhân dân: />8. Website Tạp chí Đảng cộng sản điện tử: www.tapchicongsan.org.vn

9. Website Thư viện quốc gia Hà Nội:
10. Website Thư viện pháp luật:

Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
I. Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý
1.Cơ cấu kinh tế
2. Cơ cấu kinh tế hiện đại, hợp lý
II. Giải pháp xây dựng cơ cấu ngành hiện đại, hợp lý
1. Thực trạng cơ cấu ngành ở nước ta hiện nay


a) Những thành tựu trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
b) Những hạn chế còn tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta
2. Giải pháp xây dựng cơ cấu ngành hiện đại hợp lý ở nước ta hiện nay
Kết luận .
Danh mục tài liệu tham khảo.




×