Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Nguồn gốc kết cấu giai cấp Nguồn gốc giai cấp Trong xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.7 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

A. ĐẶT VẤN ĐỀ........................................................................................ 2
I. Giai cấp là gì?...............................................................................................2
II. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp...................................................................2

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................5
I. Lí luận chung................................................................................................5
II. Vấn đề giai cấp ở Việt Nam.....................................................................11

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.........................................................................26

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Giai cấp là gì?
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ ra rằng, các giai cấp xã hội hình thành một
cách khách quan gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất. Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lê Nin đã đưa ra định nghĩa về giai
cấp như sau:
"Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy
định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong những
tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về
phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn
người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ
các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.
II. Nguồn gốc và kết cấu giai cấp.
Nguồn gốc giai cấp.


Trong xã hội có nhiều nhóm người, tập đoàn người được phân biệt bằng
những đặc trưng khác nhau: tuổi tác, giới tính, dân tộc, chưng tộc, quốc gia,
nghề nghiệp… Trong những sự khác nhau đó, có một số là do nguyên nhân tự
nhiên, một số khác là do nguyên nhân xã hội. Những sự khác biệt đó tự nó
không sản sinh ra sự đối lập về xã hội. Chỉ trong những điều kiện xã hội nhất
định mới dẫn đến sự phân chia xã hội thành những giai cấp khác nhau. Chủ
nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự phân chia xã hội thành giai cấp là do nguyên
nhân kinh tế.

2


Sản xuất xã hội dần dần phát triển, việc sử dụng công cụ bằng kim loại làm
cho năng suất lao động tăng lên đã dẫn tới sự phân công lại lao động trong xã
hội: chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, sản xuất thủ công cũng dần dần trở thành
một ngành tương đối độc lập với nông nghiệp, lao động trí óc tách khỏi lao động
chân tay. Với lực lượng sản xuất mới, chế độ làm chung, ăn chung nguyên thủy
không còn thích hợp nữa, sản xuất gia đình cá thể trở thành hình thức sản xuất
có hiệu quả hơn. Tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra trở thành tài sản riêng của
từng gia đình. Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất xuất hiện và dần dần thay thế
sở hữu cộng đồng nguyên thuỷ. Chế độ tư hữu ra đời dẫn tới sự bất bình đẳng về
t ài sản trong nội bộ công xã. Xã hội phân hoá thành những giai cấp khác nhau,
giai cấp bóc lột thống trị và giai cấp bị bóc lột, bị thống trị. Như vậy, sự phân
chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất nhiên của chế độ kinh tế dựa trên sự
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Sự hình thành giai cấp diễn ra theo hai con đường:
- Thứ nhất, sự phân hoá bên trong nội bộ công xã thành kẻ bóc lột và người
bị bóc lột.
- Thứ hai, những tù binh bị bắt trong chiến tranh giữa các bộ lạc không bị
giết như trước mà bị biến thành nô lệ.

Chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người là chế độ chiếm
hữu nô lệ, tiếp theo là chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa là bước phát
triển cuối cùng và cao nhất của xã hội có giai cấp.

3


Kết cấu giai cấp.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một kết cấu
giai cấp nhất định. Khi hình thái kinh tế - xã hội này thay thế hình thái kinh tế xã hội khác, kết cấu giai cấp cũng thay đổi.
Mỗi kết cấu giai cấp trong xã hội có giai cấp đều có các giai cấp cơ bản và
không cơ bản. Những giai cấp cơ bản là những giai cấp xuất hiện và tồn tại gắn
liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội. Sự đối kháng và cuộc đấu
tranh của các giai cấp đó biểu hiện mâu thẫun cơ bản của phương thức sản xuất
đã sinh ra chúng.
Bên cạnh những giai cấp cơ bản, trong kết cấu giai cấp còn có giai cấp
không cơ bản. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đó là những nông trị do có ít ruộng
đất. Trong xã hội phong kiến, đó có thể là giai cấp nô lệ và chủ nô với tư cách
tàn dư của xã hội củ; là giai cấp tư sản ra đời trong lòng xã hội phong kiến.
Trong xã hội tư bản, những giai cấp không cơ bản là giai cấp địa chủ với tư cách
là tàn dư, giai cấp nông dân.
Cùng với sự phát triển sản xuất, mỗi giai cấp trong một kết cấu giai cấp xã hội cũng có những biến đổi nhất định. Những sự biến đổi ấy dẫn đến sự thay
đổi địa vị của các giai cấp đó trong hệ thống sản xuất xã hội.
Trong kết cấu của xã hội có giai cấp, ngoài các giai cấp đối kháng còn có
tầng lớp trí thức làm công việc chủ yếu bằng trí óc. Tầng lớp trí thức không phải
là một giai cấp. Nó được hình thành từ những giai cấp khác nhau và cũng phục
vụ những giai cấp khác nhau.
Phân tích kết cấu giai cấp và sự biến đổi của nó giúp ta hiểu địa vị, vai trò
và thái độ chính trị của mỗi giai cấp đối với mỗi cuộc vận động lịch sử, đặc biệt
là trong cuộc đấu tranh của thời đại ngày nay.


4


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Lí luận chung
Các quan điểm trước Mác về vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp.
.Một số quan điểm của các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng
Cơlêdơ Xanh Ximông (1760-1825)
- Là người đầu tiên đề cập, luận giải cho lí thuyết về giai cấp.Ông tự tuyên
bố là người phát ngôn của giai cấp cần lao và giải phóng giai cấp ấy là mục
đÝch cuối cïng của những nỗ lực mà «ng thực hiện trong cuộc đời.
Sáclơ Phuriê (1772-1837)
- Phát hiện ra tình trạng vô chính phủ của nền công nghiệp tư bản chủ
nghĩa. Ông dự đoán văn minh tư bản nhất định sẽ được thay thế bằng chế độ xã
hội mới mà ông gọi là " chế độ xã hội được đảm bảo" hay " xã hội hài hòa".
Rôbớt Ôoen (1771-1858)
- Chủ trương xo¸ bỏ tư hữu, vốn là nguyên nhân của những bất công và tệ
nạn xã hội trong xã hội tư bản.
- Khng thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc quan niệm của chủ nghĩa duy lý
và chân lý vĩnh cửu của triết học thời kỳ cận đại.
- Hầu hết đều có khuynh hướng đi theo con đường ôn hòa.
- Không thể phát hiện ra lực lượng xã hội tiên phong có thể thực hiện
chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản.

5


Nguyên nhân.

- Phương thức sản xuất TBCN chưa phát triển đầy đủ, chưa bộc lộ hết
những mâu thuẫn nội tại và những mặt trái cơ bản của nã.
- Giai cấp công nhân hiện đại chưa đủ trưởng thành để trở thành giai cấp
tiên phong.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Các hình thức cộng đồng người trong lịch sử
Thị tộc:
+ Định nghĩa: Cộng đồng người cã cïng một huyết thống; là một đơn vị sản
xuất.
+ Đặc điểm: - Kinh tế: quyền sở hữu chung về TLSX và tài sản cùng lao
động, sản phẩm được chia đều.
- Chính trị : lãnh đạo là hội đồng thị tộc. Đứng đầu là tộc trưởng.
- Xã hội : vai trò của người phụ nữ có một vị trí đặc biệt, lực lượng sản
xuất phát triển, hình thức thị tộc phụ quyền thay thế mẫu quyền.
Bộ Lạc:
+ Định nghĩa : Tập hợp dân cư tạo thành từ nhiều thị tộc, do các mối quan
hệ huyết thống, hôn nhân.
+ Đặc điểm : - Kinh tế: xuất hiện thêm những hình thức sở hữu khác so với
thị tộc.
Đặc trưng : - Kinh tế: sở hữu tư nhân và chế độ tư hữu ra đời.
Dân tộc

6


+ Định nghĩa: Cộng đồng dân cư hình thành từ một bộ tộc hoặc liên kết
mọi bộ tộc sống trên cùng một lãnh thổ.
+ Đặc điểm: phát triển nền kinh tế thị trường dẫn đến dân tộc có những đặc
điểm chung thống nhất rất chặt chẽ.
Giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các
giai cấp và tầng lớp bị trị, chiếm đoạt của cải xã hội vào tay mình. Các giai cấp,
tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả lao động mà họ còn bị áp bức
về chính trị, xã hội và tinh thần. Không có sự bình đẳng giữa giai cấp thống trị
và giai cấp bị trị, chẳng hạn giữa giai cấp các nhà tư bản với giai cấp những
công nhân làm thuê. Giai cấp bóc lột bao giờ cũng dùng mọi biện pháp và
phương tiện bảo vệ địa vị giai cấp của họ, duy trì củng cố kinh tế xã hội cho
phép họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi giai cấp. Công cụ chủ yếu là
quyền lực nhà nước. Lợi ích cơ bản của giai cấp bị trị đối lập với lợi ích cơ bản
của giai cấp thống trị. Đây là đối kháng về quyền lợi giữa những giai cấp áp bức
bóc lột và những giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bị bóc lột.
Đối kháng là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp. Có áp bức thì có đấu
tranh chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không do một lý thuyết xã hội nào
tạo ra mà là hiện tượng tất yếu không thể tránh được trong xã hội có áp bức giai
cấp.
Cũng có nhiều nhà kinh tế học tư sản như: Chie, Ghiđô, Minhê, … của xã
hội học tư sản hiện đại cũng đã phát kiến và luận giải về giai cấp nhưng xét đến
cùng cũng chỉ là sự giải thích mơ hồ về giai cấp và lãng tránh các vấn đề cơ bản
về giai cấp và quan hệ giai cấp.

7


Và chỉ có đến với triết học Mác-xít, đứng trên quan diểm duy vật và lịch
sử, gắn liền giai cấp với phương thức sản xuất với quan hệ sản xuất trong từng
giai đoạn lịch sử nhất định thì mới hiểu rõ được giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng
kiến vĩ đại” của Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau:
“Người ta gọi là giai cấp, những tập đồn to lớn gồm những người khác
nhau về địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử; về

vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách
thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai
cấp là tập đồn người, chiếm đoạt lao động của tập đồn khác do chỗ các tập
đồn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”.
Từ định nghĩa trên cho thấy các tập đồn người trong một chế độ kinh tế xã
hội nhất định do chế độ đó sản sinh ra, giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội
có tính lịch sử.
Để hiểu được đặc trưng của từng giai cấp cụ thể, phải đặt nó trong hệ
thống, trong mối quan hệ với giai cấp đối lập. Bản chất của giai cấp thể hiện ở
sự khác nhau về địa vị giữa các tập đồn người trong hệ thống kinh tế – xã hội
nhất định. Sự tồn tại của giai cấp gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định
của sự phát triển sản xuất vật chất xã hội, gắn liền với những phương thức sản
xuất nhất định. Trong một hệ thống kinh tế – xã hội có giai cấp, nếu tập đồn
người này nắm
Nguồn gốc giai cấp: Những kẻ cã chức cã quyền trong thị tộc, bộ lạc dùng
quyền lực chiếm đoạt TLSX, trở thành giai cấp thống trị.
- Tï binh bắt được trong các cuộc chiến tranh bị biến thành nơ lệ.
Kết cấu giai cấp:

8


Từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đến nay đều ln tồn tại hai giai cấp
cơ bản đối kháng gắn liền với phương thức sản xuất thống trị của xã hội đó. Đó
là chủ nơ và nơ lệ trong chế độ nơ lệ; đòa chủ và nông nô trong chế độ phong
kiến; tư sản và vơ sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp của mỗi chế
độ kinh tế – xã hội vừa là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế – xã hội vừa là
giai cấp quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống sản xuất trong xã hội đó.
Trong đó, giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ kinh tế,
xã hội đang tồn tại. Ngồi hai giai cấp cơ bản đó, thì mỗi kết cấu giai cấp xã hội

còn có giai cấp khơng cơ bản.
Như đã đề cập ở trên thì còn có các tầng lớp trung gian, là sản phẩm của
chính phương thức sản xuất đang thống trị, là kết quả của q trình phân hóa xã
hội khơng ngừng diễn ra trong xã hội. Nó khơng giữ địa vị cơ bản trong phương
thức sản xuất đang tồn tại và rất dễ bị phân hóa, gia nhập vào giai cấp thống trị
hoặc rơi vào các địa vị giai cấp bị trị. Đó là tầng lớp bình dân trong xã hội nơ lệ,
tầng lớp tiểu tư sản thành thị và nơng thơn trong xã hội tư bản.
Xã hội có giai cấp nào cũng tồn tại một tầng lớp xã hội có vai trò quan trọng
về kinh tế – xã hội – chính trị – văn hóa, nếu là tầng lớp tri thức . Một câu hỏi
đặt ra, vậy tri thức có phải là một giai cấp hay một tầng lớp đặc biệt đứng ngồi
giai cấp. Tri thức là khái niệm dùng để chỉ những người làm nghề thuộc về lao
động trí óc chứ khơng phải là khái niệm dùng để chỉ giai cấp. Bản thân một tri
thức nào đó cũng xuất thân từ một giai cấp nhất định. Đó chỉ là xuất thân của
một tri thức.
Ðấu tranh giai cấp
Ðịnh nghĩa:

9


Lờ Nin nh ngha: "Cỏc cuc u tranh ca qun chỳng b tc ht quyn
b ỏp bc v lao ng, cuc u tranh ca nhng ngi cụng nhõn lm thuờ hay
nhng ngi vụ sn ch.
Trong xó hi cú giai cp, quan h giai cp l quan h trỏi ngc nhau v a
v, lụùi ớch c kinh t ln tinh thn. Quan h ú dn n mõu thun gia thng tr
v b tr; giai cp bc v b ỏp bc; gia búc lt v b búc lt. Cỏc giai cp, tng
lp b tr khụng nhng b chim ot kt qu lao ng ca h m h cũn b ỏp
bc v chớnh tr, xaừ hoọi, tinh thn. Vỡ cú ỏp bc giai cp nờn tt yu cú u tranh
giai cp, mõu thun i khỏng giai cp l nguyờn nhõn trc tip dn n u
tranh giai cp. Chớnh vỡ vy m Lờnin ó nh ngha u tranh giai cp l: cuc

u tranh ca qun chỳng b tc ht quyn, bũ ỏp bc v lao ng chng li bn
c quyn, c li, bn ỏp bc v bn n bỏm; cuc u tranh ca nhng ngi
cụng nhõn lm thuờ hay nhng ngi vụ sn chng li nhng ngi hu sn hay
giai cp t sn.
Do vy, thc cht ca cuc du tranh gii quyt mõu thun v mt li
ớch ca giai cp b thng tr ;b búc lt, b ỏp bc, chng li s búc lt, ỏp bc ca
giai cp thng tr. Nhng chỳng ta cng cn lu ý trỏnh hiu nhm rng, giai
caỏp b tr, b búc lt chng li giai cp thng tr khụng phi l chng li s thng
tr ca giai cp thng tr m chng li s ỏp bc, búc lt ca giai cp thng tr.
Cũn vic giai cp no nm gi a v thng tr ú l do lch s quyt nh. Chng
hn, giai cp cụng nhõn tuy gi a v thng tr nhng khụng h ỏp bc hay búc
lt giai cp khỏc trong xó hi.
Khụng cú cỏi gỡ t nhiờn m cú c, nu mõu thun i khỏng giai cp l
nguyờn nhõn trc tip ca u tranh giai cp thỡ nguyờn nhõn khỏch quan ú l
s phỏt trin mang tớnh xó hi hoỏ ngy cng sõu rng ca lc lng sn xut

10


với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội đó là
mâu thuẫn giai cấp lao động bị thống trị, bóc lột, áp bức. Bởi vì giai cấp lao
động luôn là lực lượng sản xuất chính của xã hội nên nó đại diện cho phương
thức sản xuất mới, tiến bọ;hiện đại. Trong khi giai cấp thống trị, bóc lột thì lại
dùng sức mạnh kinh tế, chính trị, tư tưởng, kể cả bạo lực để bảo vệ chế độ
đương thời luôn đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
Các giai cấp bóc lột của các hình thái xã hội khác nhau cũng có thể đối
kháng về lợi ích như giữa giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến. Nhưng trước
sự phản kháng của giai cấp bị bóc lột, chúng đã liên kết với nhau. Do đó, thực chất
của đối kháng giai cấp là đối kháng lợi ích giữa giai cấp bị bóc lột và giai cấp
bóc lột.

Đấu tranh giai cấp không chỉ đơn thuần là giải quyết các mâu thuẫn đối
kháng giữa các tầng lớp, giai caáp thoáng trị và bị trị trong xã hội mà đấu tranh
giai cấp lại có một vai trò to lớn đối với sự phát triển của xã hội, chính là năng
lực phát triển của xã hội có giai cấp.
Vai trò
- Ðấu tranh giai cấp là một trong những động lực phat triển của xã hội có
giai cấp.
- Ðấu tranh giai cấp sẽ dần dần cách mạng xã hội, thay thế PTSX cũ bằng
PTSX mới tiến bộ hơn sự phát triển của sản xuất xã hội.
- Góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu. Cải tạo đồng thời giai
cấp cách mạng.
II. Vấn đề giai cấp ở Việt Nam
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về giai cấp, đấu tranh giai cấp.
11


- Cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng dân tộc
phải như " đôi cánh của một con chim"
- Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc song
phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Nguyên nhân của cuộc đấu tranh vô sản:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cũng xuất phát từ mâu thuẫn đối kháng.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân cà giai cấp, tầng lớp nhân dân
lao động khác bị giai cấp tư sản thống trị, bóc lột; giai cấp tư sản nắm trong tay
toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội nên nắm luôn quyền tổ chức quản lý, đặc biệt
là nắm luôn quyền định đoạt thu nhập cho người lao động. Toàn bộ giá trị thặng
dư do người công nhân làm ra thì lại bị nhà tư bản chiếm không, trong khi nhà
tư bản chỉ cho người lao động hưởng một mức thu nhập tối thiểu để họ có thể
sống và tiếp tục làm việc cho họ chứ không để cho người lao động có cơ hội làm
giàu. Chính vì vậy, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích kinh tế xuất hiện. Khi bị áp

bức, bóc lột quá mức buộc người công nhân phải đứng dậy đấu tranh. Nếu xét
theo quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất ta thấy khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển cao thì cũng có nghĩa là
trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính xã hội hóa cao hơn, trong
khi quan hệ sản xuất vẫn mang tính tư nhân đậm nét mà cụ thể là quan hệ tư hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Cuộc đấu tranh này xóa bỏ quan hệ tư hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất cũng là xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ mọi điều
kiện tồn tại của sự phân chia xã hội thành giai cấp.
bản ngày một cao nhưng vẫn không là thay đổi bản chất của giai cấp công
nhân trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước đây công nhân bán sức lao động chân
tay là chủ yếu thì khi trình độ tri thức cao, họ lại bán lao động trí óc cho nhà tư
bản và cuối cùng thì họ cũng bị bóc lột giá trị thặng dư theo chiều sâu. Do đó,

12


dù CNTB có phát triển mạnh đến đâu thì cũng không thể làm thay đổi bản chất
bóc lột của nó và nhất định đến một lúc nào đó, khi mà giai cấp công nhân đã
thực sự lớn mạnh về số lượng và chất lượng thì họ sẽ tiến hành cách mạng vô
sản để lật đỗ giai cấp tư sản và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà đặc
biệt là quan hệ sản xuất tư bản đã lỗi thời.

13


Quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
- Mối quan hệ giữa giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu
tranh trong nội bộ nhân dân, đồn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây
dựng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Lợi ích của cơng nhân thống nhất với lợi ích tồn dân tộc trong mục tiêu

chung là: Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay.
Tính chất:
- Đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu
tranh sau cùng trong lịch sử xã hội có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh triệt để
nhất, sâu sắc nhất, rộng lớn, phức tạp, lâu dài nhất và n1o tất yếu dẫn đến cách
mạng vơ sản và chun chính vơ sản.
Nó phức tạp và lâu dài ở chỗ nó phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn tiến
hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ để giành chính quyền về tay nhân dân và
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cả hai cuộc cách mạng trên đều diễn ra gay
go và phức tạp.
- Trước khi giành được chính quyền thì nội dung của cuộc đấu tranh giữa
giai cấp vơ sản và giai cấp tu sản là đấu tranh kinh tế, tư tưởng và chính trị để
giành chính quyền về tay giai cấp vơ sản.
- Sau khi nền chun chính vơ sản được ra đời thì mục tiêu và hình thức
đấu tranh cũng thay đổi. Nhiệm vụ của cuộc đấu tranh này là xây dựng thành
cơng phương thức sản xuất mới, chế độ mới hơn hẳn phương thức sản xuất, chế
độ xã hội đã qua. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững thành quả cách
mạng, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức quản lý sản xuất, quản

14


lý xã hội, đảm bảo tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ sở đó thủ
tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội mới, cơng bằng, dân chủ và văn
minh. Đó vừa là mục tiêu đồng thời là nhân tố đảm bảo thắng lợi cho cuộc đấu
tranh của giai cấp vơ sản chống lại giai cấp tư sản.
Giai cấp cơng nhân nước ta ln là giai cấp tiên phong với sứ mệnh
lịch sử to lớn
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân: " Lãnh đạo cách mạng thơng qua

đội tiên phong là Ðảng cộng sản VN, giai cấp đại diện cho phuong thức sản xuất
tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực
lượng đi đầu trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước…"
Cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản ở nước ta hiện nay:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản ở nước ta có đặc trưng là gắn liền và
được tiến hành ngay sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân.
Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn q độ hiện nay cũng là một tất
yếu. Thật vậy, chúng ta đang ở thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội mà thời kỳ
q độ là thời kỳ tồn tại đan xen giữa cái cũ và cái mới. Cái cũ ở đây chính là
giai cấp tư sản, mặc dù không còn giữ đòa vị thống trị nhưng cơ sở kinh tế – xã
hội của nó vẫn còn; cái mới chính là giai cấp cơng nhân dù đã giành được
chính quyền nhưng khả năng, cơ sở kinh tế vẫn chưa vững chắc để đảm bảo cho
chính quyền đang có, nền chun chính vơ sản đang được thiết lập. Cho nên,
vẫn còn phải đấu tranh, đấu tranh để xóa bỏ tận gốc tàn dư của cái cũ đang kìm
hãm sự phát triển của cái mới. Hơn nữa, phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai
cấp tư sản đang phát triển thành hệ thống quốc tế, chúng liên minh tối đa để bóc
lột giai cấp vơ sản và do đó, giai cấp vơ sản đấu tranh từng giờ từng phút từng

15


giây. Mục tiêu của họ khơng chỉ là giành lại lợi ích riêng tư, giải phóng cho
mình mà giành chính quyền để nhân dân lao động làm chủ, xố bỏ tận gốc, triệt
để người bóc lột người.
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ IX, chúng ta tiếp tục khẳng định rằng,
hiện nay và cả trong thời kỳ q độ của nước ta còn tồn tại một cách khách quan
các giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp hiện nay phải nhận
thức cho đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung và hình thức
mới.
Thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay mà nhất là xu hướng tồn cầu

hóa ngày càng cao đã đặt nước ta trước nhiều nguy cơ và thử thách. Dĩ nhiên
cũng tạo cho ta nhiều cơ hội hòa nhập dễ dàng hơn vào thị trường thế giới. Và
Hội nghị Đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ (1-1999) của Đảng xác đònh 4 nguy
cơ hiện nay vẫn tồn tại và có nhiều diễn biến hơn, tụt hậu về kinh tế, diễn biến
hòa bình, nguy cơ chệch hướng XHCN và nguy cơ nạn tham nhũng. Để giữ
vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN đưa đất nước thốt ra khỏi những
nguy cơ trên thì các giai cấp, tầng lớp xã hội phải hợp tác, đồn kết trong mặt trận
dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng như đã từng hợp tác, đoàn kết
trong thời kỳ giành độc lập dân tộc.
Đấu tranh giai cấp diễn ra trong những điều kiện mới như sau:
+ Nước ta đang ở trong thời kỳ q độ lên CNXH chứ chưa thật sự trên con
đường xã hội chủ nghĩa.
+ Chủ nghĩa tư bản đang phát triển rất mạnh trên thế giới.
+ Xu thế hội nhập khu vực và thế giới ngày càng gia tăng.

16


- Xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng được yêu cầu về sản lượng, cơ cấu
và trình độ học vấn chuyên môn, khả năng nghề nghiệp của công nghiệp
hoá;hiên đại hoá đất nước.

17


THỰC TIỄN CUỘC ĐẤU TRANH GIAI CẤP TRONG THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA TRONG XU THẾ TOÀN CẦU HOÁ
Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ hiện nay:
Thứ nhất, Nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH là cuộc đấu tranh giữa hai con đường TBCN và XHCN.

Đúng vậy, chúng ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, Thực tế tiềm ẩn nhiều khuynh hướng phát
triển trái ngược nhau, có khuynh hướng phát triển tự phát lên CNTB và cả
khuynh hướng tự giác theo định hướng XHCN. Theo đó, khuynh hướng tự phát
lên CNTB được các thế lực thù địch chống đối độc lập dân tộc và CNXH lợi
dụng, khuyến khích, ủng hộ tiếp tay dưới nhiều hình thức (chúng đã dùng chiến
lược diễn biến hòa bình để làm điều đó). Nó biểu hiện một cách tinh vi và phức
tạp với nhiều mức độ khác nhau trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội,… Do đó, đấu tranh giai cấp hiện nay chính là cuộc đấu tranh chống
khuynh hướng tự phát lên CNTB. Cuộc đấu tranh này vô cùng gay go, phức
tạpvà gian nan. Chúng ta quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN mà cuộc đấu
tranh này lại càng khó khăn hơn. Vì vừa phải ngăn chặn khuynh hướng tự phát
lên CNTB nhưng phải giữ lại và phát triển các nhân tố kinh tế trung gian, quá độ
thậm chí phải phát triển CNTB trong một “giới hạn” có lợi về kinh tế nhằm tạo
tiền đề vật chất – kỹ thuật để lên CNXH. Thà là xóa bỏ sự tồn tại của giai cấp tư
sản (nhưng trong thực tế chúng ta chưa thể làm được điều này khi lực lượng sản
xuất của chúng ta chưa phát triển đến mức cao), tức còn dễ hơn là việc phải tạo
điều kiện cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhưng luôn trong trạng thái
canh chừng, vẫn phát triển và duy trì nó nhưng không để cho nó giữ vai trò
thống trị.

18


Như vậy, nhìn ở góc độ khái quát, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ mới là
đấu tranh giữa hai khuynh hướng vận động trái ngược nhau, đó là khuynh hướng
vận động khách quan mang tính tự phát của các nhân tố tiền TBCN, TBCN và
khuynh hướng khách quan mang tính tự giác của các nhân tố XHCN.
Thứ hai, Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo

định hướng XHCN.
Những diễn biến hết sức phức tạp trên thế giới và trong nước thời gian qua
cho thấy độc lập dân tộc chưa thực sự bền vững khi đất nước còn nghèo, chưa
phát triển, định hướng XHCN không thể giữ vững khi đất nước chưa vượt khỏi
tình trạng chậm phát triển. Vì vậy, chúng ta phải bằng mọi cách phát huy toàn
bộ sức mạnh của các giai cấp, tầng lớp xã hội hướng vào nhiệm vụ trung tâm
của giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Đặc biệt khi mà sự chống đối từ bên trong của một số phần tử
vẫn chưa chấm dứt và sự tiếp tay cho sự chống đối đó từ bên ngoài vẫn còn là
một thực tế. Với cách hiểu vấn đề như vậy, giúp chúng ta nhận thức đúng nhiệm
vụ trung tâm của thời kỳ quá độ là nhanh chóng phát triển lực lượng sản xuất,
thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Rõ ràng, sự kém
phát triển hay phát triển chậm là nguyên nhân đất nước bị phụ thuộc, mất độc
lập, mất tự chủ và đứng bên ngoài quá trình toàn cầu hóa. Thua kém về kinh tế
sẽ làm suy yếu về vị thế chính trị quốc tế và trong điều kiện như vậy sẽ khó giữ
được ổn định chính trị trong nước.
Đấu tranh toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội:
* Đấu tranh trong lĩnh vực kinh tế:
Đảng ta đã khẳng định các thành phần kinh tế bình đẳng cùng phát triển
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương này không

19


nhằm mục đích nào khác mà hướng tới phát huy mọi tiềm năng của dân tộc và
đáp ứng lợi ích của giai cấp, tầng lớp trong xã hội, giải phóng sức sản xuất, tạo
động lực cho xã hội phát triển. Mọi giai cấp, tầng lớp xã hội đều tìm thấy lợi ích
hợp pháp của giai cấp mình trong mục tiêu chung độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, dân chủ, văn minh. Mặt khác, hướng tới hợp tác đoàn kết giai
cấp, tầng lớp trên phương diện xã hội, Đảng khẳng định: “Tôn trọng những ý

kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, xóa bỏ mặc cảm, định
kiến phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp thành phần, xây dựng tinh thần cởi
mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”. Nhờ vậy mà trong những năm đổi
mới, nước ta đã nhận được nhiều sự đóng góp của các doanh nghiệp trong nước,
những người công nhân ở nước ngoài, những người tiểu chủ, tiểu thương,… cả
về vốn , kinh nghiệm, tri thức và cả bầu nhiệt huyết. Cho nên, đấu tranh ở đây là
ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực của các tầng lớp tư sản nhằm thực hiện chủ
trương hợp tác, đoàn kết vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên bản thân của nền kinh tế nhiều thành phần tự nó tiềm tàng khả
năng phát triển theo hướng TBCN, mà điều đó càng thuận lợi hơn trong bối
cảnh toàn cầu hóa TBCN. Chính vì vậy mà Văn kiện Đại hội Đảng lần IX khẳng
định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN”. Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước thì kinh tế tư bản tư nhân có khả năng tạo thành cơ sở xã hội, tạo khả năng
khách quan cho sự phát triển của CNTB. Do vậy, đấu tranh trên lĩnh vực kinh tế
nhằm đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều
thành phần của nước ta hiện nay.
Tóm lại, ngoài giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tri thức, nước ta còn
tồn tại những nhà doanh nghiệp, người sản xuất hàng hóa nhỏ, tiểu chủ, tiểu
thương. Trong giai đoạn hiện nay, để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều

20


thành phần, các giai tầng đều có vai trò nhất định, song để giữ vững định hướng
XHCN, giai cấp công nhân và liên minh của nó phải trở thành lực lượng đại diện
cho dân tộc.
* Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa:
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền độc lập về chính trị của các quốc gia, dân

tộc đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và hội nhập kinh tế toàn cầu trở thành
quá trình không thể đảo ngược, đấu tranh vì lợi ích dân tộc được triển khai mạnh
mẽ trên cả lĩnh vực văn hóa. Đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa để chống lại sự
đồng hóa, bài trừ tệ nô dịch, củng cố những giá trị truyền thống và tôn trọng
những bản sắc đặc trưng của dân tộc, đẩy mạnh phát triển tín ngưỡng, ngôn ngữ
văn học nghệ thuật dân tộc. Sự bành trướng nô dịch của CNĐQ trên lĩnh vực
văn hóa đối với thế giới thứ 3 được thực hiện bằng các phương tiện thông tin đại
chúng, mạng lưới xuất bản phim ảnh, lối sống,… Nó còn được sự hỗ trợ lợi hại
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa khổng lồ và của hệ thống quyền lực chính trị
“sen đầm quốc tế” hùng hậu. Một khi vẫn vẫn tồn tại các thế lực muốn giành
kéo quyền phán xét về các vấn đề dân tộc, nhân quyền tự do và phát triển trên
toàn thế giới thì cuộc đấu tranh vì độc lập và chủ quyền đấu tranh vẫn là nhiệm
vụ quan trọng và cấp thiết.
Trước hết, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng để khắc phục những tư tưởng,
hành động tiêu cực, sai trái: “ đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực tư tưởng gắn liền
với cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng. Đặc biệt là khi tệ quan liêu,
tham những đã trở thành nguy cơ đe dọa, cản trở sự phát triển của đất nước thì
đấu tranh giai cấp hiện nay cũng chính là cuộc đấu tranh chống tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức , lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ Đảng viên. Đó là cuộc đấu tranh không dễ dàng và không
kém phần quyết liệt. Chúng ta cũng không được quên rằng, hiện nay có một số

21


thế lực bên ngoài chẳng ưa thích gì sự tồn tại của nước ta, của chế độ ta. Các thế
lực đó cũng chẳng ngần ngại gì trong việc dùng mọi cách đánh phá ta từ bên
trong thông qua những kẻ chống đối, những phần tử thoái hóa, biến chất và
những tệ nạn khác nhau. Theo đó, cuộc đấu tranh để làm trong sạch nội bộ sẽ
góp phần vào việc bảo vệ chế độ, bảo vệ độc lập dân tộc và thành quả cách

mạng; là một bộ phận không tách rời của cuộc đấu tranh giai cấp. Điều đáng sợ
nhất lúc này là sự thoái hóa từ bên trong cũng là căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ
làm suy yếu đất nước, suy yếu chế độ. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì
tham nhũng phát triển và diễn ra với tính chất, mức độ nghiêm trọng hơn với
phạm vi ngày càng mở rộng, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn. Tham nhũng
không chỉ biểu hiện sự suy thoái, thoái hóa về đạo đức, nhân cách con người mà
tham nhũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của đất nước vì lượng
tiền mà tham nhũng đụng chạm tới ngày càng lớn, có vụ lên tới hàng nghìn tỷ
đồng. Trước đây hoạt động tham nhũng tập trung tương đối nhiều vào việc dùng
quyền lực để được tiền tài. Ngày nay, việc dùng tiền tài để thao túng quyền lực,
thậm chí để đạt được quyền lực, thậm chí để đạt được quyền lực người ta dùng
tiền để “mua quan” cũng không còn là chuyện hiếm. Chính vì vậy mà đấu tranh
chống tham ô, tham nhũng là cần thiết và bức bách ở nước ta trong thời kỳ quá
độ, đặc biệt là trong xu thế hội nhập hiện nay.
Tác hại vô cùng nghiêm trọng của nạn tham nhũng, buôn lậu là làm suy
yếu bộ máy Đảng và Nhà nước, làm xói mòn sức mạnh vật chất và tinh thần của
quốc gia, làm suy yếu lòng tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước và chế độ.
Hơn thế nữa, với chính sách mở cửa, giao lưu hợp tác giữa Việt Nam với
các nước trên thế giới và khu vực đã tạo điều kiện để buôn bán ma túy, buôn bán
phụ nữ, trẻ em, rửa tiền,… thâm nhập vào nước ta.

22


Vậy đấu tranh chống tham nhũng, các hành vi tiêu cực vì lợi ích cá nhân là
tất yếu trong thời kỳ mở cửa hội nhập hiện nay. Vậy phải đấu tranh như thế nào
để ngăn chặn và đẩy lùi được nó:
+ Đấu tranh chống tham nhũng gắn chặt với nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới, phát triển kinh tế – xã hội.
+ Đấu tranh chống tham nhũng phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và

“chống”, lấy “xây” là cơ bản, vừa tích cực chủ động phòng ngừa, ngăn chặn,
vừa kiên quyết phát hiện, xử lý kịp thời nghiêm minh đối với các hành vi tham
nhũng.
+ Đấu tranh chống tham nhũng phải sử dụng các biện pháp đồng bộ, toàn
diện, sử dụng và kết hợp các biện pháp tư tưởng với tổ chức, giáo dục với hành
chính, kinh tế với chính trị.
Bên cạnh những vấn đề trên, đấu tranh giai cấp hiện nay còn nhằm làm
thất bại âm mưu và hành động chống đối của các thế lực thù địch, đe doạ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ chiến lược toàn cầu phản cách mạng
chống phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, các thế lực hiếu chiến và
chống cộng luôn tập trung mũi nhọn tuyên truyền về sự phá sản của CNXH và
sự vĩnh hằng của CNTB. Mục đích của chúng là nhằm giảm bớt hoặc vô hiệu
hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, tiến tới tiêu diệt Đảng Cộng sản và Việt Nam
được xác định là một trong những trọng điểm trong chiến dịch tuyên truyền
chống CNXH. Mục tiêu số một của chúng lúc này là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, khai tử nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới lật đỗ chính quyền nhân dân có Đảng Cộng sản
lãnh đạo, thay nó bằng chế độ tư bản. Điều đó càng minh chứng tính chất quyết
liệt của cuộc đấu tranh giữa hai lý tưởng, hai hệ tư tưởng và giữa hai chế độ xã
hội: xã hội XHCN và TBCN.

23


Các nhà tư tưởng chống cộng đã xuyên tạc, cắt xén thô bạo, bác bỏ vô lý
những luận điểm căn bản nhất của chủ nghĩa Mác – Lênin. Họ ra sức tô son, trét
phấn cho CNTB, nào là CNTB đã thay đổi bản chất, với lại hàm hồ nói rằng,
CNXH có hàng trăm thứ khuyết tật, không dân chủ, không dân quyền.
Gần đây, một số người ra vẻ lên tiếng đòi Mỹ quan hệ bang giao tốt với
Việt Nam nhưng kỳ thực với dụng ý là để làm biến đổi dần dần chế độ chính trị

của Việt Nam. Họ cho rằng: “Căn bản là kinh tế,kinh tế kéo theo chính trị, thay
đổi kinh tế sẽ kéo theo thay đổi thể chế chính trị,.., Mỹ vào Việt Nam mặc nhiên
sẽ dần dần áp dụng những định chế kinh tế thị trường làm thay đổi căn bản thể
chế chính trị. Và với chiến lược diễn biến hòa bình, chúng muốn đánh bại
CNXH và mà không cần dùng đến súng khói. Tóm lại, “vượt trên ngăn chặn”,
mở rộng và dính líu nhằm xóa bỏ triệt để CNXH là mục tiêu chiến lược bất biến
của các thế lực tư bản đế quốc. Khi thấy được tính chất nguy hiểm của chiến
lược “diễn biến hoà bình” thì ta mới thấy được tầm quan trọng cũng như là vai
trò của cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ hiện nay – thời kỳ mở cửa hội
nhập. Đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc và CNXH.
Kết luận:
Như vậy, từ những gì ở trên đã nói, ta có thể khẳng định rằng, nội dung chủ
yếu của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống
áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động
tiêu cực, sai trái, đấu tranh là thất bại mọi âm mưu và hành động và hành động
chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta
thành nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

24


Tất cả những nội dung trên là biểu hiện cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
dưới nhiều hình thức muôn màu muôn vẻ, đồng thời cũng mang tính chất của
cuộc đấu tranh dân tộc. Vì vậy mà cần phải hiểu chúng, vấn đề đấu tranh giai
cấp ở nước ta hiện nay cần đổi mới nhận thức, không lặp lại những sai lầm ấu trĩ
như trước đây; nhưng không vì thế mà cho rằng ngày nay không còn đấu tranh
giai cấp. Chúng ta phải thấy được rằng đấu tranh giai cấp chưa chấm dứt được
nếu trong xã hội vẫn còn tồn tại giai cấp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay của

đất nước thì nội dung, tính chất và mức độ của cuộc đấu tranh trên là hoàn toàn
khác trước nên cần phải có sự nhận thức đúng đắn và khoa học. Chúng ta không
nên lặp lại quan điểm sai lầm cho rằng khi đã có độc lập dân tộc hoàn toàn rồi
thì chỉ cần tập trung vào một việc là nhanh chóng giải quyết mâu thuẫn giai cấp,
nhanh chóng giải quyết vấn đề ai thắng ai

25


×