Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Lý luận hàng hóa sức lao động của c mác với vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở hải phòng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.54 KB, 55 trang )

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác là một cống hiến vĩ đại trong lịch
sử khoa kinh tế chính trị. Đó là ánh sáng soi đường giúp chúng ta nhận thức về
nguồn nhân lực. Đặc biệt trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì nguồn
lực con người càng có ý nghĩa to lớn cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc
nghiên cứu nguồn lực con người luôn là một vấn đề có tính thời sự . Con người vừa
là chủ thể của lịch sử vừa là sản phẩm của lịch sử. Vì vậy, con người là nhân tố đưa
đến sự phát triển xã hội, sự phát triển đất nước, bên cạnh đó con người đó như thế
nào lại bị chi phối bởi chính hoàn cảnh lịch sử ấy.
Trong những thập kỷ cuối thế kỷ XX , nảy sinh hiện tượng là một số nước
Đông Nam Á có tốc độ phát triển kinh tế thần kỳ gây ra nhiều sự chú ý trong giới
nghiên cứu và họ cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi tại sao những nước như Nhật
Bản, Singgapo , Đài Loan, Hồng Kông … lại có sự phát triển đó. Kết quả của những
nghiên cứu cho thấy có nhiều nhân tố tạo nên như văn hoá truyền thống, trình độ dân
số, kỹ thuật công nghệ …Song câu trả lời làm ngạc nhiên giới nghiên cứu là sự nhảy
vọt về kinh tế ở các nước đó sự liên hệ với yếu tố truyền thống, con người truyền
thống, gắn với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Đối với đất nước ta, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, nông
nghiệp là chính tiến lên chủ nghĩa xã hội, lại chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh
kéo dài. Việc khắc phục những tàn dư của xã hội cũ, của nền sản xuất cũ như thói
quen tác phong sản xuất nông nghiệp của nông dân, tâm lý sợ sệt trong đầu tư sản
xuất kinh doanh, cách thức làm việc tuỳ tiện không khoa học, lối sống gia trưởng còn
ăn sâu vào nếp nghĩ của con người Việt Nam hiện nay đang là một sự cản trở lớn đối
với sự phát huy nguồn nhân lực trong phát triển xã hội.
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cùng với nó là phát triển một
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện khoa học công
nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão và nền kinh tế thị trường thế giới đã
1



phát triển đến trình độ cao. Chúng ta đã tham gia và là thành viên thứ 150 của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Sự tham gia đó đã mở ra cơ hội cũng như thách thức
lớn đối với chúng ta. Đảng và nhà nước ta đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Hải Phòng là một địa phương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, có
nền kinh tế sôi động với đủ các loại ngành nghề. Nơi đây có vị trí địa lý thuận lợi, là
cảng biển quan trọng của cả nước. Việc phát triển kinh tế của thành phố có ý nghĩa
chiến lược góp phần làm nên sự phồn vinh của đất nước. Số dân ở Hải Phòng khá
đông, nguồn nhân lực khá dồi dào phục vụ cho phát triển kinh tế của thành phố.
Trong những năm trở lại đây nguồn nhân lực ở Hải Phòng phát triển khá mạnh thể
hiện ở những phương diện sau: số lượng người trong độ tuổi lao động cao, số người
có trình độ tay nghề khá lớn. Các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực ngày càng nhiều: Đại
học Hải Phòng, Đại học hàng hải, Đại học Y…và hệ thống các trường nghề.
Nguồn lực con người luôn có vai trò to lớn trong sự phát triển bền vững của
Hải Phòng nói riêng cũng như của các địa phương khác. Trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội đây là nhân tố không thể
thay thế được. Tuy nhiên, vấn đề nguồn nhân lực vẫn chưa thực sự đáp ứng được cho
việc phát triển ổn định lâu dài, nhanh mạnh của thành phố. Đặc biệt trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của thành phố giai đoạn 2011- 2020.
Trước tình hình đó, việc đi sâu nghiên cứu, làm rõ thực trạng nguồn nhân lực
ở Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để rút ra những
bài học bổ ích, vạch ra phương hướng, giải pháp nhằm phát huy tối ưu nhất sức
mạnh nguồn nhân lực và khắc phục mặt còn tồn tại là một việc làm cần thiết, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực.
Với lý do trên, em đã chọn vấn đề: “ Lý luận hàng hóa sức lao động của
C.Mác với vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền

vững của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là nhân tố quyết định
2


trong việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, do đó nó được dư luận và giới
nghiên cứu quan tâm. Có thể khái quát một số loại hình nghiên cứu chủ yếu có liên
quan đến đề tài như sau:
“ Thị trường lao động Việt Nam, thực trạng và giải pháp” của Tiến sĩ Nguyễn
Thị Thơm, khoa kinh tế phát triển chủ biên - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2006.
“ Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá qua
thực tiễn tỉnh Phú Thọ ”, của Trần Văn Nga
Ngoài ra còn có một số luận văn, luận án khác cũng nghiên cứu về vấn đề này
như:
“ Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết việc làm ( qua thực tế Hà Nội )
”, luận án tiến sĩ kinh tế của Đỗ Thi Xuân Phương, Học viện Chính tri quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 2000 .
“ phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở
tỉnh Thanh Hoá đến năm 2010 ”, luận án tiến sĩ kinh tế của Bùi Sỹ Lợi, Trường Đại
học kinh tế quốc dân, năm 2003.
“ Thị trường lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ”,
luận văn thạc sỹ kinh tế của Vương Thanh Tú, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2004. Nghiên cứu trên góc độ lý luận thời kỳ quá độ.
Việc nghiên cứu “ lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác với vấn đề phát
triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”
vẫn là một đề tài mới mẻ. Chính vì vậy, nó càng có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận
và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ lý luận hàng hoá sức lao động của C. Mác với phát

triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Từ đó, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát triển
nguồn nhân lực ở Hải Phòng.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
3


Để đạt được mục đích trên đề tài phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Phân tích lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác
- Làm rõ thực trạng nguồn nhân lực ở Hải Phòng thời kỳ 2001- 2010
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực
ở Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thời kỳ 2011 -2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu phân tích lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác với
vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc phát triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng qua điều tra
thực trạng nguồn nhân lực từ 2000 đến 2010. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải
pháp để phát triển nguồn nhân lực ở Hải Phòng thời kỳ 2011 – 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan
điểm của Đảng, nhà nước về vấn đề phát triển nguồn nhân lực để phân tích những
vấn đề đặt ra.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp được sử dụng trong đề tài là phương pháp biện chứng duy vật.
Đồng thời sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, so sánh, lịch sử và
lôgic…

6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và thực trạng
nguồn nhân lực ở Hải Phòng bao gồm những mặt mạnh và mặt hạn chế cần khắc
phục. Trên cơ sở đó, đề tài nêu lên môt số phương hướng và giải pháp nhằm phát
triển nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho việc phát triển thành phố.
7. Kết cấu của đề tài
4


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
được kết cấu thành ba chương, sáu tiết.
Chương 1: Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Chương 2: Thực trạng nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp để phát triển nguồn nhân lực ở Hải
Phòng.

5


Chương I :
Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước
1.1 Lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác và ý nghĩa vận dụng vào việc phát
triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam hiện nay.
1.1.1 Lý luận hàng hoá sức lao động của C. Mác
Trong lịch sử kinh tế đã có rất nhiều nhà tư tưởng nghiên cứu về vấn đề hàng

hoá sức lao động và có những cống hiến quan trọng: A.Smit, David Ricardo…
Nhưng có thể nói, trước Mác chưa có một nhà kinh tế học nào nhìn nhận rõ ranh giới
giữa hai phạm trù “ lao động và sức lao động”. Nhờ có quan điểm đúng đắn về lao
động và sức lao động, C.Mác đã trở thành người đầu tiên trình bày một cách khoa
học lý luận về hàng hoá sức lao động. Lý luận này đã từng bước hoàn thiện qua
nhiều tác phẩm khác nhau và đạt đến đỉnh cao trong bộ Tư bản. Trong bộ Tư bản,
C.Mác viết:
“ Tư bản chỉ phát sinh ở nơi nào mà người chủ những tư liệu sản xuất và tư
liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự do với tư cách là người bán sức lao
động của mình ở trên thị trường. Bây giờ, chúng ta phải nghiên cứu một cách tường
tận hơn thứ hàng hoá đặc biệt, tức là sức lao động” [3, 255].
Theo C.Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực
thể chất và tinh thần tồn tại trong mọi cơ thể, trong mọi con người đang sống và
được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [2,
251].
* Thứ nhất, hàng hoá sức lao động đã thể hiện tính đặc biệt ở chỗ nó được
gắn liền với chủ thể của nó. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen thì:
“ Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống…và có thể phân biệt con người với súc vật ngay khi
6


con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sản xuất của mình…như thế là con người
đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình ” [4, 29]. Sức lao động tồn
tại trong cơ thể sống của người lao động, là nhân tố cơ bản và đầu tiên trong mọi
hoạt động xã hội.
Về mặt số lượng, sức lao động phụ thuộc chủ yếu vào số lượng người lao động
và thời gian lao động của mỗi người. Chất lượng sức lao động không chỉ đơn thuần
là trình độ tay nghề, kỹ năng làm việc của người lao động mà còn bao gồm cả ý thức
trách nhiệm, ý thức chấp hành kỷ luật, thái độ đối với công việc, đối với người sử

dụng lao động, sức khoẻ của người lao động… Như vậy, cả về mặt sồ lượng và chất
lượng, hàng hoá sức lao động hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân người sở hữu loại
hàng hoá này.
* Thứ hai, hàng hoá sức lao động là loại hàng hoá khi bán không mất quyền
sở hữu. C.Mác cho rằng: “muốn cho người chủ tiền tìm được trên thị trường một sức
lao động với tư cách là hàng hoá thì một số những điều kiện khác nhau phải được
thực hiện” [3, 251].
Điều kiện thứ nhất: Người chủ sức lao động “ phải có khả năng chi phối được
sức lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực lao động của chính
mình, thân thể của mình. Anh ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan
hệ với nhau với tư cách là những người chủ hàng hoá bình đẳng với nhau…”; “
Muốn duy trì quan hệ ấy, người sở hữu sức lao động bao giờ cũng chỉ bán sức lao
động đó trong một thời gian nhất định thôi, bởi vì anh ta bán đứt hẳn toàn bộ sức lao
động ấy một lần thì…anh ta trở thành người nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá anh
ta sẽ trở thành một hàng hoá” [5, 252].
Ở đây chúng ta thấy được sự khác biệt giữa khái niệm “hàng hoá người lao
động” và “ hàng hoá sức lao động ”.
Khi người lao động là hàng hoá, bị đem ra mua bán như bất kỳ một loại hàng
hoá nào khác thì người mua loại hàng hoá này được quyền chiếm hữu thể xác và sức
lao động của người lao động đó. Người lao động không có quyền sở hữu đối với bản
thân và sức lao động của mình, không có quyền tự do thân thể, không có quyền tự do
sử dụng thành quả lao động của mình làm ra…Còn người công nhân làm thuê chỉ
7


bán quyền sử dụng sức lao động trong một thời hạn nhất định, chứ không bán quyền
sở hữu sức lao động của mình, sức lao động của người công nhân là hàng hoá chứ
không phải bản thân người công nhân là hàng hoá. Trước sau người công nhân vẫn là
chủ sở hữu hàng hoá sức lao động của mình. Do đó, “ khi bán sức lao động, anh ta
vẫn không từ bỏ quyền sở hữu về sức lao động ấy” [5, 254].

Điều kiện thứ hai: “Người chủ sức lao động phải không còn có khả năng bán
những hàng hoá trong đó lao động của anh ta được vật hoá mà trái lại, anh ta buộc
phải đem bán với tư cách là hàng hoá chính ngay cái sức lao động chỉ tồn tại ở trong
cơ thể sống của anh thôi” [5, 252].
Người công nhân muốn bán những hàng hoá khác với sức lao động của mình
thì người công nhân phải có tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt để tự kết hợp với sức
lao động của mình nhằm sản xuất ra những loại hàng hoá khác ấy. Khi họ hoàn toàn
không có những vật cần thiết ấy để thực hiện sức lao động của mình, thì phải bán
chính lao động ấy. Ngày nay, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức, hai
điều kiện cho sự ra đời của hàng hoá sức lao động vẫn còn nguyên giá trị của nó.
Tuy nhiên, ở điều kiện thứ hai đã có những biểu hiện mới. Người công nhân có thể
trở thành người chủ một phần vốn của công ty, chủ một phần tư liệu sản xuất và lao
động thặng dư của họ được bồi hoàn lại. Những người lao động này không phải
không có tư liệu sản xuất. Vì vậy, sức lao động của họ có tính chất hàng hoá, chứ
không phải hàng hoá sức lao động theo đúng nguyên nghĩa như định nghĩa của
C.Mác. Trong thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, người lao động đều là
người làm chủ tập thể tư liệu sản xuất, vì vậy sức lao động của họ không phải là
hàng hoá sức lao động. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, việc đánh giá sự
cống hiến của người lao động vẫn phải dựa vào hình thức tiền lương mà tiền lương
lại là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá sức lao động. Do vậy, sức lao động của
người lao động trong kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải được coi là hàng hoá
sức lao động để tính toán tiền lương theo mặt bằng tiền lương chung của toàn xã hội.
Bởi vì, đã là tiền lương trong nền kinh tế thị trường thì phải phản ánh giá trị hàng
hoá sức lao động. Nhưng có điểm khác đó là trong khu vực kinh tế nhà nước phần
bồi hoàn cho lao động thặng dư được coi trọng và có xu hướng tăng lên, còn trong
8


khu vực kinh tế tư nhân, do quan hệ người bóc lột người lao động vẫn còn tồn tại nên
phần lao động thặng dư của người lao động vẫn bị người sử dụng lao động chiếm

dụng trong khuôn khổ pháp luật.
* Thứ ba, tính đặc biệt của hàng hoá sức lao động còn được thể hiện ở sự khác
biệt trong cách xác định về giá trị và giá trị sử dụng của nó.
Là một hàng hoá, sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá
trị.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động là công dụng của nó, cần thiết cho
nhu cầu của người mua và sử dụng nó mà trước hết là khả năng tạo ra một lượng giá
trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư và là
chìa khoá để giải đáp mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Quá trình sử dụng
sức lao động làm thuê cũng là quá trình làm tăng giá trị. Tính có ích của sức lao động
không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà còn: “ Cái có ý nghĩa quyết định
là giá trị sử dụng đặc biệt của thứ hàng hoá đó là cái đặc tính của nó làm một nguồn
sinh ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó”
[5, 252].
Nếu giá trị của bất cứ hàng hoá thông thường nào được xác định là thời gian
lao động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá đó thì giá trị hàng hoá sức lao động
được biểu hiện không phải qua thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra nó
mà chỉ là thời gian lao động xã hội cần thiết để duy trì và phát triển nó. Sở dĩ tính
như vậy là vì để hình thành ra sức lao động từ khi người lao động nằm trong bụng
mẹ cho đến khi người lao động mang sức lao động của mình ra thị trường trao đổi thì
chi phí là không thể tính hết được. Bên cạnh đó, do tính đặc biệt của hàng hoá sức
lao động là không bao giờ tách khỏi người mang nó và người mang nó luôn có quyền
sở hữu đối với sức lao động của mình nên không nhất thiết phải tính thời gian lao
động xã hội cần thiết kết tinh trong hàng hoá. Giá trị của hàng hoá sức lao động được
tính bằng giá trị tư liệu sinh hoạt duy trì đời sống của bản thân người lao động và gia
đình cộng với chi tiêu cần thiết cho tái sản xuất mở rộng sức lao động của bản thân
người lao động.
9



Hàng hoá sức lao động khác với các loại hàng hoá thông thường ở chỗ dù có
được đem ra thị trường để trao đổi hay không thì nó cũng vẫn đòi hỏi phải được cung
cấp những điều kiện vật chất và tinh thần nhất định để tồn tại và phát triển.
Nếu giá trị sử dụng của hàng hoá thông thường được biểu hiện trong quá trình
tiêu dùng nó thì giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động được biểu hiện ở chỗ nó được
sử dụng như một yếu tố của quá trình sản xuất. Khi tiêu dùng sức lao động, đối với
hàng hoá thông thường quá trình sử dụng sẽ làm cho giá trị sử dụng của hàng hoá
giảm dần. Quá trình sử dụng sẽ làm tăng giá trị sử dụng hàng hoá sức lao động.
Người lao động càng làm việc lâu thì trình độ nghề nghiệp, kỹ năng lao động của họ
càng cao, sản phẩm họ làm ra ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng tốt hơn. Sức
lao động khi được sử dụng sẽ tạo giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Lý luận hàng hoá sức lao động là cơ sở giúp C.Mác xây dựng và phát triển học
thuyết giá tri thặng dư, một học thuyết vạch rõ nguồn gốc và bản chất bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và chứng minh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với tiến
trình phát triển của lịch sử xã hội loài người.
1.1.2 Ý nghĩa vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C. Mác vào phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta nói chung, ở Hải Phòng nói riêng trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, từng
người lao động tuỳ theo hoàn cảnh và điều kiện của mình cần phải học tập, rèn luyện
sức khoẻ, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ lao động đúng đắn để không ngừng hoàn thiện
giá trị sử dụng sức lao động của bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu của các tổ chức, đơn
vị và cá nhân trong xã hội ở nghề nghiệp chuyên môn của mình hoặc để chuyển sang
ngành nghề khác. Mặt khác, người sử dụng lao động cũng cần phải trả lương đảm
bảo tốt cho quá trình tái sản xuất sức lao động của bản thân và của con cái người lao
động, tạo động lực cho người lao động trong quá trình lao động sản xuất.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn tuân theo những quy luật chung của nền
kinh tế thị trường, do đó một bộ phận sức lao động trở thành hàng hoá sức lao động.
10



Vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu nghiêm túc lý luận hàng hoá sức lao động, vận dụng
hợp lý vào điều kiện thực tiễn để thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Ở Hải Phòng hiện nay vấn đề phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân
lực chất lượng cao luôn được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Việc phát huy
tốt nguồn nhân lực sẽ có ý nghĩa quyết định tới sự giàu, mạnh của thành phố. Do đó,
ngay từ lúc này toàn thể mọi người cần có cái nhìn thật chính xác về nguồn nhân lực
để có thể hiểu và tạo mọi điều kiện cho nguồn nhân lực có thể phát huy hết sức mạnh
vốn có.
1.2 Nguồn nhân lực và vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
1.2.1 Những nhận thức chung về nguồn nhân lực
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển
kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, khoa học - công nghệ, con người. Trong các
nguồn lực đó thì nguồn nhân lực là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Bởi lẽ, những
nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả khi nguồn lực con người được phát
huy. Chúng ta biết rằng điều kiện tự nhiên, khí hậu, địa lý, nguồn vốn có vai trò rất
lớn trong sự phát triển của một quốc gia. Song những yếu tố đó ở dưới dạng tiềm
năng, tự chúng là những khách thể bất động. Chúng chỉ trở thành nhân tố “ khởi
động ”, và phát huy tác dụng khi kết hợp với nguồn lực con người. Những nguồn lực
khác ngày càng can kiệt, ngược lại nguồn nhân lực ngày càng đa dạng, phong phú và
có khả năng nội sinh không bao giờ cạn. Hơn nữa, nguồn nhân lực càng được sử
dụng lại càng được nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công cuộc
hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh ”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt
Nam có truyền thống yêu nước, cần cù sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan trọng

Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực nhất - nguồn năng
lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?. Theo liên hợp quốc thì: “ Nguồn nhân lực là
11


tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con
người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước ”.
Ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao
gồm thể lực, trí lực, kỹ năng, nghề nghiệp…mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động
được trong quá trình sản xuất, kinh doanh hay trong một hoạt động nào đó. Như vậy,
ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo tổ chức lao động quốc tế thì: Nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn
bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động.
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho
sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình
thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao
động có khả năng tham gia và lao động sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ
được huy động vào quá trình lao động.
Kinh tế phát triển cho rằng: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ
tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên
hai mặt: số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Số lượng nguồn nhân lực được xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự
tiếp nối các thế hệ, giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng, các miền của đất
nước, giữa các ngành kinh tế, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc
trưng về thể lực, trí lực, tay nghề, năng lực quản lý, mức độ thành thạo trong công

việc, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp, ý thức về
trách nhiệm cá nhân với công việc, với gia đình và xã hội, giác ngộ và bản lĩnh chính
trị…và sự kết hợp các yếu tố đó. Trong các yếu tố trên thì phẩm chất đạo đức và
trình độ học vấn là quan trọng nhất, nói lên mức trưởng thành của con người, quy
định phương pháp tư duy, nhân cách, lối sống của mỗi con người.
12


Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có quan hệ với nhau một cách chặt
chẽ. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho phân công lao động xã
hội và do vậy, chất lượng lao động cũng bị hạn chế. Chất lượng nguồn nhân lực nâng
cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một đơn vị sản xuất kinh
doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã hội, đồng thời cũng tạo
điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể người trong lao động sản
xuất, hoạt động xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn nhân
lực có chất lượng ngày càng cao. Muốn thực hiện được điều đó, cần có sự quan tâm
ngay trong quá trình đào tạo, trong quá trình sử dụng và phân công lao động xã hội.
1.2.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước
Chủ nghĩa xã hội nói chung và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói
riêng có được xây dựng thành công hay không tuỳ thuộc vào việc chúng ta có phát
huy tốt nguồn nhân lực hay không? Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa ” [16, 310].
Để làm rõ hơn quan điểm trên của Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu vai trò nguồn
nhân lực trong một số lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
* Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực kinh tế
Trong lĩnh vực kinh tế, cần xem xét con người với tư cách là lực lượng sản xuất
và vai trò trong quan hệ sản xuất.

Trong bất cứ xã hội nào, người lao động cũng là yếu tố quan trọng nhất trong
lực lượng sản xuất. Ngày nay, khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, hàm
lượng chất xám trong giá trị hàng hoá ngày càng cao, thì vai trò của người lao động
có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng sản xuất. V.I Lênin đã chỉ rõ: “ Lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động ”
[24, 430].
Con người khi được làm chủ những tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách
chu đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cách có hiệu
13


quả tiềm năng đất đai, biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy động
vốn, động viên khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả, quản lý chặt chẽ
nguyên liệu vật tư, do vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn. Ngày nay, vai
trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng, do vậy
các quốc gia thường rất quan tâm tới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ này.
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay người lao động đã trở
thành người làm chủ đất nước, làm chủ trong quá trình tổ chức quản lý sản xuất, từ
việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm
chủ trong quá trình phân phối sản phẩm. Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để
phát huy nguồn nhân lực, phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững, làm cho đất
nước ngày càng giàu đẹp.
* Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực chính trị
Từ khi giai cấp công nhân và Đảng của nó lãnh đạo toàn xã hội thì con người
đã được giải phóng khỏi áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, trở thành người làm chủ đất
nước, nhân dân tự tổ chức thành nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước chuyên
chính vô sản, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng nước ta phải đi đến dân chủ thực sự,
“ Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội, để nâng cao đời sống của
nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự ” [18, 323].

Xét nguồn nhân lực trên phương diện chính trị, khi mà người dân có tri thức,
có năng lực, thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn những người có
đức có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà nước vững mạnh.
Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận, hiểu biết thực tiễn, thấy được trách
nhiệm của mình đối với nhân dân, sẽ hết lòng phụng sự nhân dân và thực sự tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến, dân tin, dân ủng hộ.
Cán bộ tích cực tuyên truyền đường lối của Đảng, phổ biến luật pháp của nhà
nước đến nhân dân làm cho dân hiểu, dân tin, người dân chủ động tích cực thực hiện
đường lối đó, có ý thức tôn trọng luật pháp, thực hiện những nghĩa vụ công dân, hiểu
rõ quyền lợi của mình, kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong xã
hội sẽ làm tăng sức mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
14


Nói về vai trò của quần chúng tham gia công việc của nhà nước, Hồ Chí Minh
đã viết: khi người dân “…biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của
mình, dám nói, dám làm ” [19, 223], “ thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được,
hy sinh mấy họ cũng không sợ ” [17, 246].
Có thể khẳng định, nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa nhà
nước của dân, do dân, vì dân; trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách
mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại
của kẻ thù.
* Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hoá
Dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong đời
sống văn hoá xã hội. Hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình do nhà nước quản lý
nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã
hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hoá cho quần chúng nhân dân
lao động.
Mặt khác quần chúng nhân dân lao động cũng là những người góp phần xây

dựng nên những công trình văn hoá, những người sáng tạo ra các tác phẩm nghệ
thuật.
Một khi, con người có tri thức, có hiểu biết về các hình thức nghệ thuật, sẽ
tham gia sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật có giá tri cao như: những bộ phim
hay, những điệu múa đẹp, những tác phẩm văn học có nội dung phong phú…Những
công trình văn hoá, nghệ thuật như vậy dễ đi vào lòng người, có tác dụng giáo dục
đạo đức, góp phần hình thành nhân cách cho mỗi con người trong xã hội.
Con người có văn hoá cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di sản
văn hoá tinh thần của đất nước, của nhân loại. Do vậy, nếu mỗi con người có ý thức,
năng lực thực hiện tốt công việc này, thì những giá trị văn hoá tinh thần, giá trị văn
hoá vật chất của xã hội được bảo tồn, lưu giữ, được nâng cao.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, mỗi con người chúng ta
có điều kiện tiếp cận với nền văn hoá nhiều nước trên thế giới. Trình độ tri thức của
mỗi người về văn hoá sẽ là tiền đề cho họ tiếp nhận những giá trị tốt đẹp của dân tộc
15


khác, loại bỏ những yếu tố không phù hợp để làm giàu cho nền văn hoá dân tộc
mình, làm phong phú đời sống tinh thần cá nhân.
Con người có tri thức khoa học, có năng lực nghiên cứu tạo ra những khả năng
cho họ có những đóng góp xứng đáng trong sự phát triển khoa học của đất nước.
Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức, tạo điều
kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước, cho sự phát triển của xã hội.
* Vai trò nguồn nhân lực trong lĩnh vực xã hội
Những vấn đề xã hội bao gồm: vấn đề lao động việc làm, thực hiện công bằng
xã hội, thực hiện xoá đó, giảm nghèo…Muốn giải quyết tốt những vấn đề này, đòi
hỏi chúng ta phải phát huy tốt vai trò nguồn nhân lực.
Giải quyết lao động việc làm là một vấn đề được từng gia đình, toàn xã hội
chúng ta quan tâm, vì có giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm mới phát huy được
những thế mạnh của đất nước, mới giải quyết tốt được những vấn đề xã hội khác.

Song, muốn giải quyết tốt vấn đề lao động việc làm, đòi hỏi chúng ta phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực từ nâng cao sức khoẻ, trình độ học vấn tay nghề, năng lực
quản lý, tới ý thức chính trị cho người lao động.
Chính sách xoá đói giảm nghèo là một chính sách lớn của Đảng và nhà nước
ta hiện nay. Chính sách này chỉ phát huy hiệu quả khi chính những người nghèo thấy
được trách nhiệm của mình, cố gắng nỗ lực phấn đấu vươn lên, đồng thời được sự
đồng tình ủng hộ của toàn xã hội, sự trợ giúp của nhà nước.
Như vậy, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, mà
còn là chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần của xã hội. Bằng hoạt động thực tiễn,
trước hết là lao động sản xuất, con người cải tạo tự nhiên, biến đổi xã hội, bắt tự
nhiên phục vụ cho mình, và làm đẹp cho tự nhiên; đồng thời trong quá trình đó con
người cải tạo chính bản thân mình. Do vậy, sự phối hợp giữa các thành viên trong
cộng đồng đó cũng tạo ra sức mạnh to lớn trong việc phát huy nguồn lực con người
để nhận thức, cải tạo tự nhiên và xã hội. Ngược lại sự thiếu thống nhất, sự phối hợp
không đồng bộ của các thành viên trong xã hội cũng sẽ làm giảm đi, thậm chí triệt
tiêu cả động lực phát triển tự nhiên và xã hội.
16


Nguồn nhân lực, xét về mỗi cá nhân, còn là những yếu tố tiềm năng cấu thành
con người có thể được khai thác. Nhưng hiệu quả việc phát huy nguồn nhân lực lại
tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, tuỳ thuộc vào cách tổ chức xã hội, phụ thuộc vào năng
lực và nghệ thuật của người quản lý xã hội, phụ thuộc vào cơ chế và chính sách xã
hội.
Nguồn nhân lực không khai thác, không phát huy được là lãng phí lớn nhất.
Đặc biệt là với đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng nghiên cứu, càng làm việc trí
tuệ của họ càng đa dạng, càng phong phú và sâu sắc. Nước ta đang còn là một nước
nghèo, kinh tế kém phát triển thì việc phát huy nguồn nhân lực để xây dựng đất nước
càng trở nên quan trọng.
Như vậy, C.Mác là người đầu tiên đã trình bày lý luận hàng hoá sức lao động

một cách hoàn bị và chặt chẽ nhất. Đây là cống hiến vĩ đại của ông đánh dấu một
bước ngoặt to lớn trong lịch sử khoa kinh tế chính trị. Lý luận hàng hoá sức lao động
của C.Mác là ánh sáng soi đường giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về nguồn nhân lực.
Việt Nam là một quốc gia đang trên đà phát triển, để đất nước ta ngày càng
sánh vai được với các cường quốc năm châu, rút ngắn dần khoảng cách với họ thì
việc phát huy nhân tố con người phải được coi là khâu đột phá. Đặc biệt trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội con
người có vai trò to lớn trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Do
đó đòi hỏi toàn xã hội phải quan tâm hơn nữa tới việc phát huy nguồn lực con người.
Hải Phòng là địa phương có nhiều lợi thế cho việc phát triển kinh tế, để Hải
Phòng sớm trở thành trung tâm công nghiệp hiện đại, văn minh thì việc phát huy yếu
tố con người là hết sức cần thiết.

17


Chương II
Thực trạng nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá (2000 – 2010)
2.1 Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội Hải Phòng
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía đông miền duyên hải Bắc Bộ, cách
thủ đô Hà Nội 102km về phía đông nam, có tổng diện tích là 152.318,49 ha chiếm
0,45% diện tích tự nhiên cả nước. Về ranh giới hành chính: phía bắc giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía tây giáp tỉnh Hải Dương, phía nam giáp tỉnh Thái Bình, phía đông giáp
biển đông. Thành phố có toạ độ địa lý: từ 20030’39- 21001’15 vĩ độ bắc, từ
106023’39’- 107008’39 kinh độ đông. Ngoài ra còn có huyện đảo Bạch Long Vĩ
nằm giữa vịnh Bắc Bộ.
Hải Phòng nằm ở vị trí giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong nước và quốc tế

thông qua hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và
đường hàng không. Điều này tạo ra lợi thế lớn cho việc phát triển kinh tế thành phố,
góp phần giải quyết việc làm, nâng cao năng suất cho người lao động.
* Khí hậu
Nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á, sát biển đông nên Hải Phòng
chịu ảnh hưởng của gió mùa. Mùa gió bấc lạnh và khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng
tư năm sau. Gió mùa nồm mát mẻ, nhiều mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10.
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1600- 1800mm. Bão thường xảy ra từ tháng 6
đến tháng 9. Thời tiết của Hải Phòng có hai mùa rõ rệt, mùa đông và mùa hè. Khí
hậu tương đối ôn hoà. Nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 25- 26 ºC. Độ ẩm trung
bình trong năm là 80% đến 85%, cao nhất là 100% vào những tháng 7, 8, 9, thấp
nhất là vào tháng 12 và tháng 1. Với điều kiện như vậy sẽ thuận lợi cho điều kiện
sống của con người và cho việc sản xuất nông nghiệp.
* Địa hình, thổ nhưỡng, đất đai

18


Địa hình Hải Phòng thay đổi rất đa dạng phản ánh một quá trình lịch sử địa
chất lâu dài và phức tạp.
Phần Bắc Hải Phòng có dáng dấp của một vùng trung du với những đồng bằng
xen đồi trong khi vùng phía nam thành phố lại có địa hình thấp và khá bằng phẳng
của một vùng đồng bằng thuần tuy nghiêng ra biển.
Đồi núi Hải Phòng tuy chỉ chiếm 15% diện tích chung của thành phố nhưng
lại rải ra hơn nửa phần bắc thành phố thành từng dải liên tục theo hướng tây bắc đông nam, có quá trình phát sinh gắn liền với hệ thống núi Quảng Ninh thuộc khu
đông bắc Bắc Bộ về phía nam.
Có hai dải núi chính: dải đồi núi từ An Lão đến Đồ Sơn nối tiếp không liên
tục, kéo dài khoảng 30 km có hướng Tây Bắc- Đông Nam gồm các núi; Voi, Phù
Liễn, Xuân Sơn, Xuân Áng, núi Đối, Đồ Sơn, Hòn Dáu; dải Kỳ Sơn- Tràng Kênh và
An Sơn- Núi Đèo gồm hai nhánh: Nhánh An Sơn- Núi Đèo cấu tạo chính là đá cát

kết. Nhánh Kỳ Sơn- Tràng Kênh có hướng Tây tây bắc - Đông đông nam gồm nhiều
núi đá vôi đặc biệt là đá vôi Tràng Kênh là nguồn nguyên liệu quý của công nghiệp
xi măng Hải phòng.
* Sông ngòi
Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi dày đặc, mật độ trung bình từ 0,6- 8 km
trên một km2. Sông ngòi Hải Phòng đều là các chi lưu của sông Thái Bình đổ ra vịnh
Bắc Bộ.
Hải Phòng có 16 sông chính toả rộng khắp địa bàn thành phố với tổng độ dài
trên 300 km, bao gồm sông Thái Bình dài 35 km, sông Lạch Tray dài 45 km…phục
vụ cho sinh hoạt của người dân và hoạt động của các nhà máy xí nghiệp.
* Biển, bờ biển, hải đảo
Hải Phòng có bờ biển dài trên 125 km kể cả bờ biển chung quanh các đảo
khơi. Bờ biển có hướng một đường cong lõm cuả bờ vịnh Bắc Bộ, thấp và khá bằng
phẳng cấu tạo chủ yếu là cát bùn do 5 cửa sông chính đổ ra. Ngoài khơi thuộc địa
phận Hải Phòng có nhiều đảo rải rác trên khắp mặt biển, lớn nhất là đảo Cát Bà, xa
nhất là đảo Bạch Long Vĩ.
19


Biển, bờ biển, hải đảo đã tạo nên cảnh quan thiên nhiên đặc sắc của thành phố
duyên hải. Đây cũng là một thế mạnh tiềm năng của nền kinh tế địa phương có thể
phát triển kinh tế du lịch.
* Tài nguyên
Do đặc điểm lịch sử địa chất Hải Phòng ít có dấu vết của hoạt động macma
nên ít có các mỏ khoáng sản lớn. Tuy nhiên theo kết quả thăm dò khảo sát thì Hải
Phòng có mỏ sắt ở Dương Quan ( Thuỷ Nguyên ), mỏ kẽm ở Cát Bà với trữ lượng
nhỏ. Khoáng sản kim loại có mỏ sắt Dưỡng Chính ( Thuỷ Nguyên ), Sa khoáng ven
biển ( Cát Hải và Tiên Lãng ). Khoáng sản phi kim loại có mỏ cao lanh ở Doãn Lại
( Thuỷ Nguyên ), mỏ sét ở Tiên Hội, Chiến Thắng ( Tiên Lãng ), đá vôi phân phối
chủ yếu ở Cát Bà, Tràng Kênh, Phi Liệt. Muối và cát là hai nguồn tài nguyên quan

trọng ở Hải Phòng, tập trung chủ yếu ở vùng bãi giữa sông và bãi biển thuộc các
huyện Cát Hải, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo…
Tài nguyên biển là một trong những nguồn tài nguyên quý hiếm của Hải
Phòng với gần 1000 loài tôm, cá và hàng chục loại rong biển có giá trị kinh tế cao
như: tôm rồng, tôm he, cua bể, đồi mồi, sò huyết, cá heo, ngọc trai…Nguồn nước
biển với độ mặn cao và ổn định ở một số vùng biển Cát Hải, Đồ Sơn dùng để sản
xuất muối phục vụ công nghiệp hoá chất địa phương và trung ương cũng như đời
sống của nhân dân.
Tài nguyên rừng phong phú và đa dạng, có rừng nước mặn, rừng cây lấy gỗ,
cây ăn quả... đặc biệt có khu rừng nguyên sinh Cát Bà với thân thực vật đa dạng,
phong phú trong đó có nhiều loại thảo mộc quý hiếm.
2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
Hải Phòng là thành phố cảng, trung tâm kinh tế, công nghiệp, thương mại,
dịch vụ của vùng duyên hải Bắc Bộ, cửa chính ra biển của các tỉnh phía bắc, đầu mối
giao thông quan trọng của miền bắc và cả nước, đồng thời là một đô thị có vị trí quốc
phòng trọng yếu, một trong các cực tăng trưởng của vùng kinh tế trong điểm Hà Nội
- Hải Phòng - Quảng Ninh, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong những năm
qua kinh tế - xã hội của thành phố có bước phát triển khá toàn diện, phát huy tốt nội
lực, tập trung cao mọi nguồn lực để xây dựng và phát triển đô thị.
20


Dân số của Hải Phòng đến năm 2009 là 1.837.302 người. Hiện nay ở Hải
Phòng gồm các quận: Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân, Kiến An, Hải An, Dương
Kinh, Đồ Sơn; và các huyện: Thuỷ Nguyên, An Dương, An Lão, Kiến Thuỵ, Tiên
Lãng, Vĩnh Bảo, Cát Hải, Bạch Long Vĩ.
Tình hình kinh tế xã hội thành phố Hải Phòng trong những năm qua ổn định
và phát triển với mức tăng trưởng kinh tế khá cao gấp trên 1,5 lần so với mức tăng
trưởng bình quân chung của cả nước, năm sau cao hơn năm trước.
Trong suốt bảy năm gần đây, tăng trưởng kinh tế luôn giữ ở mức trên 10%. Cơ

cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kinh tế
dịch vụ đã chiếm trên 51% trong tổng GDP. Thành phố được Chính Phủ công nhận
là đô thi loại I, đô thị trung tâm cấp quốc gia. Quy mô đô thị được mở rộng, thành
lập thêm một quận và một số khu đô thị mới. Công tác quy hoạch đô thị và quản lý
đầu tư xây dựng theo quy hoạch được chú trọng, có tiến bộ, gắn kết chặt chẽ hơn với
quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quản lý đô thị được tăng cường.
Cơ sở hạ tầng nông thôn được đầu tư nâng cấp. Quy mô các thi trấn được mở
rộng, hình thành một số thị tứ, cụm dân cư mới, các điểm dịch vụ tập trung ở trung
tâm xã và một số khu, cụm công nghiệp ở các huyện, tạo động lực thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Công tác bảo vệ môi trường được quan tâm đẩy mạnh, tập trung kiểm soát các
khu vực trọng điểm về ô nhiễm; khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên,
đa dạng sinh học. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được tăng cường
và chú trọng hơn.
Giáo dục - đào tạo có bước phát triển khá toàn diện, thực hiện có hiệu quả các
mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Hoạt động
khoa học và công nghệ đạt kết quả rõ nét, gắn bó và phục vụ có hiệu quả hơn sản
xuất và đời sống. Các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân, dân số- gia đình và trẻ
em, thể dục thể thao tiếp tục phát triển, chất lượng được nâng lên. Việc xây dựng
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đạt được những kết
quả bước đầu quan trọng, đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hoá và đời sống văn
hoá cơ sở theo hướng “ xã hội hoá ”, đạt nhiều kết quả tích cực, nâng cao mức hưởng
21


thụ và tham gia sáng tạo văn hoá của nhân dân. Phong trào “ toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa ” phát triển sâu rộng. Sự nghiệp văn hoá - nghệ thuật có bước
phát triển, cơ bản đảm bảo đường lối văn nghệ của Đảng, có nhiều tác phẩm đạt chất
lượng tốt.
Cùng với phát triển kinh tế, đã quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội; giải

quyết việc làm cho 188.300 lao động; tăng cường có hiêu quả công tác xoá đói, giảm
nghèo, tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2005 giảm còn 3%, hoàn thành chương trình hỗ trợ
hộ nghèo, xoá 6.500 ngôi nhà tranh, vách đất. Thực hiện tốt chính sách với người có
công với nước; phong trào đền ơn đáp nghĩa phát triển sâu rộng. Công tác phòng
chống các tệ nạn xã hội tiếp tục có chuyển biến.
Quốc phòng - an ninh được củng cố vững chắc. Công tác xây dựng Đảng,
chính quyền, vận động nhân dân được tăng cường, đạt được những kết quả mới.
Niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân thành phố vào sự lãnh đạo của Đảng, của
Đảng bộ thành phố được tăng cường. Đội ngũ cán bộ thành phố có bước trưởng
thành về chất lượng chính trị và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
2.2 Thực trạng nguồn nhân lực ở Hải Phòng trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá thời kỳ 2000 - 2010
2.2.1 Những kết quả đã đạt được
Đứng trước những tiềm năng, lợi thế đó trong thời gian qua việc phát triển
nguồn nhân lực đã đạt được những thành tựu như sau:
* Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng được nâng cao
- Về mặt sức khoẻ
Những năm qua, kinh tế - xã hội Hải Phòng ngày càng phát triển nhiều nhà
máy xí nghiệp được xây dựng ở khắp nơi, năng suất lao động ngày càng tăng, đã tạo
điều kiện cải thiện đáng kể đời sống nhân dân, giúp cho việc chăm sóc con người
ngày càng tốt hơn. Điều kiện ăn, ở, đi lại, học hành của nhân dân đã được cải thiện
so với trước.
Hệ thống y tế dự phòng từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã được củng
cố về tổ chức và nâng cấp về trang thiết bị, góp phần quan trọng vào việc nâng cao
chất lượng chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Với phương châm chủ động, tích
22


cực phòng bệnh từ xa, công tác y tế dự phòng đã khống chế được và hạn chế tốt nhất
các dịch bệnh nguy hiểm xảy ra. Liên tục trong 10 năm 2000 – 2010, Hải Phòng

không để xảy ra dịch bệnh lớn và nguy hiểm, kể cả khi thành phố có nhiều nguy cơ
mắc dịch viêm đương hô hấp cấp (SARS), dịch cúm A H5N1. Các chương trình y tế
quốc gia được thực hiện một cách có hiệu quả. Thành phố hoàn thành thanh toán
bệnh bại liệt vào năm 1999; loại trừ uốn ván sơ sinh; khống chế bệnh sởi, bệnh lao,
thanh toán bệnh phong ở cấp độ 2; khống chế thành công dịch SARS; hạn chế bệnh
cúm A H5N1; bước đầu khống chế tỷ lệ nhiễm mới HIV/AIDS, giảm 40% số nhiễm
mới. Đã thường xuyên làm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống suy
dinh dưỡng ở trẻ em đạt hiệu quả cao.
Triển khai Chỉ thị số 06 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, chỉ thị số 07
-CT/TU của Ban Thường vụ Thành uỷ, đã tăng cường một bước công tác y tế cơ sở.
5 năm qua, đã tập trung thực hiện 10 chuẩn quốc gia về y tế xã. Đã hoàn thành và
củng cố kết quả việc đưa bác sỹ về công tác ở 100% trạm y tế xã. Hàng năm, thành
phố đầu tư, nâng cấp y tế cơ sở từ 1,5 đến 2 tỷ đồng. Có hơn 50% số trạm y tế xã đã
được nâng cấp hoặc xây mới vững chắc. Nhiều phòng khám đa khoa khu vực đã
được xây mới. Đến nay, có 60% xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế cơ sở, trong
đó huyện An Dương, An Lão, Thuỷ Nguyên có 100% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Một số trạm y tế xã đạt trên chuẩn quốc gia như Lập Lễ - Thuỷ Nguyên, Đặng
Cương - An Dương, An Đồng - An Dương, Lý Học - Vĩnh Bảo …
Chất lượng công tác khám chữa bệnh của các bệnh viện thành phố và hệ thống
các cơ sở y tế được nâng lên. Mỗi năm, trung bình đã khám và chữa bệnh cho từ 3,5
đến 4 triệu lượt người điều trị cho khoảng từ 140 ngàn đến 180 ngàn bệnh nhân nội
trú. Chất lượng khám chữa bệnh được nâng cao. Đã áp dụng thành công các kỹ thuật
cao trong khám chữa bệnh như: phẫu thuật nội soi tiêu hoá, tiết niệu, sản phụ khoa,
nội soi lồng ngực; phẫu thuật mắt bằng phương pháp Pharco; kỹ thuật tán sỏi trong
và ngoài cơ thể; phẫu thuật ghép thận… Tất cả những điều đó đã làm cho chất lượng
con người được nâng cao hơn so với trước.
Hiện nay tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm đi rất nhiều so với trước. Tính
đến năm 2010, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi còn 10%, tỷ lệ trẻ em tử vong
23



dưới 1 tuổi còn 2%. Tuổi thọ bình quân đầu người của thành phố luôn cao hơn so với
tuôi thọ trung bình cử cả nước là 2 tuổi. Số ca mắc các bệnh hiểm nghèo cũng giảm
đáng kể. Thể lực con người ngày mộy được nâng cao.
- Về trình độ dân trí
Theo số liệu thống kê của uỷ ban dân số thành phố tính đến ngày 1.4.2009,
dân số toàn thành phố là 1.837.302 người. Trong đó dân số thành thị là 847.058
người chiếm 46,1%; dân số khu vực nông thôn là 990.244 người chiếm 53,9%.
Khi kinh tế phát triển cùng với đó trình độ dân trí người dân cũng ngày càng
nâng cao. Trên cơ sở được công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở
vào năm 2000, 5 năm qua, Hải Phòng đã nỗ lực duy trì và nâng cao chất lượng phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục trung học
cơ sở. Cho đến nay, thành phố đã cơ bản phổ cập xong về bậc trung học và dạy nghề,
hiện đang tiến hành phổ cập bậc trung học phổ thông.
Bảng 2.1: Trình độ học vấn của dân số

Đvt: 1000 người

Số dân chia theo trình độ học vấn
Dân số trung bình
Tốt nghiệp tiểu học

2005
1.773,43
337,76

2010
1.858,29
299,75


Tốt nghiệp THCS

602,05

555,30

Tốt nghiệp THPT

594,78
716,22
(Nguồn: Cục thống kê Hải Phòng)

Bảng 2.2: Quy mô đào tạo ngành giáo dục ở Hải Phòng
Trường

Đvt: người

2008

2009

GV

HS - SV

GV

HS - SV

Cao đẳng và Đại học


1826

51070

1894

53857

Trung cấp chuyên nghiệp

434

21260

404

18131

Cao đẳng nghề

751

38760

819

36000

Trung cấp nghề


342

18600

396

17500

Sơ cấp nghề

463

25700

498

23600

3.816

155.390

4.011

149.088

Tổng

(Nguồn: Tổng cục Thống kê và sở LĐTBXH)


24


Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu cả nước trong lĩnh vực này.
Toàn thành phố hiện có khoảng 400.000 người có trình độ từ cao đẳng, đại học trở
lên trong đó có trên 3.000 người có học vị thạc sỹ, tiến sĩ. Riêng đối với ngành giáo
dục thì có gần 3 vạn cán bộ, giáo viên. Trong đó đã có trên 90% giáo viên đạt chuẩn,
20% giáo viên trên chuẩn. Toàn ngành hiện có 137 tiến sĩ, 1.413 thạc sỹ, trong đó
483 thạc sỹ và 55 tiến sĩ được đào tạo từ tháng 2. 2008 đến nay. Đó là chưa kể gần
800 cán bộ, giảng viên đang theo học các lớp cao học và nghiên cứu sinh.
Bảng 2.3: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động đang làm việc.
Đvt: 1000 người

Trình độ CMKT

2005

2010

Sơ cấp

63,59

54,83

Trung cấp

60,45


45,35

Cao đẳng

21,78

22,14

Đại học

84,29

110,16

Trên đại học

2,57

4,17

(Nguồn: Cục thống kê Hải Phòng)
Bảng 2.4: Hệ thống đào tạo - Số lượng cơ sở đào tạo
Đvt: Trung tâm, trường

Cơ sở đào tạo

2007

2008


2010

Trung tâm dạy nghê

22

21

22

Trung cấp nghề

14

13

14

Cao đẳng nghề

7

9

10

Trung cấp chuyên nghiệp

5


7

8

Cao đẳng

3

3

4

Đại học

4

4

4

Tổng số

55

57

62

(Nguồn: Thống kê của Sở GD - ĐT, Sở LĐTBXH)
Phong trào thi đua dạy tốt, học tốt được duy trì và mang lại kết quả cao trong

nâng cao chất lượng giáo dục các môn văn hoá. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp ở các bậc
25


×