Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Biến đổi cơ sở hạ tầng ở thành thị và những vấn đề cần giải quyết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.34 KB, 17 trang )

Biến đổi cơ sở hạ tầng ở thành thị và những vấn đề cần giải quyết.
1. Những vấn đề ảnh hưởng đến thay đổi cơ sở hạ tầng ở thành thị.
1.1 Sự biến đổi cơ cấu xã hội dân cư
Cơ cấu xã hội dân cư là cơ cấu xã hội phân theo các cộng đồng người với các dấu hiệu lãnh
thổ, nơi sống, làm việc và cư trú,… (Cộng đồng người thành thị- nông thôn, đống bằng- miền
núi, tỉnh này- tỉnh khác,…). Nghiên cứu cơ cấu xã hội dân cư có tầm quan trọng vị liên quan
trực tiếp đến sự quản lí trực tiếp của nhà nước, sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và ảnh
hưởng đặc biệt đến sự biến đổi cơ sở hạ tầng thành thị.
Sự chuyển đổi từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường đã làm biến đổi các nhóm nghề
nghiệp xã hội, tạo ra sự chuyên môn hóa các nghành nghề lao động. Chính sự chuyên môn
hóa đã tạo nên sự đa dạng trong nghề nghiệp đã tạo nên các làng nghề truyền thống, giải
quyết vấn đề việc làm cho người dân, góp phần nâng cao đời sống kinh tế gia đình cũng như
đất nước.
Thành thị là khu vực có mật độ dân số cao, điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường
và giao thông công cộng. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng cao, Không khí và
tiếng ồn, cùng với quá trình đô thị hóa, với sự phát triển của công nghiệp và giao thông vận
tải đã làm tăng các loại khí gây độc hại trong thành phố. Hơn thế nữa, dân số đông có nguy
cơ gây ra cho thành phố là tình trạng gây mất trật tự công cộng và gia tăng sức ép về quản lý
cho các cấp chính quyền. Vấn đề giao thông ở các khu đô thị lớn trong những năm trở lại đây
đang trở thành vấn đề nhức nhối đối với người dân. Tình trạng ùn tắc giao thông diễn ra hàng
ngày, đặc biệt trong những giờ cao điểm.
Thành thị là vùng có lợi thế và điều kiện phát triển nhanh, đóng vai trò trung tâm trong kinh
tế, chính trị, văn hóa trong vùng và quốc tế cho nên có sự biến đổi nhanh chóng về cơ cấu xã
hội dân cư hơn cả. Hiện nay, dòng người di cư từ nông thôn ra các thành phố lớn ngày càng
mạnh mẽ, với tốc độ tăng nhanh, quy mô ngày một lớn, nó đã và đang tác động không nhỏ


đến mỗi gia đình và từng quốc gia. Đây cũng là vấn đề lớn mà chúng ta đang phải đối mặt,
nhất là các đô thị lớn.Ở mức độ nhất định, di dân vào thành thị góp phần thúc đẩy sự phát
trỉên đa dạng của các lĩnh vực và các ngành nghề, dịch vụ và có ý nghĩa đối với sự tăng
trưởng kinh tế của quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa. Chính những người di cư để tìm


kiếm việc làm đã góp phần bổ sung nguồn lực lao động cho thành phố, đặc biệt là thúc đẩy
phát triển ngành kinh tế dịch vụ, ngoài ra họ tham gia vào phát triển khu vực phi kết cấu góp
phần thỏa mãn nhu cầu về các ngành nghề như: mộc, nề, rèn, …Cung cấp các mặt hàng lương
thực và thực phẩm…Hơn nữa, họ cũng tham gia vào lĩnh vực hoạt động lao động phổ thông
mà nhà nước chưa bao quát được trong quá trình đô thị hóa như: xích lô, vận chuyển hàng
hóa, chuyên chở hành khách và nhiều hình thức hoạt động lao động khác. Bên cạnh những
mặt tích cực, tình trạng di dân tự do tới thành thị tìm việc làm cũng đang đặt ra những vấn đề
cấp bách trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở thành phố. Có thể đưa ra những vấn đề
cấp bách nổi bật sau: thứ nhất, là vấn để gia tăng sức ép về việc làm khiến cho tình trạng
thiếu việc làm, thất nghiệp ở Hà Nội thực tế đã tồn tại nay lại được bổ sung thêm do tình
trạng di dân ngoại thành vào thành phố, điều đó làm cho số người có nhu cầu giải quyết việc
làm mỗi năm tăng nhanh, gây nên sức ép về việc làm tại thành phố ngày càng tăng. Đồng thời
đây cũng là nguyên nhân dẫn tới những mặt tiêu cực khác phát sinh, tạo ra gánh nặng về mặt
kinh tế xã hội cho thành phố. Thứ hai, là gây quá tải về sử dụng các công trình hạ tầng cơ sở:
Những năm trở lại đây, các thành phố tuy đã được Nhà nước chú ý đầu tư về cơ sở hạ tầng,
về điều kiện nhà ở nhưng vẫn thiếu và không đồng bộ. Thực tế quỹ nhà ở, công trình công
cộng mới xây dựng mặc dù tăng nhanh nhưng không đáp ứng được nhu cầu đô thị hóa
(trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thoát nước, điện sinh hoạt và vệ sinh môi trường đô thị).

1.2. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội ở thành thị
Phân tầng xã hội: đó là sự phân chia nhỏ xã hội, là sự phân chia xã hội thành các tầng
xã hội khác nhau về địa vị kinh tế, nghề nghiệp, học vấn, phong cách sinh hoạt, thị hiếu nghệ
thuật,…


Chênh lệch giàu nghèo và phân tầng xã hội là một quá trình tự nhiên, tất yếu của xã hội
loài người. Bởi vì cứ có sự phân công lao động là có sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã
hội. Sự phân hoá giàu nghèo và phân tầng xã hội có thể biểu hiện dưới nhiều hình thức: đơn
giản nhất và dễ nhìn thấy nhất là những người giàu, nhà giàu sống trong trung tâm thành phố
và những người nghèo, nhà nghèo sống ở ngoại ô thành phố, thậm chí trong những khu nhà

tạm bợ “ổ chuột”. Dưới hình thức phức tạp, tinh vi là sự phân chia thành các giai cấp như giai
cấp công nhân và nông dân; các giai tầng như tầng lớp trí thức, tầng lớp thương nhân, tầng
lớp doanh nhân; các nhóm nghề nghiệp như bác sỹ, kỹ sư, giáo viên, thợ thủ công, những
người làm công ăn lương trong cơ quan nhà nước, những người làm việc; và cả sự phân tầng
xã hội thành những giai tầng lãnh đạo, quản lý và những giai tầng bị lãnh đạo, quản lý.
Bảng: Thu nhập bình quân đầu người một tháng ở khu vực thành thị chia theo 5 nhóm
thu nhập của thời kỳ 2002 -2012

So
Năm

Thu nhập BQĐN 1 tháng (nghìn đồng)

2012/2002

Nhóm TN
2002
Nghèo
184,2
Cận nghèo 324,1
Trung bình 459,8
Khá
663,6
Thành Giàu
1479,2
Chênh lệch
thị
8,0
Giàu/Nghèo


sánh

(lần)
2004
236,9
437,3
616,1
876,7
1914,1

2006
304
575,4
808,1
1116,1
2488,3

2008
453,2
867,8
1229,9
1722,2
3752,4

2010
632,6
1153,5
1611,5
2268,4
4983,4


2012
951,5
1672,2
2332,9
3198,3
6794,4

8,1

8,2

8,3

7,9

7,1

5,17
5,16
5,07
4,82
4,59

Nhìn vào bảng ta có thể thấy mức chênh lệch giàu nghèo ở thành thị hiện nay đang có
xu hưởng giảm xuống, do đó nó ảnh hưởng tới cấu trúc cơ sở hạ tầng. Vì khi mức sống cao
hơn con người sẽ hoàn thiện vấn đề “ở”, tự động xây dựng những tổ ấm vững chãi cho mình
thay vì chỉ lo vấn đề “ăn” và “mặc”



Nghèo khổ và phân hoá giàu nghèo tạo nên sự phân tầng xã hội về mặt kinh tế trong đó
tầng lớp trên chiếm tỉ trọng lớn tài sản và các ưu thế kinh tế và tầng lớp dưới chiếm một tỉ
trọng nhỏ các tài sản và một phần nhỏ các ưu thế kinh tế, thậm chí tầng đáy hầu như không có
tài sản và không có ưu thế gì về mặt kinh tế và vì vậy cần được sự hỗ trợ đặc biệt từ phía các
giai tầng khác của xã hội.
1.3 Sự chuyển đổi các định hướng giá trị ở thành thị
Khi nói tới giá trị, người ta thường hiểu là phẩm chất tốt hay xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của
sự vật hay của con người, là cái làm cho vật có ích lợi, đáng quý, là tính ý nghĩa tích cự hay
tiêu cực của khách thể đối với con người, với giai cấp, nhóm, xã hội nói chung, được phản
ánh vào các nguyên tắc chuẩn mực, lý tưởng, tâm thế hay mục đích. Đó là những giá trị về
vật chất và giá trị tinh thần.
Định hướng giá trị: là sự sắp xếp, lựa chọn các giá trị có ý ngĩa đối với cá nhân ( hoặc
nhóm). Được thể hiện ở thái độ ưa thích, ủng hộ và hành động để hiện thực hóa các giá trị đó.
Nghiên cứu về định hướng giá trị ở thành thị thấy có những biến đổi trong định hướng giá
trị. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và đẩy nhanh quá trình
CNH-HĐH đất nước, cũng như quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, giữ vững phát triển
kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng và phát triển bền vững, đồng thời để khắc phục
những vấn đề tồn tại trên, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo việc phải rà soát lại
Định hướng Quy hoạch đã được duyệt năm 1998 và giao Bộ Xây dựng nghiên cứu “Điều
chỉnh định hướng qui hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2050”. “Điều chỉnh định hướng qui hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô
thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050” tập trung vào những nội dung chủ
yếu sau:
Về quan điểm:


- Phát triển đô thị phải tạo ra nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội; phải phù hợp với phân bố
và trình độ phát triển lực lượng sản xuất cả nước, phù hợp với yêu cầu của quá trình CNHHĐH và xu hươớng hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam.
- Hệ thống đô thị phải đươc phát triển và phân bố hợp lý trên địa bàn cả nước, tạo ra sự phát
triển cân đối giữa các vùng. Coi trọng mối liên kết Đô thị–Nông thôn. Đảm bảo đô thị có chất

lượng sống tốt phù hợp với từng giai đoạn phát triển chung của đất nước.
- Phát triển đô thị phải đảm bảo ổn định, bền vững và trường tồn, trên cơ sở tổ chức hợp lý
môi sinh, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tiết kiệm năng lượng; bảo vệ môi trường,
giữ gìn cân bằng sinh thái;
- Phát triển đô thị phải đi đôi với việc xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ
thuật (như giao thông đô thị, cấp nước, cấp điện, thoát nước bẩn VSMT, y tế, giáo dục, thông
tin liên lạc, dịch vụ thươơng mại và nhà ở) với trình độ thích hợp hoặc hiện đại tương ứng với
quá trình phát triển của môĩ đô thị;
- Phát triển đô thị phải gắn với việc tăng cường vai trò quản lý Nhà nươớc trong đổi mới
chính sách, cơ chế quản lý phát triển đô thị; huy động sức mạnh tổng hợp mọi nguồn lực vào
mục đích cải tạo và xây dựng đô thị, đảm bảo cho các đô thị phát triển theo quy hoạch và
pháp luật;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ và các thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật vào mục đích cải tạo, xây dựng và hiện đại hóa đô thị phù hợp với
điều kiện thực tiễn của nươớc ta; áp dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ mới trong xây
dựng, vật liệu, trang thiết bị, năng lơượng sạch, công nghệ xử lí chất thải, bảo vệ môi
trươờng;
- Phát triển đô thị phải kết hợp chặt chẽ với việc đảm bảo an ninh, quốc phòng và an toàn xã
hội. Các đô thị, nhất là các đô thị ven biển, hải đảo và các đô thị dọc hành lang biên giới gắn
với hệ thống cửa khẩu quốc gia, quốc tế phải vừa là trung tâm kinh tế, văn hóa, trung tâm dân
cươ, vừa là căn cứ vững chắc bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.


Về mục tiêu tổng quát:
- Đô thị Việt Nam phát triển bền vững; đảm bảo chất lượng sống của người dân đô thị ngày
một được nâng cao; có cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi
trường sống trong sạch, an toàn; có nền kiến trúc đô thị tiến tiến, giàu bản sắc; có mối quan
hệ và vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế, xã hội quốc gia, khu
vực và quốc tế; đồng thời, đến năm 2050 đô thị Việt Nam phát triển mạnh theo mạng lưới đô
thị;

- Các đô thị lớn (loại đặc biệt, loại I), các đô thị trung bình và nhỏ (loại II loại III, loại IV đến
loại V) có tính chất, chức năng phù hợp, là động lực, cực tăng trơưởng chủ đạo quan trọng
trong phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của từng địa phươơng, từng
vùng lãnh thổ và trong phạm vi cả nước;
- Các vùng đô thị hóa phát triển năng động, thịnh vượng, sáng tạo, kinh tế vững mạnh, đảm
bảo mối liên kết phát triển hài hoà giữa các vùng; giữa miền Bắc, miền Trung và niềm Nam,
giữa

phía

Đông



phía

Tây;

giữa

khu

vực

đô

thị




nông

thôn.

2.1 Trên lĩnh vực y tế
Nhiều năm qua, chủ trương xã hội hóa đã phát huy vai trò thu hút đầu tư tư nhân trong các
lĩnh vực xã hội. Có thể thấy, nhờ có sự tham gia của tư nhân, năng lực phục vụ của các cơ sở
y tế được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của người dân.
Để điều chỉnh hoạt động đầu tư xã hội hóa, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp quy
như Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường và Nghị định số
59/2014/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 69/2008/NĐ-CP). Hai nghị định
này đã xác định tương đối rõ nhiều mức ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư.


Với chính sách xã hội hóa, ngành y tế đã tập trung đầu tư nhiều trang thiết bị về chẩn đoán
hình ảnh, xét nghiệm phục vụ công tác chữa bệnh
Trong thời gian qua, kết quả xã hội hóa trong lĩnh vực y tế có thể xem là một ví dụ điển hình
trong thu hút đầu tư tư nhân. Hình thức đầu tư xã hội hóa đã có tác động tích cực giúp đầu tư
được nhiều trang thiết bị hiện đại, kỹ thuật cao, đáp ứng nhu cầu chẩn đoán, điều trị; hệ thống
kết cấu hạ tầng được đầu tư, giảm tải bệnh viện, tăng chất lượng khám chữa bệnh, từng bước
đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh ngày càng đa dạng của các tầng lớp nhân dân, nhất là các
đối tượng có khả năng chi trả. Người dân, trong đó có cả người nghèo, cận nghèo, trẻ em, đối
tượng chính sách xã hội cũng được hưởng lợi vì được sử dụng các dịch vụ này, kể cả dịch vụ
kỹ thuật cao, chi phí lớn và được bảo hiểm y tế thanh toán vì ở nhiều bệnh viện, các trang
thiết bị xã hội hóa được dùng chung cho toàn bộ bệnh viện.
Với chính sách xã hội hóa, trong các bệnh viện công hiện nay, hình thức liên doanh, liên kết,
đặt máy phân chia lợi nhuận hoặc đặt máy độc quyền cung cấp hóa chất đang khá phổ biến.
Qua tổng hợp báo cáo của 31 Sở Y tế và 16 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, đến hết năm 2014,
ngành y tế đã triển khai khoảng 883 đề án liên doanh, liên kết với tổng số vốn là 2.796,8 tỷ

đồng. Trong đó, tập trung đầu tư các trang thiết bị về chẩn đoán hình ảnh, đầu tư trang thiết bị
về xét nghiệm, đầu tư trang thiết bị phục vụ công tác chữa bệnh. Nhờ chính sách xã hội hóa,
hệ thống y tế tư nhân cũng có điều kiện phát triển, đến nay cả nước có hơn 100 bệnh viện tư
nhân và trên 30.000 phòng khám chữa bệnh tư nhân cùng với hệ thống y tế công lập tham gia
khám chữa bệnh. Việc thu hút đầu tư tư nhân trong lĩnh vực y tế đã góp phần quan trọng
trong chăm sóc sức khỏe người dân.
Tuy vậy, chính sách xã hội hóa cũng bộc lộ một số tồn tại và đang được khắc phục từng
bước. Rõ ràng nhất là tình trạng lạm dụng chỉ định sử dụng thiết bị y tế trong bệnh viện. Bên
cạnh những mặt đạt được, cơ chế xã hội hóa đòi hòi cần được hoàn thiện hơn. Vì vậy, ngày
15/12/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 93/NQ-CP về một số cơ chế, chính sách
phát triển y tế.
2.1.1 Trang thiết bị y tế


Trang thiết bị y tế là một loại hàng hóa đặc biệt có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người; là một trong những yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả, chất lượng của công tác y
tế, hỗ trợ cho người thầy thuốc trong chẩn đoán, điều trị bệnh nhân được chính xác, nhanh
chóng, an toàn và hiệu quả.
Trong những năm qua, ngành y tế đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ trong công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, trong đó TTBYT tại các bệnh viện từ tuyến cơ sở đến trung
ương đang ngày càng được cải thiện và nâng cao. TTBYT tại các bệnh viện tuyến cơ sở được
đầu tư tốt đã bảo đảm cho công tác khám chữa bệnh được nâng lên, góp phần giúp giảm quá
tải cho các bệnh viện tuyến trên.
Tuy nhiên, một số cơ sở y tế hiện nay có hiện tượng chưa sử dụng hết hiệu quả các TTBYT
hiện đại do cán bộ chưa đủ trình độ để vận hành thiết bị; công tác duy tu, bảo dưỡng chưa tốt,
khiến tuổi thọ của trang thiết bị giảm xuống… làm hạn chế chất lượng khám chữa bệnh ngay
tại các bệnh viện tuyến cơ sở. Từ tình hình thực tế đó, việc tăng cường quản lý chất lượng
cũng như bảo đảm việc khai thác sử dụng TTBYT và cơ sở hạ tầng hiệu quả, đồng thời, giúp
các đơn vị chủ động trong đầu tư, bổ sung TTBYT mới phù hợp, hiện đại là yêu cầu hết sức
cấp thiết.

2.1.1 cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của ngành y tế
Xây dựng các hệ thống mạng thông tin, cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp công tác chỉ huy tác
nghiệp điều hành, khám chữa bệnh cho nhân dân của ngành Y tế và phục cho công tác chỉ
huy chỉ đạo và giúp cho Chính phủ và các ngành trong công tác quản lý hành chính nhà nước.
Thông qua việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng mạng Công nghệ thông tin, nhầm thúc đẩy
cải cách tổ chức bộ máy ứng dụng các phần mềm quản lý trao đổi thông tin nghiệp vụ, dữ
liệu, các trang (web) và ứng dụng các đa dịch vụ trên nền cơ sở hạ tầng Công nghệ thông tin
của Ngành và trong tương lai tham gia khám chữa bệnh cho nhân dân không cần phải đi đến
các cơ sở chống sự phân tải cho ngành y tế ngành tích kiệm cho nhà nước vô cùng lớn và có ý
nghĩa to lớn với cộng đồng, theo thông tin từ Cục CNTT, Bộ Y tế. Thay đổi phương pháp tư


duy lý luận một cách logic về tác phong làm việc cho cán bộ nhân viên trong toàn bộ ngành
Y tế từ cơ sở đến Trung ương. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của ngành Y
tế mục đích nâng cao trình độ và hiểu biết về Công nghệ thông tin.
Trong những năm qua, lĩnh vực viễn thông, Công nghệ thông tin ngày càng chứng minh vai
trò quan trọng làm thay đổi diện mạo của đời sống xã hội với những giải pháp, dịch vụ tiện
ichs. Trong lĩnh vực y tế, có thể thấy rằng, VT, CNTT cũng đã và đang tạo ra những thay đổi
mới mẻ, không chỉ thúc đẩy cho quá trình cải cách hành chính trong công tác quản lý, hoạt
động của đơn vị y tế mà còn hỗ trợ hiệu quả công tác ứng dụng thành công kỹ thuật cao trong
các hoạt động Khám chữa bệnh như: chụp cắt lớp, mổ nội soi, khám chữa bệnh từ xa, đào tạo
E-Learning, Y tế điện tử, bệnh viện không giấy tờ.... Đặc biệt trong quá trình triển khai dự án
bệnh viện vệ tinh.
2.2 Trên lĩnh vực giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục việc thiếu thốn về cơ sở hạ tầng gây ảnh hưởng đến chất lượng giáo
dục
Hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị phục vụ cho giáo bao gồm:
hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, cấp thoát
nước, xử lý các chất thải có ảnh hưởng gián tiếp , ko đáp ứng được nhu cầu về vật chất và
tinh thần đến lĩnh vực giáo dục

giao thông chật chội gây ảnh hưởng đến việc đi học, hệ thống thông tin liên lạc và cung cấp
điện nước không đảm bảo gây ảnh hưởng đến việc sinh hoạt cùng ảnh hưởng đến chương
trình giảng dạy của giáo viên tới học sinh, sinh viên...
Cơ sở giáo dục của chúng ta còn nhiều bất hợp lý nhiều nơi trường học được xây dựng đã cũ
có nhiều hỏng hóc ko đc sửa chữa, xây ở xa khu dân cư không thuận tiện cho việc đi lại của
học sinh, sinh viên . Có những nơi quy hoạch không hợp lý trường học được xây dựng cạnh


những bãi xử lý rác thải hay nhà máy công nghiệp gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tinh thần
của học sinh, sinh viên.
Công cụ giảng dạy của giáo viên gặp nhiều hạn chế ko được đổi mới hiện đại và tiên tiến như
các nước khác
Ví dụ :
1/Tại thành phố Biên Hòa số học sinh tăng cơ học quá nhanh (bình quân 7 ngàn học
sinh/năm), dẫn đến áp lực về sĩ số, trường lớp quá lớn, tập trung ở những phường, xã có đông
công nhân. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều trường phải dồn lớp, học ca ba (61 lớp của 6
trường, nhiều nhất trong 3 năm qua), không thể xây dựng trường chuẩn quốc gia, thậm chí
“vỡ chuẩn” vì không đáp ứng được yêu cầu về cơ sở vật chất. Việc thiếu trường lớp đã và
đang ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng giáo dục của thành phố, tạo nên sự chênh lệch về
hiệu quả giáo dục giữa các cơ sở.
Phòng GD-ĐT TP.Biên Hòa đề xuất lãnh đạo Sở GD-ĐT tham mưu HĐND tỉnh và UBND
tỉnh hỗ trợ TP.Biên Hòa thêm các điều kiện về cơ chế đền bù giải tỏa, kinh phí để đẩy nhanh
tốc độ xây dựng trường lớp, đáp ứng chỗ học cho học sinh; có cơ chế đầu tư ngân sách cho
ngành học mầm non để giúp thành phố xây dựng 2 trường mầm non công lập tại 2 phường
chưa có trường mầm non công lập; đề xuất UBND tỉnh đề nghị Bộ Nội vụ tăng biên chế viên
chức cho ngành giáo dục, đặc biệt là ở TP.Biên Hòa vì số học sinh tăng cơ học hàng năm quá
nhanh.
2/Những năm qua, giáo dục Nghệ An phát triển mạnh cả về tỷ lệ huy động và chất lượng giáo
dục. Nghệ An trở thành điểm sáng trong giáo dục cả nước, là địa phương có nhiều đổi mới
trong công tác quản lý giáo dục, quan tâm chăm lo chất lượng học sinh giỏi và chất lượng

giáo dục đại trà, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia… Nhiều vấn đề lớn của giáo dục cả
nước đã được kiểm nghiệm, đúc kết từ thực tiễn phát triển của giáo dục và đào tạo Nghệ An.
Nghệ An là tỉnh nằm trong tốp đầu của cả nước về học sinh giỏi và số học sinh thi đậu đại
học đạt điểm cao.


Bên cạnh những thành tích đã đạt được, giáo dục và đào tạo Nghệ An vẫn còn những hạn chế,
tồn tại như: khoảng cách về chất lượng giáo dục giữa miền núi và miền xuôi vẫn lớn; cơ sở
vật chất trường học còn thiếu thốn, thư viện còn nghèo, hệ thống phòng thiết bị, phòng học bộ
môn... chưa đảm bảo quy định; tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia còn chậm, chưa
đạt so với mục tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVII đề ra; quy mô, chất lượng giáo dục
và đào tạo có nhiều tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội.
Để khắc phục những hạn chế tồn tại trên đây, từng bước đưa Nghệ An trở thành trung tâm
giáo dục và đào tạo của khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước trong điều kiện kinh tế còn khó
khăn, việc “Xây dựng cơ sở hạ tầng trọng yếu trên địa bàn tỉnh Nghệ An đến năm 2020 thuộc
lĩnh vực giáo dục và đào tạo” là một bước đi cần thiết, góp phần xây dựng kết cấu hạ tầng
đồng bộ của tỉnh, của cả nước theo tinh thần Nghị quyết số 13/NQ-TƯ ngày 16/01/2012 của
Ban Chấp hành Trung ương về việc xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
30/7/2013 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển tỉnh Nghệ An đến năm
2020, đồng thời tạo điều kiện để thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo
theo tinh thần Nghị quyết số 29/NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương 8 khóa XI.
2.3 Trên lĩnh vực giao thong
Vấn đề giao thông
Việt Nam đang tiến hành chương trình đầu tư tham vọng bao gồm nhiều dự án qui mô lớn về
xa lộ, cảng biển, sân bay và đường sắt để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao mà Chính
phủ đã đề ra trong kế hoạch phát triển dài hạn 2010-2020. Hình 3 cho thấy ở Việt Nam đang
nổi lên nhiều cụm ngành công nghiệp cạnh tranh, phần lớn mang tính thâm dụng lao động và
định hướng xuất khẩu. Liệu Việt Nam có định vị được mình để tăng trưởng dài hạn hay

không còn phụ thuộc vào việc phát triển thành công những cụm công nghiệp này. Tuy nhiên,
địa điểm và cơ cấu đầu tư cho giao thông từng được thực hiện và theo kế hoạch sắp tới dường
như không hỗ trợ cho những cụm công nghiệp này.


Giao thông đường bộ Có một số dự án giao thông đường bộ thành công trước đây đã làm
giảm chi phí vận tải giữa những vùng sâu trong đất liền với các thị trường chính trong nước
và quốc tế, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư nội địa và đầu tư nước ngoài. Các dự án này gồm
dự án nâng cấp Quốc lộ 1 (xa lộ Bắc Nam), nâng Du lịch Linh kiện ô tô & xe máy Đóng tàu
Vận tải Du lịch Điện tử Gốm sứ Cà phê Hạt điều Điện tử Chế biến thực phẩm Trái cây Gạo
Cá Du lịch Tôm Giày dép Vận tải Dầu khí Du lịch Đồ gỗ ngoài trời 7 cấp Quốc lộ 5 (nối Hà
Nội với thành phố cảng Hải Phòng) và việc mở rộng cảng Hải Phòng.10 Tuy nhiên, cũng có
một số dự án lớn được quyết định không dựa trên cơ sở kinh tế vững chắc.
Phát triển cảng :
Liên quan đến vận tải hàng hải, việc thiếu một đường cao tốc có kiểm soát và hệ thống đường
sắt hàng hóa đã góp phần làm tăng chi phí vận tải trong đất liền. Trước những phát triển
nhanh chóng của các phương tiện vận tải khác như máy bay, vận tải biển vẫn là phương thức
vận chuyển hàng hóa quốc tế chủ yếu. Hiện tại, 80% khối lượng thương mại liên quan đến
các nước đang phát triển là theo đường thủy. Cảng đóng vai trò quan trọng như cửa ngõ cho
thương mại. Chi phí cảng cao sẽ làm cho sản phẩm của một quốc gia kém cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Trong xu hướng thương mại ngày càng tăng của đất nước, Chính phủ cũng đã
công bố những kế hoạch tham vọng xây dựng cảng biển nước sâu ở nhiều tỉnh ven biển.


Giao thông vận tải đô thị :
Vấn đề càng trở nên rõ ràng khi điều kiện giao thông ngày càng tệ hại ở Hà Nội và TPHCM
sẽ sớm làm ngưng trệ các hoạt động kinh tế ở 2 thành phố này. Trước tình hình đó, Chính phủ
đã quyết định xây hệ thống tàu điện ngầm ở hai thành phố với tổng chi phí là 15 tỉ đô-la.
Nhưng nếu nhìn qua bản qui hoạch tổng thể của 2 hệ thống này ta sẽ thấy chi phí dự kiến
nhìn chung chưa ước tính đúng. Hệ thống tàu điện ngầm (MRT) ở TPHCM sẽ gồm 6 tuyến,

cộng thêm hai tuyến xe điện và 3 tuyến tàu đơn ray (monorails). MVA Asia là công ty tư vấn
do ADB thuê để làm nghiên cứu qui hoạch tổng thể hệ thống MRT của thành phố, đã ước
tính rằng toàn bộ mạng lưới gồm 161 km sẽ tốn 9,7 tỉ đô-la, hoặc bình quân 60 triệu đô-la
một km. Sẽ có 48 km đường hầm (ước tính chi phí 90 triệu đô-la/km), 98 km trên không (50
triệu đô-la/km) và 15 km đường tàu điện trên mặt đất (20 triệu đô-la/km).
3. Sự tác động của cơ sở hạ tầng hiện tại ở thành thị tới phát triển của xã hội.
3.1 Các tác động tích cực

Những tác động tích cực ảnh hưởng đến sự phát triển xã hội
-Về hệ thống giao thông đường bộ, tổng chiều dài hê thống đường bộ trên cả nước đã tăng, hệ
thống đường cao tốc cũng đã có những bước tiến vượt bậc. các công trình giao thông huyết
mạch được khởi công và hoàn thành giúp thay đổi bộ mặt giao thông của đất nước
-Hệ thống giao thông đường sắt của Việt Nam được cải thiện và mở rộng quy mô theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm đắp ứng nhu cầu đi lại của người dân cũng như
giao thương giữa các vùng trên cả nước, từ đó giúp giảm bớt thời gian di chuyển giữa các
tỉnh thành phố với nhau.
-Hệ thống cơ sở hạ tầng nước ta dần được cải thiện, quy mô được mở rộng và hình thức ngày
càng đa dạng. Điều thành công hơn nữa là ngoài nguồn lực của nhà nước, cơ cấu của nguồn
đầu tư này còn được đa dang hóa bởi nguồn đầu tư, đóng góp tự nguyện của nhân dân


-Hệ thống giao thông đường biển có những thay đổi và bước tiến quan trong để góp phần đưa
đất nước hội nhập nhanh với quốc tế. Đặc biệt các cửa ngõ giao thương then chốn như Hải
Phòng, Cửa Lò, Quy nhơn... từng bước được nâng cấp hiện đâị để có thể đón những chuyến
tàu lớn vào Việt Nam một cách thuận lợi nhất
-Hệ thống sân bay, cảng hàng không đang hoạt động trên cả nước là 22 cảng, số sân bay
quốc tế là 8, nhiều sân bay quân dụng cũng đã được chuyển đổi mục đích sử dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu đi lại cũng như nhu cầu thông thương ra quóc tế.
-Về hệ thống đường thủy nội địa cũng như giao thông nông thôn cũng từng bước được chú
trọng, đó là nhờ sự quan tâm đầu tư đúng mức của nhà nước và xã hội vào lĩnh vực này, giúp

cho khoảng cách từ các thành phố lớn về các đô thị địa phương được tiết kiệm thời gian và
thuận tiện hơn rất nhiều.
-Cơ sở hạ tầng năng lượng từng bước được đa dạng hóa nguồn cung cấp, tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ vì không còn phải phụ thuộc vào một nguồn cung cấp khác được tận dụng và khai
thác để tạo năng lượng giúp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và ổn định sản xuất kinh
doanh.
-Hệ thống thủy lợi, trạm bơm được phát triển theo hướng hiện đại hóa, đảm bảo nguồn nước
tưới tiêu cho cho nông dân, đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn để xuất khẩu. Ngoài ra các
hệ thống công trình phòng chống lũ và thiên tai cũng được đầu tư đúng mức qua đó ứng phó
được với một số hiện tượng biến đổi khí hậu một cách kịp thời, giảm thiểu thiệt hại đến mức
thấp nhất.
-Hệ thống cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông trong những năm vừa qua được mở rộng
cả về số lượng lẫn chất lượng. Người dân tiếp xúc với công nghệ ngày càng nhiều, điện thoại,
máy tính kết nối internet có mặt mọi nơi. Bước tiến mới là đã thực hiện các thành công chính
sách xã hội hóa công nghệ thông tin, góp phần nâng cao trình độ công nghệ trong tất cả lĩnh
vực
3.2 Các tác động tiêu cực


Tiêu cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ở thành thị
- Tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng so với mặt bằng chun còn chậm, so với một số nước thì còn
quá lạc hậu và thiếu đồng bộ.
+Hình thức vận tải đa phương thức vẫn chưa được chú trọng, hệ thống đường bộ và đường
biển chưa được kết nối liên hoàn với nhau, kém chất lượng về kĩ thuật và tuổi thọ của công
trình.
+ Hệ thống đường sắt còn lạc hậu
+ Hệ thống cảng, sân bay, hang không chưa đủ khả năng và cơ sở vật chất.
+ Cơ sở hạ tầng mạng lưới điện quốc gia chỉ đạt trình độ trung bình so với khu vực và thế
giới, chất lượng điện lưới còn thấp, gây tổn thất điện năng lớn.
+ Hệ thống hạ tầng thủy lợi xuống cấp nghiêm trọng nhưng ít được chú trọng, tu bổ và bảo

trì.
+ Cơ sở vật chất, hạ tầng truyền thông và công nghệ thông tin chưa thật sự đáp ứng tốt yêu
cầu của người sử dụng, hạ tầng phát triển nhanh về quy mô nhưng thiếu tính bền vững
+ Chất lượng hạ tầng đô thị còn kém, diện tích cho giao thông đô thị không đáp ứng được
nhu cầu đi lại và làm việc của người dân.
+ Cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác giáo dục, an ninh xã hội, thiếu về số lượng và kém về
chất lượng.
=> Những yếu kém về cơ sở hạ tầng là một trong những trở ngại lớn đối với sự tăng trưởng
và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng kém làm chậm
giải ngân vốn đầu tư, gia tăng chi phí sản xuất linh doanh; giảm năng lực cạnh tranh của
doanh

nghiệp,

gây

nhiều

khó

khăn

3.3 Các giải pháp khắc phục tác động tiêu cực
Giải pháp khắc phục tiêu cực

cho

đời

sống


nhân

dân.


- Các công trình trọng điểm, có tính chất quan trọng giải quyết được nhiều thực trạng xã hội
cần đầu tư và hoàn thành sớm, chứ không nên đầu tư dàn trải gây lãng phí mà không mang lại
hiệu quả. Để thực hiện tốt mục tiêu này cần sớm ban hành Luật đầu tư công nhằm tang hiệu
quả sử dụng nguồn Ngân sách cũng như tránh thất thoát nguồn quỹ quốc gia trong đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng
- Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm thu hút đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế. Các
công trình giao thong lớn cũng như các hạ tầng phúc lợi xã hội có lien kết với nước ngoài cần
triển khai sớm và tận dụng triệt để nguồn viện trợ ODA.
- Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới, tiến hành chính sách đi tắt đón đầu
nhằm rút ngắn trình độ so với các nước phát triển bên cạnh việc áp dụng khoa học công nghệ
nhằm năng cao hiệu quả khai thác và vận hành.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành để đảm bảo sự đồng bộ trong việc đầu
tư và khai thác cơ sở hạ tầng. hệ thống giao thong nông thôn cần đẩy mạnh huy động nguồn
lực từ trong dân để kiên cố và phát triển.
Bên cạnh đó, việc tang cường kêu gọi ý thức giữ gìn và bảo vệ tài sản công cộng từ người
dân nhằm nâng cao hiệu quả vận hành cũng như tang tuổi thọ cho các công trình hạ tầng cơ
sở




×