Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

hiện trạng môi trường khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.29 KB, 81 trang )

MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, vấn đề môi trường biển và đới ven bờ đã và
đang được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm. Môi
trường của các vùng đất ngập mặn là một phần không thể thiếu thuộc đới ven bờ
của mọi quốc gia có biển. Vùng đất ngập mặn được coi là nơi rất nhạy cảm về
môi trường hiện nay bởi lẽ ở đó có tương tác trực tiếp giữa đất liền và biển. Mọi
biến động về môi trường cả phía đất liền cũng như biển đều lưu lại dấu tích
trong vùng đất đó. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá tổng thể hiện trạng môi
trường và đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý các vùng đất ngập mặn ven biển
nước ta hiện nay là một yêu cầu thời sự và cấp bách.
Huyện Kim Sơn được thành lập năm 1892 và là huyện ven biển duy nhất
của tỉnh Ninh Bình. Do vị trí nằm kẹp giữa sông Đáy ở phía đông và sông Càn ở
phía tây, nên phần lớn đất đai của huyện được hình thành bởi quá trình bồi tụ
của hai con sông này tạo nên. Lịch sử phát triển huyện Kim Sơn gắn liền với 9
lần quai đê lấn biển. Cho đến nay, tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là
20.747 ha, trong đó vùng bãi bồi Kim Sơn có diện tích khoảng 6.660 ha và chia
ra 4 khu vực như sau:
- Khu vực Bình Minh 1: Khu vực trong đê Bình Minh 1 thuộc Nông
trường Bình Minh.
- Khu vực Bình Minh 2: từ đê Bình Minh 1 đến đê Bình Minh 2.
- Khu vực Bình Minh 3: từ đê Bình Minh 2 đến đê Bình Minh 3.
- Khu vực Bình Minh 4: từ ngoài đê Bình Minh 3 đến mép triều kiệt.
Trong đó, hai khu vực Bình Minh 3 và Bình Minh 4 là khu vực đất ngập
mặn chịu ảnh hưởng trực tiếp của thuỷ triều lên xuống hàng ngày do đê Bình
Minh 3 chưa được khép kín.
Bãi bồi Kim Sơn là vùng đất mở. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu,
mỗi năm mảnh đất này có tốc độ lấn ra biển trung bình từ 80 - 100m. Đây là khu
vực có tốc độ bồi tụ hàng năm thuộc loại lớn nhất ở vùng ven biển nước ta.
Trước đây, việc khai thác bãi bồi hầu như chỉ theo một mục đích duy nhất là tạo
thêm đất nông nghiệp và nơi ở cho một bộ phận dân cư không có đất đai canh
1


tác. Do vậy, hiệu quả kinh tế khai thác bãi bồi không được xem là vấn đề quan
trọng mà an sinh xã hội mới là vấn đề đặt lên hàng đầu.
Bãi bồi Kim Sơn là mảnh đất luôn biến động do ảnh hưởng của hai tác
nhân chủ yếu là các điều kiện tự nhiên và hoạt động kinh tế của con người. Vì
vậy, đánh giá đúng, chính xác các điều kiện tự nhiên và xu thế biến động của
chúng, đồng thời điều chỉnh hoạt động của con người sao cho phù hợp trong vấn
đề khai thác sử dụng bãi bồi đảm bảo sự PTBV cả về kinh tế và môi trường là
nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, chúng tôi đã thực hiện đề tài
nghiên cứu khoa học với tiêu đề: “Đề xuất quy hoạch môi trường vùng bãi bồi
ven biển huyện Kim Sơn - tỉnh Ninh Bình”. Mục tiêu của đề tài là đánh giá tổng
thể hiện trạng môi trường sinh thái, tạo cơ sở khoa học cho chính quyền địa
phương hoạch định chính sách quản lý và BVMT cũng như phát triển cơ cấu
kinh tế hợp lý bễn vững và có hiệu quả vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn nói riêng
và các vùng đất ngập mặn ven biển nói chung.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
 Nghiên cứu hiện trạng môi trường khu vực bãi bồi ven biển huyện
Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình: hiện trạng môi trường đất, nước.
 Nghiên cứu các nguyên nhân gây biến động môi trường và dự báo
xu hướng biến động môi trường vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn.
 Đưa ra các định hướng và các giải pháp quy hoạch nhằm sử dụng
hợp lý và bền vững tài nguyên khu vực bãi bồi. Thành lập bản đồ định hướng
quy hoạch môi trường khu vực.
2
CHƯƠNG 1
1.1. TỔNG QUAN VỀ QUY HOẠCH MÔI TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm về quy hoạch môi trường
Trong tài liệu hướng dẫn về Phương pháp luận quy hoạch môi trường do
Cục môi trường thuộc Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ban hành (tháng
12/1998) đã đưa ra khái niệm về QHMT như sau: “QHMT là quá trình sử dụng

có hệ thống các kiến thức khoa học để xây dựng các chính sách và biện pháp
trong khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm định
hướng các hoạt động phát triển trong khu vực, đảm bảo mục tiêu phát triển bền
vững.
Thực chất của công tác QHMT là việc tổ chức không gian lãnh thổ và sử
dụng các thành phần môi trường phù hợp với chức năng môi trường và điều kiện
tự nhiên trong vùng quy hoạch. Mặt khác, không gian lãnh thổ đều được sử
dụng cho các hoạt động KT - XH của con người. Vì vậy QHMT cũng có thể
ngoài quy hoạch mới về chức năng môi trường không gian còn có thể là việc
điều chỉnh không gian và các thành phần môi trường đã có làm sao để việc khai
thác sử dụng chúng phù hợp với chức năng môi trường của mình. Như vậy thực
chất của công tác QHMT lãnh thổ là điều hoà sự phát triển của hệ thống KT -
XH. Môi trường đang tồn tại ở đó. Mục tiêu của sự điều hoà này là đảm bảo một
cách bền vững sự phát triển KT-XH mà không vượt quá khả năng chịu đựng của
môi trường tự nhiên.
1.1.2. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung cơ bản của quy hoạch môi
trường
1.1.2.1. QHMT phải đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây
- Đảm bảo chất lượng môi trường phù hợp với từng đơn vị không gian
chức năng môi trường (có 4 chức năng môi trường cơ bản là cung cấp tài
nguyên, tổ chức sản xuất, tổ chức dân cư và chứa đựng chất thải).
- Điều chỉnh các hoạt động phát triển và quản lý chất thải nhằm đảm bảo
môi trường sống trong sạch cho con người.
3
- Nâng cao hiệu quả khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên.
- Tổ chức quản lý môi trường theo khu vực hoặc theo vùng quy hoạch.
1.1.2.2. QHMT ở bất kỳ cấp nào đều phải đảm bảo các nguyên tắc sau
đây:
- Sự phù hợp của cấu trúc và bố trí cơ cấu phát triển KT - XH với luật bảo
vệ môi trường và các luật về sử dụng hợp lý từng dạng tài nguyên thiên nhiên về

chất lượng môi trường nhằm PTBV.
- Phối hợp, lồng ghép với QHPTKTXH, quy hoạch quản lý tài nguyên
thiên nhiên, sử dụng đất.
- Kết hợp giữa các nhà khoa học và thực tiễn sẵn có phục vụ cho công tác
quản lý môi trường. Hoạt động QHMT được tiến hành trên cơ sở ứng dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ liên ngành ở trình độ tiên tiến.
- Sẵn sàng thực hiện kiểm soát toàn bộ chất gây ô nhiễm ở mức độ phân
chia chức năng khác nhau, trong đó tổng lượng chất ô nhiễm thải ra không vượt
quá giới hạn quy định.
1.1.2.3. Các nội dung chính của QHMT bao gồm:
- Quy hoạch và quản lý tài nguyên (nông nghiệp, lâm nghiệp, khoáng sản,
các khu bảo tồn)
- Quy hoạch sinh thái cảnh quan (chức năng tự nhiên của cảnh quan, các
hệ sinh thái, các khu hệ động thực vật, đa dạng sinh học, các lưu vực và mạng
lưới sông ngòi).
- Quy hoạch sinh thái đô thị (sử dụng các nhiên liệu hoá thạch liên quan
đến khí nhà kính và các chất gây ô nhiễm khác, chất thải sản xuất và sinh hoạt,
sinh thái cảnh quan đô thị).
Các bước nghiên cứu trong QHMT được thể hiện trong Hình 1.
1.1.3. Các hoạt động triển khai về quy hoạch môi trường trên Thế giới
và ở Việt Nam
1.1.3.1. Quy hoạch môi trường trên Thế giới
Ngay từ những năm đầu của thế kỷ 19 đã xuất hiện quan niệm QHMT
rộng rãi trong công chúng. Lý thuyết về QHMT đã được phát triển liên tục từ
4
nhà xã hội học Nga Pháp, Le Play, đến nhà quy hoạch Scotlen, Sir Patrick
Geddes, và sau đó là người học trò người Mỹ của ông, Lewis Mumford, và sau
này là Ian McHarg tác giả của Thiết kế cùng tự nhiên (Design with Nature).
QHMT đã thực sự được quan tâm từ khi xuất hiện Phong trào môi trường
(Environmental Movement) ở Mỹ vào những năm 60, khi mà các quốc gia phát

triển trên thế giới quan tâm một cách nghiêm túc tới các thông số môi trường
trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển.
Kinh nghiệm về lý thuyết và thực hành quy hoạch vùng ở châu Âu, châu
Mỹ và châu Á khác nhau rất nhiều. Ngay tại Mỹ nhiều lúc, các nhà quy hoạch
vùng đã từng bị coi là không thực tế và vai trò của khoa học môi trường đối với
các nhà quy hoạch ít gây được chú ý của công chúng. Ở Úc, các yếu tố môi
trường được đem vào quy hoạch vùng ngay từ năm 1941.
Ở châu Á, quy hoạch phát triển vùng phát triển nhất tại Nhật Bản. Khởi
đầu từ năm 1957, quy hoạch phát triển cho các vùng nông thôn kém phát triển
nhằm đạt được việc sử dụng hiệu quả đất và các nguồn tài nguyên thông qua quy
hoạch hoàn chỉnh, sự đầu tư của công chúng vào cơ sở hạ tầng, tạo môi trường
sống trong lành, và thông qua các biện pháp bảo tồn thiên nhiên.
Quy hoạch vùng ở châu Á tập trung vào cả vùng nông thôn và thành thị.
Quy hoạch vùng nông thôn thường bao gồm định cư, phát triển tài nguyên nước.
Giai đoạn nhận thức môi trường ở châu Á và các nước phát triển khác là từ khi
xảy ra hàng loạt vụ khủng hoảng môi trường những năm 50, 60 đã nổi lên do
nhiễm độc thuỷ ngân ở Minamata, Nhật Bản, những ảnh hưởng liên quan đến
thuốc trừ sâu, tràn dầu và nhiều sự cố môi trường mà ảnh hưởng của chúng đã
tác động lên một vùng rộng lớn gây sự chú ý của công chúng. Tại khu vực châu
Á – Thái Bình Dương, sau Hội nghị môi trường Liên Hợp Quốc tại Stockholm,
cuộc họp liên quốc gia tại Bankok năm 1973 đã thông qua Kế hoạch hành động
châu Á về môi trường.
5
6
Đánh
giá hiện
trạng
kinh tế
- xã hội
Đánh

giá hiện
trạng
các
thành
phần
môi
trường
Đánh
giá tổng
hợp
chất
lượng
môi
trường
Quy hoạch môi trường
Đánh giá hiện
trạng kinh tế - xã
hội và môi trường
Dự báo phát triển kinh tế
-xã hội (nếu chưa có) và
dự báo biến động tài
nguyên và môi trường
Phân tích, đánh
giá chức năng
môi trường
Quản lý môi trường theo
phương án QHMT. Các chính
sách, quy định, biện pháp,
công cụ môi trường thích hợp
Dự báo

phát
triển
kinh tế -
xã hội
(nếu
chưa
có)
Dự báo
biến
động tài
nguyên
theo các
phương
án phát
triển
Dự báo
biến
động
môi
trường
theo các
phương
án phát
triển
Không
gian
sống
Cung
cấp tài
nguyên

Khu
vực
công
nghiệp
Chất
thải, hệ
thống
đổ thải
Phân vùng chức năng môi trường
Sơ đồ QHMT cho các hành động phát triển
Hình 1: Sơ đồ các bước nghiên cứu trong QHMT
Hiện nay, vấn đề QHMT đã được quan tâm và phát triển ở nhiều nước
trên thế giới. Một số tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) đã phát hành nhiều tài liệu hướng dẫn và giới thiệu
kinh nghiệm về QHMT ở nhiều nước trên thế giới.
1.1.3.2. Quy hoạch môi trường ở Việt Nam
Trong những năm qua, cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước, nhiều vùng kinh tế trọng điểm đã hình thành bao gồm vùng kinh tế
trọng điểm miền Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. Gần đây các địa phương đang đề nghị Chính phủ cho phép
thành lập vùng kinh tế trọng điểm Tây Nguyên và vùng kinh tế trọng điểm Đồng
bằng Sông Cửu Long. Hiện nay tất cả 8 vùng kinh tế và 3 vùng kinh tế trọng
điểm trong cả nước đã có QHPTKTXH đến năm 2010, nhiều ngành cũng đã xây
dựng quy hoạch phát triển. Mặc dù đến nay đã có nhiều đề tài, dự án về BVMT
được triển khai trên địa bàn các vùng này, nhưng một vấn đề có tính chất chiến
lược nhằm bảo đảm PTBV tại mỗi vùng là QHMT vùng vẫn chưa được đề cập
đến.
Ở cấp vĩ mô có nhiều hoạt động đã và đang được triển khai trong thực tế
nhằm PTBV đất nước. Nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến QHMT tại
Việt Nam cũng đang được thực hiện, bao gồm các chương trình, đề tài cấp Nhà

nước đến các đề tài nghiên cứu cấp địa phương.
1.1.4. Các phương pháp và công cụ dùng trong quy hoạch môi trường
1.1.4.1. Các phương pháp
Hiện nay có rất nhiều phương pháp được dùng trong QHMT, mỗi phương
pháp đều có những ưu nhược điểm và phạm vi áp dụng riêng. Việc áp dụng
phương pháp nào là tuỳ thuộc rất nhiều vào thông tin, dữ liệu đầu vào, tính chất
và các thành phần của các kịch bản, phương án phát triển cũng như các đối
tượng trong QHMT Tuy nhiên, các phương pháp có thể tổ hợp theo các nhóm
chính như sau:
- Phương pháp phân tích hệ thống
7
- Đánh giá tác động môi trường
- Kinh tế môi trường
- Lựa chọn ưu tiên
Trong mỗi phương pháp trên lại có rất nhiều phương pháp hỗ trợ được sử
dụng khác nhau, như các phương pháp danh mục, ma trận, mô hình toán học
QHMT là một lĩnh vực phức tạp, nên nó thường đòi hỏi phải có sự kết
hợp hài hoà và sử dụng hợp lý từng hệ phương pháp trong từng nội dung cụ thể.
1.1.4.2. Các công cụ
Công cụ QHMT thường bao gồm công cụ thực hiện QHMT và công cụ
quản lý QHMT.
Công cụ thực hiện QHMT
Công cụ pháp lý
Công cụ có tính tiên quyết, quyết định mọi nội dung, công việc của
QHMT. QHMT được thực hiện luôn phải xuất phát điểm từ các thể chế, chính
sách của chính đối tượng được quy hoạch (quốc gia, tỉnh, khu vực). Đó là các
văn bản luật môi trường; nghị định, thông tư, các chính sách, chiến lược quản lý
môi trường. Tất cả các công cụ này được vận dụng phù hợp trong quá trình quy
hoạch.
- Công cụ kỹ thuật

Công cụ kỹ thuật là công cụ chủ đạo quyết định hiệu quả việc thực hiện
QHMT. Để lập QHMT trước hết phải có các thông tin dữ liệu nền, thường là:
+ Hiện trạng môi trường (cả tự nhiên và kinh tế - xã hội, xuất phát điểm)
+ Hiện trạng khai thác sử dụng các loại tài nguyên thiên nhiên và nhân lực
+ Các chiến lược BVMT
+ QHPTKTXH
+ Quy hoạch quản lý tài nguyên thiên nhiên
+ Quy hoạch sử dụng đất đai
+ Các thông số nền
8
Tiếp đến là các phương tiện, công nghệ thực hiện như: máy móc, trang
thiết bị và yếu tố quan trọng là đội ngũ cán bộ chuyên môn có trình độ, năng lực
cao, am hiểu các lĩnh vực QHMT.
- Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế là công cụ có tính đảm bảo cho việc thực hiện QHMT.
Khi lập QHMT, ngay từ khâu đầu tiên (chuẩn bị, lập đề cương) phải tính đến:
đầu vào của các nguồn tài chính (quỹ). Vì tính chất việc BVMT là một loại hình
hoạt động của Chính phủ nên đầu tư BVMT được xếp trong kế hoạch phát triển
KT - XH của quốc gia và được thực hiện bởi các cấp chính quyền.
Công cụ quản lý QHMT
Để QHMT thực hiện được mục tiêu PTBV thì vấn đề quản lý QHMT
đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi vậy, để quản lý tốt cần có các chính sách,
quy chế hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của khu vực quy hoạch. Các chính
sách, quy chế này nhiều khi được hình thành, xuất phát trong quá trình quy
hoạch, nên phù hợp và nằm trong phạm vi của các Luật, Nghị định do Nhà nước
ban hành nhưng có khi nó đảm bảo tính nghiêm ngặt và khắt khe hơn.
Bên cạnh các chính sách, quy chế, còn phải có một bộ máy tổ chức quản
lý, giám sát liên tục và kèm theo là các thiết bị công nghệ để thực hiện đồng bộ
và có hiệu quả.
1.2. TỔNG QUAN VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG

BÃI BỒI VEN BIỂN HUYỆN KIM SƠN - TỈNH NINH BÌNH
1.2.1. Điều kiện tự nhiên vùng bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn - tỉnh
Ninh Bình
1.2.1.1. Vị trí địa lý
Vùng bãi bồi ven biển Kim Sơn được hình thành do sự bồi tụ của hai cửa
sông chính là sông Đáy ở phía Đông, sông Càn ở phía Tây, với vị trí địa lý
khoảng 19
0
56’44’’ - 20
0
00 Vĩ độ Bắc và 106
0
2’05’’ - 106
0
05’20’’ Kinh độ
Đông. Vùng bãi bồi Kim Sơn nằm ở điểm đỉnh điểm phía Đông Nam của vùng
đồng bằng Bắc Bộ; phía Nam giáp Vịnh Bắc Bộ, phía Đông giáp sông Đáy, phía
Tây giáp sông Càn, phía Bắc giáp đê Tùng Thiện và đê Cồn Thoi. Vùng bãi bồi
9
Kim Sơn có điều kiện thuận lợi về giao thông đó là lợi thế về con đường số 10 là
huyết mạch giao thông giữa các vùng ven biển đồng bằng châu thổ Sông Hồng.
1.2.1.2. Đặc điểm khí hậu
Chế độ gió
Hướng gió thịnh hành trong vùng thay đổi theo tần suất xuất hiện các khối
không khí xâm nhập và thay đổi theo mùa. Chế độ gió trong vùng chịu tác động
trực tiếp của hai hướng gió thổi chính trong năm là gió đông bắc và gió đông
nam. Gió đông bắc thịnh hành vào mùa khô, tốc độ trung bình khoảng 34 m/s,
còn gió đông nam thịnh hành vào mùa mưa, tốc độ trung bình khoảng 45 m/s.
Trong một ngày gió thường thổi từ đất liền ra biển vào ban ngày và từ biển vào
đất liền vào ban đêm.

Chế độ nhiệt
Chế độ nhiệt ở Kim Sơn nằm trong nền nhiệt độ chung của Bắc Việt Nam
với sự hoạt động mạnh mẽ của cơ chế gió mùa. Nhìn chung chế độ nhiệt ở Kim
Sơn có đặc điểm phân chia theo mùa tương đối rõ rệt và có sự biến động lớn về
nhiệt về mùa đông, ổn định về mùa hạ.
Vào mùa đông được đặc trưng bởi sự hoạt động mạnh mẽ của không khí
lạnh cực đới làm cho nhiệt độ hạ thấp rõ rệt so với vùng nhiệt đới tiêu chuẩn.
Mùa lạnh ở Kim Sơn có thể bắt đầu từ tháng XII đến tháng III với nhiệt độ dao
động trong khoảng 15 - 20
0
C. Vào mùa hạ lại đặc trưng bởi các luồng không khí
nóng ẩm nên làm tăng nhanh nhiệt độ và ổn định nhanh chóng. Mùa nóng kéo
dài từ tháng V đến tháng X với nhiệt độ trung bình ổn định lớn hơn 25
0
C. Giữa
hai mùa nóng lạnh là những thời kỳ chuyển tiếp, thời kỳ mùa nóng sang mùa
lạnh khoảng một tháng rưỡi (15/X - 30/XI), thời kỳ mùa lạnh sang mùa nóng có
ngắn hơn chút ít.
Chế độ mưa
Chế độ mưa ở Kim Sơn phụ thuộc vào sự hoạt động của gió mùa và các
nhiễu động. Chế độ mưa có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa tương ứng với mùa nóng (V
- X) và mùa ít mưa tương ứng với mùa lạnh (XI - IV).
10
Lượng mưa trung bình mùa của vùng ven biển là 1.550 - 1.750 mm. Mức
độ dao động của lượng mưa trung bình mùa khá lớn: từ 700 – 800 mm những
năm ít mưa đến 2.800 - 3.000 mm những năm mưa nhiều. Phân bố lượng mưa
trung bình hàng tháng vào mùa mưa không đồng đều mà tăng dần từ tháng V
(140 – 150 mm) sang các tháng VI - VII (200 mm) đến các tháng VIII - IX (300
- 400 mm). Đặc biệt vào cuối mùa mưa thường xuất hiện mưa rào và dông xảy
ra vào đêm và sáng sớm.

Tổng lượng mưa mùa ít mưa chỉ chiếm từ 12 - 14% tổng lượng mưa năm,
với số ngày mưa từ 47 - 57 ngày. Lượng mưa trung bình của mùa ít mưa khoảng
200 – 230 mm với lượng mưa trung bình tháng thay đổi từ tháng XI (75 – 110
mm) sang các tháng I - II (25 – 35 mm) đến tháng III (58 mm). Thời kỳ các
tháng XII - I là thời kỳ hay xảy ra hạn kéo dài, có trường hợp suốt 60 ngày
không có mưa hoặc mưa không đáng kể.
Độ ẩm không khí
Do vị trí sát biển nên Kim Sơn là miền khí hậu thường xuyên ẩm ướt, độ
ẩm tương đối trung bình năm của các vùng đều có trị số 85 - 86%. Biến thiên độ
ẩm tương đối xảy ra theo mùa
- Mùa ít mưa: Vào thời kỳ khô hanh (tháng XII - I) độ ẩm tương đối trung
bình có thể thấp hơn 60 - 70%. Vào thời kỳ ẩm (tháng II - IV) trùng với mùa
mưa phùn nên là thời kỳ rất ẩm, độ ẩm tương đối trung bình xấp xỉ 90%.
- Mùa mưa: thường xuyên duy trì tình trạng độ ẩm cao, trị số độ ẩm tương
đối trung bình mùa đều đạt trên 82%. Tuy nhiên chúng biến thiên theo các tháng
khác nhau. Vào các tháng V - VII độ ẩm tương đối có trị số thấp hơn các tháng
khác. Vào nửa sau của mùa mưa độ ẩm không khí luôn duy trì từ 85 - 90%.
Điều kiện bức xạ
Là một vùng nằm trong vùng nội chí tuyến, có độ cao mặt trời lớn, thời
gian chiếu sáng dài nên vùng ven biển Kim Sơn có được một chế độ bức xạ rất
dồi dào với bức xạ thực tế hàng năm đạt tới trị số 120 Kcal/cm
2
/năm. So với
tổng lượng bức xạ lý thuyết thì tổng lượng bức xạ thực tế chỉ chiếm 50 - 60%.
Sự phân bố tổng lượng bức xạ thực tế hàng tháng có sự biến thiên và có sự khác
11
biệt giữa sự biến thiên của chúng với sự biến thiên của bức xạ lý thuyết hàng
tháng. Trị số bức xạ thực tế cao nhất vào tháng VII (14,64 Kcal/cm
2
) và thấp

nhất vào tháng II (5.50 Kcal/cm
2
)
Sương mù
Sương mù ở Kim Sơn được hình thành nhiều nhất trong mùa đông, bắt
đầu xuất hiện từ tháng X (dạng sương mù bức xạ) nhưng nhiều nhất vẫn là tháng
III (chủ yếu dạng sương mù bình lưu). Trung bình tháng có từ 4 - 6 ngày sương
mù; một số năm lên đến trên 10 ngày.
Bão
Kim Sơn nằm trong vùng chịu ảnh hưởng thời tiết miền Bắc nên thuộc
phạm vi ảnh hưởng của khu vực ảnh hưởng bão từ Quảng Ninh đến Thanh Hoá.
Mùa bão bắt đầu từ tháng VI đến tháng IX. Mỗi năm thường có khoảng 9 - 10
cơn bão hoạt động trên biển Đông, năm nhiều nhất có đến 17 - 18 cơn. 60% cơn
bão hình thành ở miền Tây Thái Bình Dương, 40% hình thành ngay trong biển
Đông. Tháng có nhiều bão nhất là các tháng VII - IX. Theo số liệu thống kê
trong 45 năm (1956 - 2000) thì có 103 cơn bão đổ bộ vào biển Quảng Ninh -
Thanh Hoá, năm nhiều nhất có tới 6 cơn; trong đó có 10 cơn bão và áp thấp
nhiệt đới đổ bộ vào vùng biển Nam Định - Ninh Bình. Do Kim Sơn nằm sát biển
nên khi bão đổ bộ vào chịu ảnh hưởng rất lớn của gió bão, trong vùng đã quan
sát được tốc độ gió 45 - 50 m/s. Bên cạnh sức phá hoại mạnh mẽ của gió thì khu
vực ven biển còn hứng chịu các cơn sóng biển, nước dâng do bão tàn phá đê
biển, nhiễm mặn. Tất cả các cơn bão đều gây nên hiện tượng mưa lớn đến rất
lớn với lượng mưa lên đến hàng trăm mm, lượng mưa do bão gây nên không
phụ thuộc vào tâm cơn bão có trực tiếp đi qua vùng hay không. Thời gian tồn tại
trung bình của các cơn bão thường 4 - 5 ngày.
1.2.1.3. Đặc điểm thuỷ, hải văn
Hệ thống sông, kênh mương
Vùng nghiên cứu có 3 con sông chảy qua: Sông Đáy, sông Tống Càn và
Sông Vạc.
12

- Sông Đáy bắt nguồn từ Hà Tây, chảy qua Hà Nam sau đó trở thành ranh
giới tự nhiên giữa hai tỉnh Ninh Bình với Nam Định bắt đầu từ xã Gia Thanh
huyện Gia Viễn đến xã Kim Đông huyện Kim Sơn. Đoạn sông Đáy chảy qua
vùng nghiên cứu dài khoảng 18 km bắt đầu từ xã Hùng Tiến qua các xã Như
Hoà, Quang Thiện, Đồng Hướng, Kim Chính, Thượng Kiệm, Lưu Phương, Cồn
Thoi, Kim Đông. Lưu lượng nước đoạn sông này về mùa mưa khoảng 13.500
m
3
/s và vào mùa khô khoảng 5600 m
3
/s. Sông Đáy là một trong những sông có
tải lượng phù sa từ đất liền đổ ra biển lớn khoảng 18.000.000 m
3
và tỷ lệ bùn cát
đọng lại ở đới ven bờ rất cao khoảng 7.380.000 m
3
.
- Sông Tống Càn: Sông bắt nguồn từ Bỉm Sơn Thanh Hoá, chảy qua Hà
Trung Nga Sơn rồi trở thành ranh giới tự nhiên của Kim Sơn - Ninh Bình và
Nga Sơn - Thanh Hoá từ xã Định Hoá qua xã Vân Hải, Kim Mỹ, Kim Hải rồi đổ
ra biển. Đoạn chảy qua vùng nghiên cứu của sông Tống Càn dài khoảng 9 km.
Đây là một con sông nhỏ, hẹp dòng chảy chậm. Lưu lượng về mùa mưa khoảng
2500 m
3
/s và mùa khô khoảng 1200 m
3
/s. Sông Tống Càn chảy dọc vùng đồng
bằng Hà Trung, Nga Sơn Thanh Hoá hướng tây - đông rồi mới đổ ra biển nên
lượng phù sa hàng năm tải ra biển không nhiều. Tuy nhiên cũng góp phần tăng
lượng bồi tụ cho khu vực nghiên cứu.

- Sông Vạc: Sông này bắt nguồn từ hai nhánh sông Chanh và sông Luồn
của sông Hoàng Long (đổ ra sông Đáy ở Gián Khẩu) chảy qua các huyện Yên
Khánh, Yên Mô rồi qua Kim Sơn và đổ vào sông Đáy ở xã Thượng Kiệm
(hướng chảy chính là tây bắc - đông nam). Nhìn chung đây là một con sông nhỏ,
hẹp. Lưu lượng mùa mưa khoảng 1800 - 2000 m
3
/s, mùa khô khoảng 800 - 1000
m
3
/s. Phù sa do sông này tải ra biển đã được tính gộp vào tổng lượng phù sa ở
cửa sông Đáy của sông Đáy nêu trên.
Vùng Kim Sơn nói chung và vùng nghiên cứu nói riêng có một hệ thống
kênh mương dẫn nước ngọt dày đặc ở phần phía Bắc và Trung huyện. Trong
khoảng 6 - 7 km từ sông Tống Càn sang sông Đáy hướng tây - đông có đến 8
kênh lớn, còn phần phía nam giáp biển khoảng cách 4 - 5 km cũng có đến 4
kênh lớn. Tất cả các kênh ở phần phía Bắc và Trung huyện đều chảy hướng tây
13
bắc - đông nam và đổ vào sông Đáy, còn các kênh ở phần phía nam chảy hướng
bắc nam và đổ ra 2 cửa sông Đáy và Tống Càn hoặc đổ ra biển. Hệ thống kênh
và đê ngăn mặn dày đặc là nguyên nhân làm mất cân bằng tương tác nước mặn -
ngọt ở vùng nghiên cứu. Vì vậy mà độ muối đo được ở các đầm ao nuôi thuỷ hải
sản trong vùng luôn có giá trị thấp.
Hoạt động hải văn
- Thuỷ triều
Hoạt động thuỷ triều của vùng nghiên cứu cũng mang đặc điểm chung của
vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ thuộc chế độ nhật triều không đều. Mỗi tháng
có 22 - 25 ngày nhật triều và từ 5 - 6 ngày bán nhật triều. Những ngày triều lớn
trong tháng biên độ thuỷ triều dao động từ 2 đến 4 mét, còn những ngày triều
thấp biên độ thuỷ triều dao động từ 1 đến 2 mét.
- Dòng triều

Ở các vùng bãi triều ngập nước khi triều lên, nổi cạn khi triều xuống
thường tạo nên các dòng triều chảy gần vuông góc với đường bờ. Trong phạm vi
vùng ngập mặn Kim Sơn - Ninh Bình vì phần lớn diện tích đã được khoanh lô
làm đầm, ao nuôi thuỷ, hải sản nên các dòng triều chỉ còn quan sát thấy ở phần
bãi triều có rừng ngập mặn ở sát ngoài đê ngăn mặn cuối cùng. Qua quan sát
thấy trong diện tích bãi triều này có 3 dòng triều lớn thường xuyên có nước, nơi
có các thuyền nhỏ có thể ra vào, còn lại là các dòng tạm thời. Độ dài các dòng
triều ở đây không lớn thay đổi từ 1 - 2 km. Hướng chảy gần như bắc nam hoặc
lệch đông bắc - tây nam. Tại một số chỗ tiếp xúc với đê ngăn mặn của các dòng
triều lớn đã được xây cống để điều tiết nước biển vào đầm nuôi thuỷ sản ở trong
đê.
- Dòng sóng, gió
Dọc theo đới ven bờ khu vực đồng bằng Bắc Bộ thường có các dòng chảy
do hoạt động của sóng, gió tạo ra. Hướng chảy chung của các dòng chảy này là
đông bắc - tây nam. Tuy nhiên qua quan sát của nhiều nhà nghiên cứu thấy rằng
dòng chảy này khi đến gần cửa Đáy lại đổi hướng bắc nam do tác động của dòng
chảy của sông Đáy. Yếu tố này phần nào hạn chế sự tương tác vật liệu do dòng
14
sóng và dòng sông đưa đến vùng và do đó làm cho các thành tạo trầm tích tầng
mặt ở vùng nghiên cứu có nguồn gốc sông trội hơn nguồn gốc biển. Tỷ lệ bùn
sét nhiều hơn so với cát.
1.2.1.4. Đặc điểm địa hình
Phạm vi của vùng nghiên cứu thuộc phần phía tây nam đồng bằng Bắc
Bộ, nhìn chung vùng có địa hình khá đơn giản, có thể phân chia thành 2 dạng
sau:
Địa hình đồng bằng ven biển
Đây là dạng địa hình chiếm hầu hết diện tích của vùng nghiên cứu. Nhìn
chung địa hình này khá bằng phẳng, hơi nghiêng về phía biển. Độ cao thay đổi
từ 0,8 đến 1m, một số chỗ ở các xã Văn Hải, Kim Mỹ, Cồn Thoi có địa hình cao
hơn mặt bằng chung từ 0,5 đến 1m, đó chính là vết tích các cồn cát cổ. Cấu

thành nên dạng địa hình này là các thành tạo trầm tích của hệ tầng Thái Bình
tuổi Holocen (Q
2
3
tb).
Một đặc trưng khác về địa hình ở vùng là ở phạm vi diện tích các xã ven
biển có nhiều hệ thống đê quai lấn biển. Trong phạm vi 10 - 11 km từ xã Văn
Hải ra đến biển có đến 5 con đê quai chính chưa kể các đê phụ. Các con đê này
có độ cao từ 3 đến 5 m, mặt rộng 3 - 4 m, chân rộng từ 10 - 15 m chạy song song
hướng tây bắc - đông nam rồi vòng hướng tây nam - đông bắc. Chính hệ thống
đê dày đặc này đã hạn chế tương tác cân bằng sông biển trong vùng
Địa hình núi đá vôi
Dạng địa hình này chiếm diện tích rất ít (khoảng 8 km). Ở phía tây bắc
vùng thuộc các xã Nga Điền, Nga An, Nga Phú huyện Nga Sơn và xã Lai Thành
huyện Kim Sơn. Độ cao trung bình khoảng 100 - 150 m. Bề mặt có dạng đá tai
mèo lởm chởm nhiều vách đứng, hố sụt, hang động castơ. Cấu thành nên dạng
địa hình là các thành tạo đá vôi của hệ tầng Đồng Giao (T
2
ađg)
1.2.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên nước mặt
15
Khu vực nghiên cứu được bao bọc bởi phía đông và phía tây bởi hai con
sông Đáy và sông Càn. Nằm trong nội vi vùng nghiên cứu, ngoài một số ít các
lạch triều không phân nhánh, là hệ thống dày đặc các kênh tưới tiêu nhân tạo và
hệ thống đầm hồ nuôi thuỷ sản rất phát triển. Các hệ thống này là kết quả của
quá trình đào đất, đắp đê lấn biển và dẫn nước phục vụ sản xuất và giao thông
nội vùng.
Sông Đáy và sông Càn là hai sông có ý nghĩa lớn đối với quá trình hình
thành và phát triển bãi bồi ở đây. Đây là hai kênh chính dẫn vật liệu tới bồi tụ tại

đây. Không những vậy hai sông còn là nguồn cung cấp nước ngọt chính trong
vùng để cải tạo biến vùng đất mặn trở thành các đồng lúa, vườn cây, làng xóm
trù phú như hiện nay.
Theo tài liệu quan trắc lưu lượng của trạm khí tượng thuỷ văn Nam Định
từ năm 1996 – 2003, chỉ riêng sông Đáy hàng năm đã đổ ra biển với lưu lượng
từ 213 m
3
/s đến 2.980 m
3
/s. Nếu lấy giá trị thấp nhất vào mùa khô là 213 m
3
/s thì
lượng nước mặt của sông Đáy có thể khai thác được là 18.403.200 m
3
/ngđ. Nếu
ước tính lưu lượng thấp nhất vào mùa khô của sông Càn là 100 m
3
/s thì lượng
nước mặt sông Càn có thể khai thác được là 8.640.000 m
3
/ngđ. Nếu ước tính lưu
lượng thấp nhất của hai kênh tiêu mặn là 20 m
3
/s thì lượng nước mặt của hai
kênh tiêu mặn có thể khai thác được là 1.728.000 m
3
/ngđ. Như vậy lượng nước
mặt ước tính có thể khai thác được từ các sông ngòi, kênh rạch trong vùng là
khoảng 28.000.000 m
3

/ngđ. Ngoài ra trong khu vực nghiên cứu còn có hệ thống
đầm nuôi tôm rất lớn với lượng nước tĩnh ước tính khoảng 1.500.000 m
3
.
Tài nguyên nước ngầm
Tài nguyên nước ngầm khu vực nghiên cứu khá phong phú, gồm các phân
vị địa tầng địa chất thuỷ văn như sau:
- Các tầng chứa nước lỗ hổng:
+ Tầng chứa nước Holocen trên (Q
IV
3
tb)
+ Tầng chứa nước Holocen dưới (Q
IV
1-2
hh
1
)
+ Tầng chứa nước Pleistocen (Q
II-III
1
hn)
- Tầng chứa nước khe nứt, khe nứt - karst
16
- Các thành tạo địa chất rất nghèo nước
+ Các thành tạo địa chất rất nghèo nước Hệ tầng Hải Hưng trên (mQ
IV
1-
2
hh

2
)
+ Các thành tạo địa chất nghèo nước Hệ tầng Vĩnh Phúc trên (Q
III
2
vp)
Trong các tầng chứa nước trong khu vực thì chỉ có tầng chứa nước lỗ
hổng Pleistocen giữa - trên, Hệ tầng Hà Nội (tầng cát hạt thô màu trắng hoặc
vàng nhạt) và tầng chứa nước khe nứt, khe nứt - karst Trias giữa Hệ tầng Đồng
Giao (tầng đá vôi màu xám) là hai phân vị địa tầng địa chất thuỷ văn duy nhất có
khả năng cung cấp nước nước ngọt phục vụ cho mục đích sinh hoạt.
Trong khu vực nghiên cứu, tầng chứa nước Pleistocen không nằm xuất lộ
trên bề mặt địa hình mà bị phủ hoàn toàn bởi các trầm tích trẻ hơn. Diện tích
phân bố của tầng chứa nước khá rộng, kéo dài từ Nam nông trường Bình Minh
ra đến biển và trải rộng từ sông Đáy đến Đông xã Thanh Hải. Chiều sâu phân bố
và bề dày tầng chứa nước tăng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Chiều sâu cả
tầng nước thay đổi 48 - 110 m cách mặt đất, chiều dày từ 3 - 20 m.
Tầng chứa nước khe nứt, khe nứt karst phân bố ở phần Tây khu vực
nghiên cứu; chủ yếu ở phần Tây xã Kim Hải. Chúng không nằm lộ trên bề mặt
địa hình mà bị phủ hoàn toàn bởi các trầm tích Đệ tứ trẻ hơn; nằm ở độ sâu từ 54
- 60m, chiều dày tầng chứa nước đạt 720 m.
Do tầng chứa nước khe nứt, khe nứt – karst Trias Hệ tầng Đồng Giao
chưa được nghiên cứu kỹ nên chỉ tiến hành tính toán được tiềm năng nước cho
tầng chứa nước lỗ hổng Pleistocen Hệ tầng Hà Nội. Trữ lượng tiềm năng khai
thác nước dưới đất được tính theo công thức sau:
Q
kt
= Q
đ
+ Q

tdh
+ αQ
ttl
Trong đó: Q
kt
: Trữ lượng tiềm năng khai thác (m
3
/ngđ)

Q
đ
: Trữ lượng động tự nhiên (m
3
/ngđ)

Q
tdh
: Trữ lượng tĩnh đàn hồi (m
3
/ngđ)
Q
ttl
: Trữ lượng tĩnh trọng lực (m
3
/ngđ)
α : Hệ số khai thác vào trữ lượng tĩnh tự nhiên, lấy α = 0,3
17
Trong thực tế, trong các yếu tố hình thành trữ lượng tiềm năng khai thác
còn có các nguồn từ ngoài vào gọi là “trữ lượng cuốn theo”, song với mức độ
nghiên cứu hiện tại chưa đủ điều kiện xác định chúng nên trong tính toán được

tạm bỏ qua.
a/ Trữ lượng động tự nhiên
Trữ lượng động tự nhiên được tính toán bằng phương pháp mặt cắt theo
công thức sau:
Q
đ
= Km I B
tb
Trong đó: Km: hệ số dẫn nước, m
2
/ngđ
I: độ dốc thuỷ lực
B
tb
: chiều rộng trung bình của 2 mặt cắt tính toán, m
Trên cơ sở các đường thuỷ đẳng áp dễ dàng nhận thấy có ba miền cung
cấp nước dưới đất cho khu vực nghiên cứu: nước dưới đất chảy vào từ phía tây
Kim Hải; từ phía đông Kim Đông và từ phía Cồn Đen.
- Mặt cắt Tây Kim Hải có Km = 44,49 m
2
/ngđ; I = 1,0m : 600m =
0,00166; B
tb
= (4.600m + 5.500m) : 2 = 5.050m
Trữ lượng động tự nhiên Tây Kim Hải là: Q
đ1
= 373,9 m
3
/ngđ
- Mặt cắt Đông Kim Đông có Km = 33,28 m

2
/ngđ; I = 1,0m : 500m =
0,002; B
tb
= (2.900m + 3.500m) : 2 = 2.600m
Trữ lượng động tự nhiên Đông Kim Đông: Q
đ2
= 173,0 m
3
/ngđ
- Mặt cắt Cồn Đen có Km = 33,28 m
2
/ngđ; I = 1,0m : 1000m = 0,001; B
tb
= (8.400m + 7.600m) : 2 = 8.000m
Trữ lượng động tự nhiên mặt cắt Cồn Đen là : Qđ3 = 266,24 m
3
/ngđ
Trữ lượng động tự nhiên cả khu vực nghiên cứu là: Qđ = 812 m
3
/ngđ
b/ Trữ lượng tĩnh đàn hồi
Trữ lượng tĩnh đàn hồi được tính theo công thức sau:
µ* . H
a
. F
Qtdh =
10
4
Trong đó: H

a
: Mực nước áp lực, m
18
F : diện tích phân bố của tầng chứa nước, m
2
µ* : hệ số phóng thích nước đàn hồi
10
4
: thời gian công trình có khả năng thu hồi vốn, ngđ
Kết quả bơm hút thí nghiệm trong khu vực nghiên cứu cho thấy: Hệ số
phóng thích nước đàn hồi trung bình cho cả khu vực là: µ* = 0,0077; Mực nước
áp lực trung bình cho cả khu vực là: H
a
= 61,0m; Diện tích phân bố của tầng
chứa nước trong khu vực là: F = 65.352.450m
2
Trữ lượng tĩnh đàn hồi cả khu vực nghiên cứu là: Q
tdh
= 3070 m
3
/ngđ
c/ Trữ lượng tĩnh trọng lực
Trữ lượng tĩnh trọng lực được tính theo công thức sau:
µ . m . F
Q
ttl
=
10
4
Trong đó: M : bề dày trung bình của tầng chứa nước, m

F : diện tích phân bố của tầng chứa nước, m
2
µ : hệ số nhả nước trọng lực trung bình khu vực
10
4
: thời gian công trình có khả năng thu hồi vốn, ngđ
Hệ số nhả nước trọng lực trung bình được tính theo công thức kinh
nghiệm:
µ = 0,117
7
K
Trong đó: K : hệ số thấm trung bình của cả khu vực
Khu vực nghiên cứu có: Hệ số thấm trung bình là K = 5,622 m/ngđ; Hệ số
nhả nước trọng lực trung bình µ là: 0,1497; Bề dày trung bình của tầng chứa
nước m là: 5,0m; Diện tích phân bố của tầng chứa nước F là: 65.352.450 m
2
Trữ lượng tĩnh trọng lực của khu vực nghiên cứu là: Qttl = 4.892,7
m
3
/ngđ
Như vậy trữ lượng tiềm năng khai thác nước dưới đất của tầng chứa nước
Pleistocen Hệ tầng Hà Nội trong khu vực nghiên cứu là:
Q
kt
= 812 m
3
/ngđ + 3.070 m
3
/ngđ + 0,3 x 4.893 m
3

/ngđ = 5.350 m
3
/ngđ
19
Tài nguyên đất
Đặc điểm đất đai 3 xã ven biển huyện Kim Sơn:
- Nhóm đất mặn ít: có pH
KCl
từ 6,8 đến 8,4, hàm lượng mùn, đạm trung
bình đến khá ở tầng mặt và giảm nhanh xuống các tầng dưới. Độ mặn ít, trị số
muối tan <0,3%, độ dẫn điện (EC) < 0,8 mS/cm. Cây trồng phổ biến ở đây là
lúa. Thành phần đất mặn ít được trình bày ở Bảng 1.
Bảng 1: Một số kết quả phân tích đất mặn ít ở Kim Sơn
Stt Mẫu pH
KCl
OM% N% Ca
+2
Cl
-
SO
4
-2
TMT EC Fe ts
1 LK26/1 6,83 1,84 0,145 8,00 0,091 0,013 0,24 0,60 3498
2 LK28/1 8,39 1,84 0,156 8,00
0,06
6
0,02
6
0,18 0,52 3255

3 LK28/2 8,36 1,05
0,10
0
11,2
0,07
7
0,04
7
0,28 0,80 3163
Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình
năm 2003
- Nhóm đất mặn trung bình: Cũng như nhóm trên, phản ứng đất (pH) của
nhóm này cũng là kiềm nhẹ, hàm lượng chất hữu cơ thấp hơn nhóm trên, vào
khoảng < 1,4% ở tầng mặt (vào loại trung bình). Tổng muối tan ở đây từ 0,3 đến
0,8% và độ dẫn điện tương ứng (EC) từ 1,0 đến 2,5 mS/cm. Cây trồng phổ biến
ở đây là lúa, một số nơi trồng cói và nuôi trồng thuỷ sản. Thành phần đất mặn
trung bình được trình bày ở Bảng 2.
Bảng 2: Một số kết quả phân tích đất mặn trung bình ở Kim Sơn
Stt Mẫu pH
KCl
OM% N% Ca
+2
Cl
-
SO
4
-2
TMT EC Fe ts
1 LK16/1 7,36 1,32
0,12

8
7,20 0,273
0,05
1
0,62 2,07 4103
2 LK16/2 7,73 1,16 0,112 12,0
0,28
7
0,02
5
0,78 2,46 3417
3 LK37/1 7,95 0,90 0,095 11,2
0,15
8
0,01
5
0,40 1,12 3948
4 LK37/2 8,03 0,90
0,08
4
12,2
0,14
0
0,01
0
0,28 0,94 3849
20
Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh Bình
năm 2003
- Nhóm đất bãi triều và bán bãi triều: Đất bãi triều và bán bãi triều khác

biệt với hai nhóm trên ở chỗ: đất chưa phân tầng và độ mặn cao hơn. Tổng muối
tan có mẫu lên tới 1,2%, độ dẫn điện có mẫu lên tới > 4,0 mS/cm. Đa số diện
tích vùng này là bãi triều, một phần nhỏ diện tích đang được trồng cói, sú vẹt và
nuôi trồng thuỷ sản. Thành phần đất bãi triều được trình bày ở Bảng 3.
Bảng 3: Một số kết quả phân tích đất bãi triều ở Kim Sơn
Stt Mẫu pH
KCl
OM% N% Ca
+2
Cl
-
SO
4
-2
TMT EC Fe ts
1 P21 7,13 3,16
0,20
7
8,80 0,322
0,05
8
0,78 2,47 4134
2 P15 8,23 1,37
0,12
8
15,2 0,623
0,05
5
1,20 4,04 3503
3 P19 8,30 0,69

0,07
2
15,2 0,304
0,02
7
0,62 2,05 2527
4 LK24/1 8,00 1,26
0,11
8
8,80 0,367 0,049 0,74 2,51 4095
5 LK24/2 8,06 1,11 0,112 12,0 0,367 0,043 0,72 2,49 3791
6 LK21/1 8,50 1,21 0,117 12,8 0,259
0,03
8
0,56 1,92 3013
7 LK21/2 8,37 0,84
0,08
9
13,1 0,227 0,035 0,48 1,65 3786
Nguồn: Báo cáo tổng quan Dự án điều tra cơ bản huyện Kim Sơn, Ninh
Bình năm 2003
Tài nguyên sinh học
Khu hệ động thực vật ở đây đặc trưng của khu hệ sinh vật ven biển nhiệt
đới với nhiều nhóm sinh thái khác nhau, đặc biệt là nhiều về thành phần loài
nhưng ít về số lượng loài với đặc điểm sinh học là rộng nhiệt và rộng muối. Tuỳ
theo điều kiện sinh thái mà sự phân bố của sinh vật khác nhau theo không gian
và thời gian.
- Thảm thực vật
21
Gồm 3 loài cây trồng chiếm diện tích chủ yếu là vẹt, cói, sậy. Ngoài ra bãi

triều còn có cỏ ngạn mọc tự nhiên, ô rô, cóc kèn. Vùng trong đê Bình Minh 2 có
cây lấy gỗ: Bạch Đàn, cây ăn quả
- Thực vật nổi: Thực vật nổi có 44 chi thuộc 4 ngành, trung bình 4,65.10
3
tế bào/m
3
nước, đa số là tảo Khuê (Bacilariophyta) có 36 chi; tảo lục
(Chlorophyta) và tảo Lam (Cianophyta) có 3 chi; Tảo giáp (Pyrrophyta). Trong
đó ngành tảo Khuê chiếm 94,6%; tảo Giáp chiếm 3,1%; tảo Lam chiếm 1,2%;
tảo Lục chiếm 1,1%. Trong ngành tảo Khuê, nhóm tế bào thực vật nổi Nitzchia
chiếm 42,6%; tiếp đến là Thalasionema; Chaetoceros và một số nhóm khác.
Lượng tảo hữu ích nhiều như vậy sẽ là nguồn thức ăn tự nhiên quý giá cho các
giống loài hải sản.
- Động vật nổi: Động vật nổi trung bình 27,21.10
3
cá thể/m
3
nước bao
gồm nhóm râu ngành (Caladocera); nhóm lưỡng túc (Ampipoda); nhóm chân
chèo (Copepoda), trùng bánh xe (Potatoria); cá bột và tôm bột.
- Khu hệ cá: Khu hệ cá vùng bãi bồi Kim Sơn rất đa dạng và phong phú
về thành phần loài và số lượng loài, chúng được đặc trưng cho khu hệ cá vùng
bãi bồi ven biển Đồng Bằng Bắc Bộ.
+ Tôm riu, cá quả, lươn, cá diếc phân bố tự nhiên ở các lạch có rong đuôi
chó mật độ dày. Chúng tập trung chủ yếu ở phía Đông vùng bãi bồi phía trong
đê Bình Minh 1 nơi tiếp giáp với sông Đáy. Các đối tượng thuỷ sản này rất rộng
muối, chúng có thể sống ở nồng độ muối trên 2
0
/
00.

Tôm he phân bố chủ yếu tại
phía Tây xã Kim Trung, phía Đông xã Kim Hải (phía Tây vùng bãi bồi giáp
sông Càn). Vùng này có độ muối trên 3
0
/
00
tương đối phù hợp cho tôm he. Năng
suất tôm rảo khai thác tự nhiên 100 - 120 kg/ha/năm.
+ Cua rèm sống chủ yếu trong vùng nước có độ muối từ 3,2
0
/
00
đến 9,5
0
/
00.
Điều kiện sống tốt nhất là trong vùng có độ mặn trên 5
0
/
00
. Bình quân năng suất
khai thác tự nhiên trên vùng bãi bồi khoảng 30 kg/ha.
+ Cá bớp sống chủ yếu ở các vùng bãi bồi phù sa, môi trường sống chủ
yếu là hang trong bùn nhão của bãi bồi. Ngoài ra còn có cá trích, cá cơm, bống
trắng xuất hiện tương đối nhiều.
22
+ Sinh vật đáy và nhuyễn thể bao gồm các loại giun nhiều tơ, ngao, vọp,

+ Các loài động vật khác có chim di cư về trú đông như: ngỗng trời, vịt
trời, cò trắng, vạc, le le, mòng, két

1.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.2.1. Dân cư
Là một vùng thuộc khu vực đồng bằng ven biển Bắc Bộ nên dân cư ở đây
chỉ thuần chủng một dân tộc Kinh. Nhân dân trong vùng chủ yếu là nông dân
thuộc các hợp tác xã nông nghiệp hoặc là công nhân của Nông trường Bình
Minh. Nhìn chung dân cư ở đây khá đông. Toàn huyện có dân số khoảng
163.500 người. Mật độ khoảng 788 người/km
2
. Nghề sống chính là trồng lúa
nước, cói, nuôi trồng thuỷ sản và một số làm việc trong các hợp tác xã, cơ sở sản
xuất chế biến nông sản, thuỷ sản. Các thị trấn, thị tứ có các hộ kinh doanh buôn
bán tạp hoá hoặc nông sản, thuỷ sản.
1.2.2.2. Hoạt động kinh tế
Kinh tế huyện Kim Sơn phát triển khá đúng hướng. Kinh tế nông nghiệp
phát triển nhất là sản xuất lương thực. Trong ngành tiểu thủ công nghiệp thì
ngành chế biến cói tăng trưởng nhanh. Kinh tế biển bước đầu có chuyển biến
tích cực và mở ra nhiều triển vọng lớn. Thu nhập bình quân đầu người đạt
khoảng 10 triệu đồng/người/năm.
Sản xuất nông nghiệp
Cây trồng chủ yếu của ngành nông nghiệp ở khu vực nghiên cứu hiện nay
vẫn là cây lúa và cói. Khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn có 960 ha trồng
lúa, năng suất lúa bình quân ước đạt 54 tạ/ha/năm. Cây cói luôn được quan tâm.
Năm 2005, diện tích trồng cói cả năm đạt 452 ha với sản lượng cói ước đạt
2.500 tấn.
Ngoài ra, một số cây trồng khác cũng đang được đưa vào trồng thử ở khu
vực này như khoai tây, rong riềng, ngô với diện tích không đáng kể.
Chăn nuôi
23
Trong các hộ gia đình theo truyền thống có các gia súc như trâu, bò, lợn,
dê và các loại gia cầm như vịt, ngan, gà, ngỗng, quy mô chăn nuôi gia súc, gia

cầm ở dạng các hộ nhỏ lẻ hình thức trang trại lớn còn ít phát triển.
Chăn nuôi thuỷ hải sản
Hàng năm khai thác thuỷ hải sản của toàn huyện Kim Sơn đều tăng. Khai
thác hải sản vùng bãi năm 2005 ước tính trên 1.000 tấn. Khai thác hải sản xa bờ
tăng trưởng khá, năm 2005 ước đạt trên 800 tấn. Vùng bãi tiếp tục khai thác
được thế mạnh tổng hợp hải sản – cói - lúa, tổng giá trị năm 2005 ước đạt trên
40 tỷ đồng. Hiện nay, diện tích nuôi thuỷ sản trong vùng là 1288 ha mặt nước.
Việc nuôi thành công tôm sú đã mở ra một triển vọng lớn cho kinh tế biển khu
vực này.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của huyện Kim Sơn nói chung có tốc
độ tăng trưởng bình quân năm là 10,8%. Ngành chế biến chiếu cói được đẩy
mạnh. Khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn có số cơ sở sản xuất công
nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh khoảng gần 100 hộ cá thể chủ
yếu làm nghề chiếu cói. Giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp
ngoài quốc doanh trong năm 2005 đạt hơn 500 triệu đồng.
Máy móc thiết bị cơ khí phục vụ sản xuất phát triển nhanh. Hiện nay đã
có các loại máy cày, bừa, xe công nông, máy tuốt lúa.
Thương mại - dịch vụ
Hoạt động thương mại ở khu vực bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn chủ
yếu dưới dạng buôn bán cá thể các hàng thuỷ hải sản, giao lưu hàng hoá nông
thuỷ hải sản với trung tâm thương mại của huyện, tỉnh và vươn tới các thị xã,
thành phố xa hơn như thành phố Hà Nội.
Giao thông
Kim Sơn là một vùng có nhiều sông ngòi, luồng lạch thông với biển nên
giao thông đường thuỷ khá phát triển. Ngoài giao lưu đi lại giữa các huyện xã
trong tỉnh còn có thể thông thương với các tỉnh khác trong khu vực. Về đường
bộ chủ yếu có các đường liên huyện, xã nối với quốc lộ 10, quốc lộ 1A về phía
24
bắc. Hệ thống đường sá đi lại trong vùng đều đã bê tông hoá, ô tô vừa và nhỏ

đều có thể đến được các làng xã trong vùng.
1.2.2.3. Văn hoá xã hội
Vùng nghiên cứu nằm trong khu vực đất lấn biển mới được mở rộng nên
không có các trường đào tạo chuyên nghiệp mà chỉ có hệ thống các trường giáo
dục phổ thông. Toàn vùng có một trường trung học phổ thông ở thị trấn Bình
Minh. Tất cả các xã trong vùng đều có các trường tiểu học và trung học cơ sở,
100% trẻ em đều được đến trường đi học. Ở các khu thị tứ, thị trấn đều có hệ
thống trạm xá từ 5 10 giường bệnh để chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân
dân. Tất cả các thôn xã đều đã có điện lưới, hầu hết các gia đình ở vùng đều đã
có phương tiện nghe nhìn để thưởng thức văn hoá thể thao và theo dõi tình hình
thời sự trong và ngoài nước. Thông tin liên lạc khá phát triển. Tất cả các xã đều
có điện thoại. Nhiều gia đình đã trang bị điện thoại cá nhân.
Là một vùng có trên 50% dân số theo đạo thiên chúa nên hệ thống nhà thờ
khá phát triển, quyền tự do tín ngưỡng, hành đạo của nhân dân được đảm bảo.
Trật tự trị an đảm bảo, không có những sự việc và biến động lớn về chính trị xảy
ra.
1.2.2.4. Hiện trạng sử dụng đất
Qua khảo sát thực tế và đánh giá tác động tương tác mặn, ngọt của sông
và biển, chúng tôi phân điều kiện môi trường sinh thái của vùng nghiên cứu
thành ba phân vùng khác nhau:
Phân vùng sinh thái bãi triều và rừng ngập mặn ven biển
Trong phạm vi vùng nghiên cứu thuộc phân vùng này là diện tích phần
phía tây cửa sông Đáy, được giới hạn từ vòng cung Cồn Mờ (phương đông bắc –
tây nam) đến bãi triều ven đê ngăn mặn ngoài cùng, tổng diện tích khoảng 45
km
2
. Trong đó bãi triều có rừng ngập mặn chiếm diện tích khoảng 17 - 18 km
2
,
còn lại là diện tích ngập nước thường xuyên.

Hệ thống rừng ngập mặn ở vùng nhìn chung còn thưa, đa số là diện tích
mới trồng. Các loại cây trồng chính là sú vẹt, ít bần, trang, ở diện tích cao của
25

×