Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.22 KB, 23 trang )

Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

DANHDANH SÁCH NHÓM 02 – LỚP K45 DK4
STT

Họ và tên

Ngày tháng
năm sinh

1

Vũ Thế Hiệu

01/11/1983

2

Trương Thị Hệ

12/08/1979

3

Vũ Minh Hiến

10/06/1974

4

Nguyễn Lê Hoài



09/11/1989

5

Lê Thị huệ

08/09/1989

6

Ngô Thị huệ

10/02/1987

7

Phạm Thị Hường

20/12/1973

8

Cao Thị Lan

22/04/1993

9

Đoàn Thị Hương Loan


17/04/1983

MỤC LỤC
1

Điểm sếp
loại

Ghi chú


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU: ………………………………………………………………3
NỘI DUNG : …………………………………………………………………

5

Phần I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT

5

1 Tiền tệ là gì ………………………………………………..
a. Định nghĩa ……………………………………………..
b. Tính chất của tiền tệ ……………………………………
c. Chính sách về tiền tệ ……………………………………
2
3
4

5
6

Công cụ lãi suất ……………………………………………
Công cụ tỷ giá ……………………………………………..
Công cụ hạn mức tín dụng ………………………………..
Công cụ dự trữ bắt buộc ………………………………….
Nghiệp vụ mở thị trường ………………………………….

5
5
5
6
7
10
12
13
14

Phần II. MỘT SỐ MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG LÝ
LUẬN TIỀN TỆ VÀO VIỆT NAM …………………………………….. 17
1

Mục tiêu …………………………………………………………….

17

2 Một số giải pháp ……………………………………………………..
17
KẾT LUẬN ………………………………………………………………….


2

22


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU

Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những biến
chuyển quan trọng. Từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà
nước. Quản lý nhà nước về kinh tế, vì thế cũng có những thay đổi đáng kể. Thông qua
các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các chích sách về tài chính, tiền tệ, Nhà nước đã
quản lý nền kinh tế một cách linh hoạt và chặt chẽ hơn...Việc gia nhập WTO cũng đã tạo
thêm nhiều cơ hội cho Việt Nam để tiếp tục tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong
những năm tới, những đợt phát hành trái phiếu công ty đã minh chứng về khả năng tài trợ
cho những nhu cầu đầu tư lớn đang ngày càng tăng của Việt Nam. Bên cạnh đó cũng cần
thận trọng cảnh giác khi sử dụng đòn bẩy tài chính của các tổ chức, cá nhân khi tham gia
vào thị trường kinh tế đang phát triển còn non trẻ.
Việc vận dụng các lý luận về tiền tệ vào nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam còn nhiều trở ngại. Đólà sự am hiểu về phương pháp điều hành các chính sách
tiền tệ còn nhiều hạn chế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam việc lựa chọn các công
cụ nào, sử dụng chúng ra sao trong những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế
luôn là một vấn đề cần thường xuyên quan tâm theo dõi đối với các nhà hoạch định và
điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Vì thế, việc nghiên cứu và hiểu rõ những lý luận
tiền tệ là một điều hết sức cần thiết để áp dụng vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và phát
triển kinh tế.
Bằng phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với các phương pháp khác, đề tài

“Lý luận tiền tệ của Các Mác và sự vận dụng vào nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay” đã hệ thống hoá, phân tích vấn đề mang tính khách quan về lý luận tiền tệ của
Các Mác và sự vận dụng của nó vào nền kinh tế Việt Nam thông qua các công cụ chính
sách tiền tề, đồng thời đi sâu tìm hiểu nêu lên một số hướng giải pháp khắc phục.

3


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Ngoài phần mục lục và tài liệu tham khảo, bài thảo luận được trình bày theo kết cấu
như sau:
Phần 1: Vận dụng những lý luận về tiền tệ vào nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phần 2: Một số mục tiêu và giải pháp hoàn thiện việc áp dụng lý luận tiền tệ vào
Việt Nam
Với sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn đã giúp em có được hướng nghiên cứu
phân tích sát thực đề tài và liên hệ thực tế. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo ….đã giúp
đỡ em hoàn thành đề án của mình.

4


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

I. VẬN DỤNG NHỮNG LÝ LUẬN VỀ TIỀN TỆ VÀO NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Áp dụng những lý luận về tiền tệ để đảm bảo giá cả được ổn định, giữ giá đồng tiền,
phát triển kinh tế một cách bền vững là một trong những mục tiêu quan trọng của việc
quản lý nền kinh tế vĩ mô của nhà nước. Trong các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước

thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực
tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nó cũng có những quan hệ chặt chẽ với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác như: chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế
đối ngoại
1. Tiền tệ là gì
a. Định nghĩa
Tiền tệ ( theo chủ nghĩa Mac-Lenin) là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong
thế giới hàng hóa làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi . nó thể
hiện cho lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa
b. tính chất
- Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ, người
dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ không được coi là
tiền nữa
- Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết, người ta
có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng
- Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho
người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng một loại
tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp cho tiền tệ khắc
phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng

5


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

- Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá trị
cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để làm tiền
- Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang theo,
tiền tệ phải dễ vận chuyển
- Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì nếu

có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong việc cất trữ giá
trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa
- Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau không
phân biệt người ta tạo ra nó vào thời gian nào
- Cung ứng và điều hoà khối lượng tiền tệ ngân hàng nhà nước tăng hay giảm khối
lượng tiền tệ để duy trì tương quan giữa tổng cung và tổng cầu giữa tiền và hàng
c. chính sách về tiền tệ.
- Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: khi các ngân hàng thương mại và có các tổ
chức tín dụng thiếu khả năng thanh toán thì họ đến ngân hàng trung ương xin tái cấp vốn.
Ngân hàng trung ương luôn đóng vai trò là một tổ chức cho vay cuối cùng để thúc đẩy
các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong
dân chúng để đầu tư phát triển kinh tế.
- Chính sách quản lý ngoại hối: hướng vào việc ngăn chặn tích cực ngoại tệ trong
các doanh nghiệp và tầng lớp nhân dân. Đề thực hiện việc ổn định giá cả của đồng tiền
quốc gia, ngân hàng nhà nước thực hiện các nhiệm vụ: quản lý ngoại hối, lập bảng theo
dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, tổ chức
điều tiết thị trường hối đoái, tổ chức điều tiết thị trường hối đoái, xây dựng và thống nhất
quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia,…
- Chính sách tạm ứng cho ngân hàng nhà nước

6


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

+ Trường hợp ngân sách cân bằng: Chính phủ thu thuế vào ngân sách, ngân sách chi
ra cho bộ máy quản lý nhà nước và nền kinh tế lượng tiền vẫn nằm nguyên trong lưu
thông.
+ Trường hợp ngân sách thiếu hụt: lúc này chi lớn hơn thu, giải quyết bằng bốn
cách: vay của dân, vay của hệ thống ngân hàng và tổ chức tín dụng , vay của ngân hàng

nhà nước, vay nợ nước ngoài.
+Trường hợp ngân sách thặng dư: khối lượng tiền tệ trong thị trường được rút bớt
cất đi.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản chủ yếu nhất của Ngân hàng trung ương. Có
thể nói chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt mọi hoạt động của Ngân hàng trung
ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng trung ương đều nhằm thực thi chính sách tiền
tệ đạt được các mục tiêu đó. Trong những năm qua, những nội dung chính của chính sách
tiền tệ đã được ngân hàng nhà nước thực hiện thông qua các công cụ của chính sách tiền
tệ sau:
2. Công cụ lãi suất
Khi sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (thị
trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, v.v….) đều có tác động đến lãi suất cho vay
của các ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết
khấu của Ngân hàng trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các ngân hàng
thương mại. Song, khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng
trung ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các
ngân hàng thương mại. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi các ngân hàng, Ngân hàng trung
ương thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu
cho tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của ngân hàng thương mại,
thì Ngân hàng trung ương thường quy định ngược lại mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi
và mức tối đa cho tiền vay. Ngân hàng trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì
lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh
7


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

tế và giá cả. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất dễ làm mất đi tính khách quan của
lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là “giá cả” của vốn, do vậy, nó phải được
hình thành từ chính quan hệ cung cầu - về vốn trong nền kinh tế.

Lãi suất là một yếu tố rất nhạy cảm đối với nền kinh tế của các nước. Ở Việt Nam
Ngân hàng Trung ương đã rất linh hoạt trong việc sử dụng công cụ lãi suất nhằm tác động
tích cực đến nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi, có thể thấy rõ tính linh hoạt của
chính sách lãi suất qua các thời điểm:
- Ngày 28/05/2012 NHNN cũng giảm lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm xuống
12%/năm, lãi suất cho vay thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 14%/năm xuống
13%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm xuống 10%/năm (lãi suất huy động bình
quân đầu năm 2012 nên đến 16%). Chính sách giảm lãi suất như vậy là phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam trong quá trình cấu trúc lại doanh nghiệp kích thích phát triển kinh tế
sau đợt khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong năm 2011 và bám sát với diễn biến của thị
trường tiền tệ quốc tế.
Thực tế trên cho thấy các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã vào
cuộc rất nhanh với cơ chế mới, theo sát diễn biến của thị trường, năng động trong kinh
doanh để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhưng nếu giảm lãi suất quá
nhanh sẽ ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Đối với các tổ chức tín
dụng chi phí cao, lợi nhuận giảm thậm chí thua lỗ, điều này cũng ảnh hưởng đến niềm tin
nhà đầu tư và người tiêu dùng, làm suy yếu dự trữ ngoại tệ.
Ở Việt Nam thời gian qua Ngân hàng Trung ương cũng đã cố gắng sử dụng công cụ
lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với nền kinh tế đang trong quá trình phục
hồi sau khủng hoảng. Bên cạnh điều chỉnh lãi suất Ngân hàng nhà nước cũng quy đinh
việc ưu tiên cho vay đối với từng ngành và từng doanh nghiệp nhằm thanh lọc sát nhập
những doanh nghiệp kinh doanh yếu kém.
Trong thực tế, mặc dù ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản nhưng nó ít tác
động đến lãi suất thị trường bởi vì nhu cầu vay vốn là rất lớn khách hàng chấp nhận vay
vốn với lãi suất cao, các tổ chức tín dụng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn để cho vay,
8


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam


các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng tham gia cạnh tranh tích cực trên thị trường
vốn, lãi suất trái phiếu kho bạc được đẩy lên cao điều đó làm cho thị trường tiền tệ nóng
lên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khó kiểm soát được lãi suất thị trường.
Trước thực trạng như vậy, Ngân hàng Nhà nước đã phải thực hiện một số biện pháp
quản lý phù hợp để làm hạ nhiệt lãi suất quá nóng trên thị trường tiền tệ:
- Trước hết là Từ ngày 11/6/2012, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi không kỳ
hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 2%/năm; lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi có kỳ
hạn từ 1 tháng đến dưới 12 tháng là 9%/năm
- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã làm việc với các ngân hàng thương mại cổ phần
chiếm 50% thị phần huy động vốn và cho vay, để bàn biện pháp giảm lãi suất trên thị
trường. Qua cuộc họp với Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại này đã cắt
giảm lãi suất huy động vốn kỹ hạn ngắn. Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam còn quyết định giảm cả lãi suất điều hành vốn trong hệ thống của
mình, đồng thời giảm mức lãi suất mà các chi nhánh đi vay các ngân hàng thương mại
khác.
- Hiệp hội Ngân hàng cũng đã vào cuộc bằng việc tổ chức cuộc họp với các Ngân
hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng Nhà nước để bàn biện pháp hạ mặt bằng lãi suất
trong nền kinh tế, thống nhất phương pháp hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo
lợi ích chung trong toàn hệ thống, đến hiệu quả của nền kinh tế và lợi ích của từng tổ
chức tín dụng. Cuộc họp đã thống nhất các ngân hàng thương mại lấy mức lãi suất huy
động vốn kỳ hạn 6 tháng làm lãi suất cơ bản giữa các ngân hàng hội viên; đồng thời
thường xuyên thông báo cho nhau việc thay đổi các mức lãi suất của mình thông qua
Hiệp hội Ngân hàng.
Bên cạnh đó ngân hàng nhà nước còn tiến hành sát nhập nhừng ngân hàng ko còn
khả năng hoat động giúp tăng sức mạnh cho hệ thống ngân hàng và giảm “mầm bệnh”
cho nền kinh tế, cụ thể là Ngày 15/6, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã có văn
bản số 3651/NHNN-TTGSNH chấp thuận nguyên tắc việc sáp nhập Ngân hàng TMCP

9



Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB).trong năm 2012
dự kiến sẽ có khoảng 5-8 ngân hàng sẽ sáp nhập
Các biện pháp kể trên đã thể hiện sự chủ động của Ngân hàng Nhà nước sử dụng
đúng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ và tôn trọng tính quy luật về lãi suất,
phản ánh cung cầu vốn trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đồng thời thúc đẩy sự
hợp tác giữa các thành viên của Hiệp hội ngân hàng trong khi vẫn tôn trọng tính tự chủ
trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Kết quả là lãi suất huy động
vốn kỳ hạn ngắn đã giảm xuống.
Đến cuối tháng 8 năm 2012 có một nghịch lý là trong khi lãi suất huy động vốn
giảm xuống, nhưng nguồn vốn không đến được tay các doanh nghiệp do những khoản
cho vay trong tín dụng đen va tình trạng sở hưu chéo ngân hàng và thực tế cho thấy, khi
doanh nghiệp muốn vay vốn, ngân hàng sẽ dựa trên nhiều chỉ tiêu để đánh giá mức tín
nhiệm của ngân hàng đối với doanh nghiệp mà đa số các doanh nghiệp sau khủng hoảng
đều lâm vào tình trạng hàng tồn kho của doanh nghiệp quá lớn không tiêu thụ được, kết
quả kinh doanh thua lỗ, hoặc đang vay nhiều tổ chức tín dụng, có nợ xấu, dự án kinh
doanh thiếu khả thi và không có tài sản bảo đảm.
Một thực tế đáng quan tâm nữa là lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại
này tương đương hoặc cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại khác. Bởi vậy,
nếu các ngân hàng thương mại cứ tăng lãi suất trung và dài hạn lên, thì vốn từ ngân hàng
có lãi suất thấp hơn sẽ chạy sang ngân hàng có lãi suất cao hơn và nếu phát hành trái
phiếu Chính phủ và trái phiều Đô thị với lãi suất cao, thì chủ yếu hút vốn từ các ngân
hàng thương mại đầu tư vào đó, ảnh hưởng đến việc cho vay vốn trung và dài hạn của
ngân hàng cho khách hàng và các dự án. Thực trạng này cho thấy thị trường liên ngân
hàng chưa phát triển, chưa có tác dụng điều hoà lãi suất trong nền kinh tế. Từ đó đòi hỏi
ngân hàng thương mại phải có các giải pháp để điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
3. Công cụ tỷ giá
Từ năm 1992, tỷ giá của Việt Nam được điều hành theo quy luật cung cầu ngoại tệ

trên thị trường có sự quản lý của Nhà nước thay cho chế độ tỷ giá cố định trước đó. Đầu
10


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

năm 1999, quản lý tỷ giá lại có thêm bước tiến nữa với việc công bố tỷ giá giao dịch bình
quân ngày hôm trước làm căn cứ cho NHTM CP tự ấn định tỷ giá giao dịch cho mình. Tỷ
giá chính thức cũng đã được nới lỏng dần dần và đến nay giữ ổn định xê dịch trên dưới
20.800 VND/USD. Gần đây tuy tỷ giá có tăng lên vượt mức 20.800 VND/USD, nhưng
theo NHNN đây là sự vận động bình thường của thị trường, chưa gây biến động cho nền
kinh tế và hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Tỷ giá VND/USD ổn định tạo thuận lợi
cho cả xuất khẩu và cả nhập khẩu, nhất là vay nợ nước ngoài của Việt Nam. Đồng thời,
với chính sách điều hành tỷ giá biến động 2 chiều nên hầu như loại bỏ được yếu tố đầu
cơ, lại càng làm cho thị trường ngoại tệ ổn định, cầu ngoại tệ tăng chậm. Có thể nói, cơ
chế quản lý tỷ giá đã góp một phần quan trọng trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô,
tạo đà cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong những năm qua của Việt Nam.
Nhằm ổn định cán cân thanh toán quốc tế, trong những năm qua Việt Nam theo đuổi
mục tiêu tăng cường củng cố dự trữ ngoại tệ đạt mức dự trữ an toàn. NHTW chịu trách
nhiệm kiểm soát chặt chẽ động thái và trạng thái dự trữ ngoại hối quốc gia; thống nhất
một đầu mối dự trữ ngoại hối tại NHTW và tại các NHTM CP. Dự trữ ngoại hối quốc gia
ngày càng ổn định, đủ khả năng điều tiết thị trường trong trường hợp tình hình thị trường
có biến động lớn. nếu tính theo kim ngạch nhập khẩu bình quân mỗi tuần trong năm 2011
thì dự trữ ngoại tệ của Việt Nam hiện ở khoảng 20 tỷ USD; còn nếu tính bình quân tuần
nhập khẩu trong quý 1/2012 thì ở mức khoảng 18,5 tỷ USD, đạt trên 9 tuần nhập khẩu.
Tuy nhiên con số này là rất nhỏ bé khi so sánh với các nước như Trung Quốc ( năm 2011
Trung Quốc Dự trữ ngoại hối lên mức cao chưa từng có 3.040 tỷ USD)
Tuy đạt được những bước tiến quan trọng trong tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, song
về chính sách quản lý ngoại tệ vẫn còn nhiều điều cần xem xét. Hiện nay cách tính quỹ
dự trữ ngoại hối chủ yếu được xác định theo tuần nhập khẩu. Theo cách tính này, nguồn

ngoại hối dự trữ chỉ mới dừng lại ở việc sẵn sàng cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân
thương mại, trong khi đó cán cân vãng lai, cán cân vốn đang ngày càng tăng, tạo lên một
áp lực lớn về ngoại hối do mất cân bằng trong thời gian gần đây. Do phải trả nợ nước
ngoài, lợi nhuận của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhu cầu chuyển vốn
ra nước ngoài kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng tăng. Đây là
11


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

những nhu cầu ngoại tệ hợp lý mà Chính phủ phải thỏa mãn. NHNN đã rất linh hoạt
trong sử dụng công cụ này.
Với các biện pháp nêu trên, thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua tương
đối ổn định, tỷ giá biến động không nhiều góp phần ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế.

4.Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng được xác định trên cơ sở chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế và chỉ tiêu
lạm phát dự kiến hàng năm, ngoài ra còn dựa vào một số tín hiệu thị trường khác: tỷ lệ
thất nghiệp, tỷ giá, thâm hụt ngân sách nhà nước, tốc độ lưu thông tiền tệ,… Trên cơ sở
đó, hạn mức tín dụng được phân bổ cho các ngân hàng thương mại, cho từng thời kì phù
hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng
thương mại làm tăng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương quy
định hạn mức tín dụng tối đa cho từng ngân hàng thương mại. Trong phần lớn các trường
hợp, những hạn mức riêng này được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong
quá khứ so với tổng mức cho vay của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng thương mại chỉ
được cấp tín dụng cho nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng quy định.
Hạn mức tín dụng được Ngân hàng trung ương sử dụng như một công cụ quan trọng
của chính sách tiền tệ, khi mà các công cụ truyền thống khác kém hiệu quả. Tuy nhiên,
khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các ngân hàng

thương mại, làm phát sinh các thị trường tài chính “ngầm” ngoài sự kiểm soát của Ngân
hàng trung ương, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kì
đổi mới. Hiệu quả của nó đã thể hiện rõ rệt trong việc chống lạm phát. Năm 1990 – 1991,
do mức độ lạm phát còn ở tỉ lệ cao (67,6%) nên ngân hàng nhà nước đã chủ trương thi
hành chính sách chặt ngay từ đầu. Năm 1992, tăng trưởng kinh tế đạt 8.65% mức lạm
phát chỉ là 17,6%. Những năm sau đó, đặc biệt là từ 1995 – 1997, ngân hàng nhà nước
tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt. Tuy nhiên, từ năm 1998 tới nay, công cụ hạn mức
12


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

tín dụng đã mất dần vai trò của nó trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện
thanh toán nên từ quý II – 1998, ngân hàng nhà nước đã không áp dụng công cụ này như
một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ.
5. Công cụ dự trữ bắt buộc

Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, mà không được dùng
để cho vay hoặc đầu tư. Mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một
tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. Chế độ dự
trữ bắt buộc ở các nước khác nhau, ở các thời kì khác nhau thì có thể khác nhau. Song
nhìn chung, dự trữ bắt buộc đều mang tính pháp luật, được gửi ở Ngân hàng trung ương
và không được hưởng lãi. Ngân hàng trung ương sử dụng dự trữ bắt buộc để tác động đến
lượng tiền cung ứng trên hai phương diện:
Thứ nhất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các ngân hàng
thương mại. Theo thuyết tạo tiền, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng
thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều lần, với công thức tổng quát:
Tiền gửi mới được tạo ra = tiền dự trữ ban đầu x 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc


Trong đó 1/ tỷ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số nhân tiền với hai giả thiết
+ Các ngân hàng thương mại không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt
buộc mà Ngân hàng trung ương yêu cầu.
+ Các khoản tiền gửi do các ngân hàng thương mại tạo ra đều được giữ lại trong hệ
thống ngân hàng.
Do vậy, nếu Ngân hàng trung ương quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ dụ trữ bắt buộc
sẽ làm cho hệ số tạo tiền thu hẹp hoặc tăng lên. Ví dụ, nếu tỉ lệ dự trữ bắt buộc là 10% thì
với một lượng tiền dự trữ ban đầu, hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra một lượng tiền
gửi gấp 10 lần. Tương tự như vậy, nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên 20% thì lượng tiền
13


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

gửi mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng lên 5 lần, nếu dự trữ bắt buộc
giảm xuống 5% thì lượng tiền mới do hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra tăng 20 lần
Thứ hai, tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng
thương mại. Như đã nói ở trên, tiền dự trữ bắt buộc đều phải mở tài khoản và gửi ở Ngân
hàng trung ương và không được hưởng lãi suất, cho dù các ngân hàng thương mại vẫn
phải trả lợi tức cho các khoản tiền gửi ở ngân hàng của mình. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng
lên, đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá
các khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm xuống và
theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại, khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc giảm
xuống, các ngân hàng thương mại có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá
các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại và theo đó
lượng tiền cung ứng tăng lên.
Công cụ dự trữ bắt buộc được không ngừng đổi mới và hoàn thiện từ 6/1992, và là
công cụ tiền tệ chủ yếu trong điền hành CSTT trong thời gian qua nhất là từ năm 1999
đến nay, công cụ này đã đóng vai trò tương đối quan trọng để điều tiết thị trường tiền tệ.
Từ năm 1992, việc duy trì DTBB được tính theo cơ sở hàng ngày và được duy trì trên 1

tài khoản riêng.. Đến tháng 2/2012 Hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc VND với các ngân hàng
thương mại kỳ hạn trên 12 tháng là 1%, không kỳ hạn và dưới 12 tháng là 3%. Với ngân
hàng Agribank và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 1%.. Có
thể nói, đến nay, công cụ DTBB đã được xây dựng theo hướng phù hợp với xu thế chung
của quốc tế khi sử dụng công cụ này. Tỷ lệ DTBB được điều chỉnh phù hợp với diễn biến
tiền tệ nhằm khai thác khả năng điều tiết của công cụ này..
6. Nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng trung ương mua và bán các chứng
khoán có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc nhà nước, nhằm làm thay đổi lượng tiền
cung ứng. Sở dĩ Ngân hàng trung ương tiến hành đại bộ phận nghiệp vụ thị trường tự do
của mình với tín phiếu kho bạc nhà nước là vì thị trường tín phiếu kho bạc có dung lượng
lớn, rủi ro thấp, tính lỏng cao.
14


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Ngân hàng trung ương mua bán chứng khoán trên thị trường sẽ làm thay đổi cơ số
tiền tệ (tiền đang lưu hành ngoài hệ thống ngân hàng và tiền dự trữ trong hệ thống ngân
hàng ). Đó là nguồn gốc chính gây nên sự biến động trong cung ứng tiền tệ.
+ Khi Ngân hàng trung ương mua chứng khoán, làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm
tăng lượng tiền cung ứng.
+ Khi Ngân hàng trung ương bán chứng khoán, thu hẹp cơ số tiền tệ, qua đó giảm
lượng cung ứng.
Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của Ngân hàng trung ương trong việc
điều tiết lượng tiền cung ứng bởi những ưu thế vốn có của nó
+ Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị
trường tự do
+ Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào, điều chỉnh một

lượng tiền cung ứng lớn hay nhỏ
+ Ngân hàng trung ương dễ dàng đảo ngược lại tình thế của mình
+ Thực hiênh nhanh chóng, ít tốn kém về mặt chi phí và thời gian,…
Ngày 12/7/2000, NHNN Việt Nam chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở
vào hoạt động, đây là một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ
của NHNN, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu
của thị trường, phù hợp với thông lệ Quốc tế.
Trước hết, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, các nghiệp vụ thị trường mở OMO
nhắm đến việc điều chỉnh lãi suất ngắn hạn trên thị trường nợ. Mục tiêu này được thay
đổi định kỳ để duy trì lạm phát trong trong khoảng mà ngân hàng Trung ương đặt ra. Tuy
nhiên, các biến số khác của chính sách tiền tệ cũng nhắm đến điều chỉnh lãi suất: cả FED
và ECB đều sử dụng sự biến động về mục tiêu lãi suất làm chỉ dẫn cho nghiệp vụ thị
trường mở. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) hiện cũng đang sử dụng nghiệp
15


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

vụ này khá hiệu quả. Ngoài mục tiêu lãi suất nghiệp vụ thị trường mở còn có một số mục
tiêu khác như tăng giảm cung tiền, duy trì tỉ giá cố định với một ngoại tệ mạnh nào đó.
Dưới chế độ bản vị vàng, các nghiệp vụ thị trường mở còn được sử dụng để ổn định giá
vàng, mục tiêu của chính sách thị trường mở khi đó là giữ giá trị của đồng tiền không đổi
trong mối tương quan với giá vàng
.Trong thực tế, với sự cố gắng của NHNN mặc dù nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt
động ổn định, và NHNN đã có những thành công bước đầu trong việc đưa một công cụ
mới vào điều hành chính sách tiền tệ, nhằn tác động tới vốn khả dụng của các TCTD,
nhưng với thực trạng quy mô thị trường nhỏ, nhiễu phiên giao dịch của thị trường không
có thành viên nào đăng ký giao dịch, thị trường mở hầu như chỉ là sân riêng của các
NHTMQD lớn còn các NHTM cổ phần vốn ít, NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài
ít vốn nội tệ hầu như đứng ngoài, điều này cho thấy việc vận hành nghiệp vụ thị trường

mở chưa thông suốt, lãi suất trên thị trường mở ít có tác động đến lãi suất trên thị trường.
Do đó cần phải có giải pháp điều chỉnh hoạt động thị trường mở, phát triển thị trường này
để trong thời gian tới nó sẽ thực sự trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ.
Hiện nay với mục tiêu có một khung pháp lý hoàn chỉnh hơn nhằm điều chỉnh hoạt
động nghiệp vụ thị trường mở, đảm bảo phù hợp với xu thế phát triển của thị trường, hỗ
trợ kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (sau đây gọi
tắt là các TCTD), NHNN đang lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Thông tư quy định về
nghiệp vụ thị trường mở để thay thế Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN và Quyết định
27/2008/QĐ-NHNN
Tóm lại, chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã
tác động tích cực tới quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong
những năm qua. Chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của
nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội
nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả.

16


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

II. MỘT SỐ MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC ÁP DỤNG LÝ
LUẬN TIỀN TỆ VÀO VIỆT NAM
1. Mục tiêu

Thứ nhất, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ và linh hoạt để ưu tiên
kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức phù hợp; thị
trường tiền tệ, ngoại hối ổn định phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô; hoạt động hệ thống
TCTD an toàn, tuân thủ theo quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Thứ hai, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 14-16%, tín dụng tăng khoảng 1517%; lãi suất và tỷ giá được điều hành ở mức hợp lý phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ

mô, diễn biến thị trường tiền tệ, ngoại hối.
a.

Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Trong điều kiện lưu thông tiền giấy không dược tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn
là khả năng tiềm tàng, lúc này với chức năng của mình ngân hàng trung ương..

b.

Tạo việc làm

c.

Tăng trưởng kinh tế

d.

Quan hệ giữa các mục tiêu
2. Một số giải pháp

Trong xu thế hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, từ này đến năm 2010, môi
trường kinh tế vĩ mô trong nước sẽ có những thay đổi lớn, nhu cầu vốn cho đầu tư phát
triển nền kinh tế tăng lên rất nhanh chóng. Kèm theo là những diễn biến về chính trị và
kinh tế thế giới sẽ có những phức tạp và khó dự đoán trước. Điều này chắc chắn sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó có lĩnh vực về tiền tệ. Do vậy, việc
phân tích mục tiêu hoạt động tiền tệ và để từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục là hết
sức cần thiết. Để khắc phục những hạn chế trong lĩnh vực tiền tệ, đồng thời đáp ứng cho
nhu cầu hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới, cần phải thực hiện một số giải pháp sau
đây:


17


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Một là, Chính phủ cần điều hành linh hoạt, có hiệu quả các công cụ CSTT theo
nguyên tắc thị trường như tái cấp vốn, chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt
buộc (DTBB) để khuyến khích các TCTD tại các chi nhánh NHNN là tiền DTBB; điều
chỉnh tỷ lệ DTBB phù hợp với diễn biến tiền tệ và không ảnh hưởng lớn tới chi phí hoạt
động của TCTD.Xây dựng và hoàn thiện cơ chế điều tiết lãi suất của NHNN theo nguyên
tắc thị trường nhằm tác động gián tiếp, có hiệu quả vào lãi suất của thị trường tiền tệ - tín
dụng nói chung. NHNN điều tiết lãi suất thị trường thông qua lãi suất định hướng của
mình, qua đó sẽ hạn chế cạnh tranh lãi suất huy động vốn như hiện nay và buộc các
NHTM tăng cường khả năng huy động vốn bằng cách mở rộng các tiện ích ngân hàng.
Cơ chế điều hành lãi suất này được thiết kế như sau:Tạo lập khuôn khổ lãi suất điều hành
của NHNN nhằm định hướng cho sự vận động của lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Trước mắt xác định lãi suất tái cấp vốn là lãi suất "trần" của thị trường, lãi suất tái chiết
khấu là lãi suất "sàn" gắn với việc phân bổ hạn mức chiết khấu cho các NHTM. Lãi suất
thị trường mở sẽ là lãi suất ngắn hạn định hướng cho lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng.Lãi suất trái phiếu (tín phiếu) kho bạc cần được tự do, hình thành trên quan hệ cung
cầu (hiện nay lãi suất trong các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc là lãi suất do Bộ Tài
chính chỉ đạo) để lãi suất trái phiếu (tín phiếu) kho bạc thực sự là lãi suất đầu tư thấp nhất
của các NHTM (lãi suất cho vay có độ rủi ro bằng 0). Nhờ đó, đường cong lãi suất chuẩn
trên thị trường vốn được hình thành để các NHTM xác định được lãi suất huy động dài
hạn ở mức hợp lý; khuyến khích người dân và NHTM đầu tư trái phiếu (tín phiếu) kho
bạc.Từng bước mở rộng biên độ tỷ giá hối đoái nhằm điều hành tỷ giá linh hoạt trong
ngắn hạn, đồng thời giữ tương đối ổn định tỷ giá danh nghĩa trong dài hạn và phù hợp với
tỷ giá thực. Mặt khác, để hạn chế sự phụ thuộc quá mức của VND vào đồng USD, cần
xây dựng cơ chế tỷ giá tính theo rổ tiền tệ gắn liền với các đối tác thương mại lớn của
VN. Điều tiết lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ cần được tính toán trong mối quan hệ hài

hoà với tỷ giá để đảm bảo lợi tức thu được từ đầu tư vào VND hay ngoại tệ tương đương
nhau.

18


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

Hai là, Chính phủ cần phải kiên quyết không chỉ đạo các ngân hàng thương mại
khoanh nợ, giãn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ và dùng quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng
thương mại để bù đắp cho vấn đề này. Đối với các doanh nghiệp thua lỗ kéo dài cần phải
giải quyết theo luật định. Đồng thời Chính phủ cần phải chỉ đạo kiên quyết đẩy nhanh tốc
độ sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước hơn nữa, cho phép thực hiện một số giải pháp linh
hoạt trong định giá doanh nghiệp, trong xử lý nợ của doanh nghiệp khi tiên hành cổ phần
hoá. Với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu lớn, nên
tính đến các công cụ phòng ngừa rủi ro như hoán đổi tiền tệ và hoán đổi lãi suất... Đồng
thời sớm tham gia các hiệp hội ngành hàng trên thế giới để có thể được cung cấp thông
tin và nắm bắt kịp thời về diễn biến cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới.
Ba là, cần phải tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia của các tổ chức tài chính
trung gian phi ngân hàng trên thị trường mở và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này
trên thị trường tài chính nói chung. Mặt khác, cần phải tạo điều kiện cho thị trường chứng
khoán hoạt động thực sự hiệu quả, là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho
đầu tư phát triển kinh tế, giảm bớt sức ép về cung ứng vốn đối với hệ thống ngân hàng
thương mại như hiện nay. Mặt khác, Bộ Tài chính cần đa dạng các kỳ hạn của tín phiếu
kho bạc nhà nước thay vì chỉ có một loại kỳ hạn 1 năm như hiện nay. Có như vậy, việc
phát hành tín phiếu kho bạc mới có thể thu được kết quả như mong muốn và khi đó, hàng
hoá cho thị trường mở nói riêng, thị trường tiền tệ nói chung sẽ phong phú hơn.
Bốn là, cần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt
Nam, có như vậy mới đủ sức bước vào “sân chơi” chung khi hội nhập. Để làm được điều
này, theo chúng tôi cần phải thực hiện quyết liệt hơn nữa đề án tái cơ cấu hệ thống ngân

hàng thương mại của Chính phủ, cụ thể: Tăng vốn điều lệ cho các ngân hàngtm; Nâng
cao chất lượng tài sản có và tăng khả năng an toàn trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt
là đối với các ngân hàng thương mại nhà nước; Tăng cường hiện đại hoá, công nghệ ngân
hàng; Nâng cao khả năng quản lý, điều hành ngân hàng...
Năm là, cần phải nâng cao vị thế của Ngân hàng Nhà nước, tăng tính độc lập của
Ngân hàng Nhà nước trong điều hành chính sách tiền tệ đối với Chính phủ, mặc dầu vẫn
19


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

đề Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thuộc Chính phủ. Có như vậy thì các quyết định của
ngân hàng Trung ương mới khách quan và được thực hiện một cách kịp thời. Đồng thời
cần phải đẩy mạnh tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tăng cường hiệu lực thanh
tra, giám sát của cơ quan thanh tra ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Nhà nước nên tổ
chức tổng kết hơn 10 năm điều hành thị trường liên ngân hàng để từ đó rút ra được những
thành công, hạn chế còn tồn tại cũng như nguyên nhân của những hạn chế đó để tìm ra
các giải pháp thích hợp nhằm khắc phục, tiếp tục phát triển thị trường này trở thành thị
trường chủ đạo trong thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay cũng như thời gian tới.
Sáu là, Ngân hàng Nhà nước cần xem lại hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ,
xác định công cụ nào là chủ yếu, công cụ nào là bổ trợ và sự phối hợp giữa các công cụ
đó trong vận hành. Ngân hàng cần xác định rõ 2 công cụ chủ yếu là: công cụ nghiệp vụ
thị trường mở, công cụ dự trữ bắt buộc. Các công cụ còn lại là các công cụ bổ trợ, bao
gồm: công cụ lãi suất, công cụ tỷ giá hối đoái, công cụ hạn mức tín dụng. Riêng công cụ
Hoán đổi ngoại tệ (SWAP), được Ngân hàng Nhà nước áp dụng năm 2001 để khắc phục
tình trạng thiếu vốn VND của các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, không nên coi SWAP là
công cụ điều hành thường xuyên của chính sách tiền tệ, mà chỉ nên coi nó là công cụ
phòng ngừa rủi ro. Khi đặc biệt cần thiết mới sử dụng nó với tư cách là công cụ của chính
sách tiền tệ. Bởi lẽ, nếu chúng ta sử dụng SWAP thường xuyên thì các tổ chức tín dụng sẽ
không cần phải tăng cường dự trữ giấy tờ có giá, và cũng sẽ không muốn tham gia thị

trường mở. Điều đó có nghĩa là, SWAP đã “góp phần” triệt tiêu công cụ nghiệp vụ thị
trường mở, một công cụ chủ yếu trong điều hành chính sách tiền tệ.
Bảy là, công tác dự báo chính sách tiền tệ phải đặc biệt coi trọng thống kê các tài
khoản kinh tế vĩ mô (Thống kê tiền tệ, thống kê cán cân thanh toán, thống kê hệ thống tài
khoản quốc gia, thống kê tài chính Chính phủ). Có như vậy, các nhà phân tích và hoạch
định chính sách tiền tệ mới có thể nắm bắt được một cách tổng thể các thông tin cần thiết
để xây dựng một chính sách tiền tệ linh hoạt, phù hợp với những biến động của nền kinh
tế. Chính phủ cần chỉ đạo Tổng cục Thống kê công bố một cách chính thức chỉ số lạm
phát trên cơ sở thống nhất phương pháp tính chỉ số lạm phát theo thông lệ quốc tế với các
20


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

cơ quan liên quan. Có như vậy mới đảm bảo cho sự điều hành chính sách tiền tệ được
khách quan, không chịu sức ép của dư luận.
Tám là, tạo hành lang pháp lý cho sự tham gia của các tổ chức tài chính trung gian
phi ngân hàng trên thị trường mở và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này trên thị
trường mở và đẩy mạnh sự tham gia của các tổ chức này trên thị trường tài chính nói
chung. Mặt khác cần phải tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động thực sự
hiệu quả, là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho đầu tư phát triển kinh tế,
giảm bớt sức ép về cung ứng vốn đối với hệ thống ngân hàng thương mại như hiện nay.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập với thế giới, là thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương Mại Thế Giới - W.T.O,đánh giấu một mốc quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế. Vì vậy việc đổi mới chính sách tiền tệ nói riêng, chính sách kinh tế
vĩ mô nói chung có một vai trò hết sức quan trọng, thể hiện rõ sự quản lý nhà nước về
kinh tế, góp phần làm nên thắng lợi của công cuộc đổi mới kinh tế nước nhà

21



Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

KẾT LUẬN
Như vậy, theo phân tích ở trên, những lý luận về tiên tệ, đặc biệt là chính sách tiền
tệ và các công cụ của nó có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng những lý luận về tiền tệ luôn đòi hỏi sự chính
xác, phù hợp. Trong những năm gần đây, các công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ đã
bộc lộ rõ những hạn chế trong khi các công cụ gián tiếp chưa thực sự phát huy hết hiệu
quả. Từ đó đòi hỏi phải có những định hướng và giải pháp đúng đắn trong việc hoàn
thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng
cần phải có phát triển đồng bộ về năng lức của Ngân hàng Nhà nước và hệ thống ngân
hàng thương mại cùng các sự phối hợp đồng bộ khác.
Hy vọng những nội dung trên đây sẽ góp phần hoàn thiện và thúc đẩy việc sử dụng
những lý luận về tiền tệ, đem lại hiệu quả tích cực cho việc phát triển và tăng trưởng của
nền kinh tế. Song trong quá trình nghiên cứu, với khả năng có hạn, đề tài chỉ dừng ở mức
nội dung cơ bản , không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

22


Phân tích lý luận của Các Mác về tiền tệ và sự vận dụng vào nền kinh tế hàng hóa ở Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.TS. Chu Văn Cấp, GS.TS. Phạm Quang Phan, PGS.TS. Trần Bình Trọng, 2006,
Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
PGS.TS. Nguyễn Văn Hảo, PGS.TS Nguyễn Đình Kháng, 2003, Giáo trình kinh tế

chính trị Mác – Lênin, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia
(Bổ sung vài tài liệu của trường TMại vào đây)
TS. Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính - tiền tệ, Nhà xuất bản
thống kê
N.Gregrory Mankiw, 2000, Kinh tế học Vĩ Mô, Nhà xuất bản Thống Kê
Các trang web:
www.kinhtehoc.com
www.vietnamnet.vn
www.dantri.com.vn

23



×