Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

phân tích vai trò của các tố ảnh hưởng tới sự phát triển và hình thành đến nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.13 KB, 11 trang )

I. Mở đầu.
Nhân cách của con người luôn là một đối tượng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau như: Triết học, y học, giáo dục học, tâm lý
học… Trong đó theo quan niệm của tâm lý học thì nhân cách được hiểu
là dùng để nói tới con người với tư cách là một thành viên của một xã hội
nhất định, là chủ thể của các mối quan hệ người – người, của hoạt động
có ý thức và giao lưu. Nói đến nhân cách chúng ta cần phải làm rõ các
vấn đề như: Nhân cách là gì, sự hình thành và phát triển của nhân cách,
vai trò của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nhân cách,… Để
làm rõ các vấn đề này chúng ta hãy cùng nhau đi yếu phân tích vai trò
của các tố ảnh hưởng tới sự phát triển và hình thành đến nhân cách. Liên
hệ thực tế để rút ra bài học cho riêng mình.

II. Nội dung.
Chúng ta đều biết rằng con người sinh ra vốn chưa có nhân cách. Nhân
cách là cấu tạo mới do từng người tự hình thành nên và phát triển trong
quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao động, hoạt động xã hội, vui chơi…
Qua đó chúng ta có thể phân chia các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành
và phát triển của nhân cách thành năm yếu tố là: di truyền, hoàn cảnh
sống, giáo dục, hoạt động, giao tiếp. Để đi vào phân tích vai trò của từng
yếu tố trước hết chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu thế nào là sự phát triển
nhân cách: Sự phát triển nhân cách là sự biến đổi có quy luật cả lượng và
chất về thể chất, về tâm lý, về mặt xã hội của cá nhân.
- Sự phát triển về thể chất thể hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao,
trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các giác quan, sự phối hợp các vận
động.
- Sự phát triển về mặt tâm lý thể hiện ở những biến đổi cơ bản trong
quá trình nhận thức, xúc cảm, ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý
mới của nhân cách.
1



- Sự phát triển về mặt xã hội thể hiện ở sự thay đổi trong cách ứng xử
với người xung quanh, trong sự tham gia tích cực vào đời sống xã hội.
Đi vào từng yếu tố một chúng ta hãy cùng nhau phân tích vai trò của
từng yếu tố này và qua liên hệ với thực tế sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về
vai trò của các yếu tố này.
1. Yếu tố di truyền.
Theo sinh vật học hiện đại thì di truyền là mối liên hệ kế thừa của cơ
thể sống đảm bảo sự tái tạo ở thế hệ mới những nét giống nhau về mặt
sinh vật đối với thế hệ trước và đảm bảo năng lực đáp ứng những đòi hỏi
của hoàn cảnh theo một cơ chế đinh sẵn.
Vậy nhân tố di truyền có vai trò gì đối với sự hình thành và phát triển
của nhân cách?.
Con người của chúng ta như là một bộ phận của tự nhiên, khi sinh ra
chúng ta đã có sự tiếp nhận những vốn sinh học được được di truyền từ
đời trước để lại dưới hình thức là sức mạnh bên trong của cơ thể cùng với
những đặc điểm về cấu tạo và chức năng của cơ thể. Chương trình mang
tính di truyền về sự phát triển con người, trước hết đảm bảo cho loài
người tiếp tục tồn tại, đồng thời làm phát triển những hệ giúp cơ thể con
người thích ứng với những biến đổi của các điều kiện tồn tại của mình,
tạo khả năng cho con người hoạt động có hiệu quả trong một số lĩnh vực
nhất định trong điều kiện xã hội loài người. Tai âm nhạc của MoZa hay
mắt hội họa của Leonardo da Vinci sẽ không tự phát triển những khả
năng tiềm tàng của nó một khi thiếu môi trường, sự rèn luyện cùng với hệ
thần kinh nhiều năng lực, nhiều tính cách khác nhau có thể được hình
thành và ngược lại.
Để nhận thức đúng hơn về vai trò của yếu tố bẩm sinh – di truyền trong
sự phát triển của nhân cách chúng ta cần phải thừa nhận một thực tế là
mọi cơ thể bình thường đều có thể phát triển tốt đẹp đời sống tinh thần
của mình. Một chức năng tâm lý có thể bị mất đi nhưng cũng có thể được

2


khôi phục lại được nhờ sự tập luyện tích cực, ngoài ra sự tác động của
yếu tố di truyền đối với các lứa tuổi là khác nhau. Chẳng hạn như khả
năng tiềm tàng của bộ máy phân tích âm thanh hay hình ảnh của một ai
đó qua thời gian sẽ được hoàn thiện hơn qua sự bồi dưỡng và phát triển
nó từ khi còn nhỏ.
Qua đây chúng ta có thể thấy được rằng yếu tố bẩm sinh – di truyền
đóng một trò đáng kể trong sự phát triển tâm lý nhân cách. Nó tham gia
vào tạo cơ sở vật chất của các hiện tượng tâm lý. Từ đó ta có thể khẳng
định yếu tố bẩm sinh – di truyền có vai trò là tạo tiền đề vật chất của yếu
tố di truyền đối với sự hình thành và phát triển của nhân cách.
2. Hoàn cảnh sống.
Hoàn cảnh sống là một hệ thống phức tạp các hoàn cảnh bên ngoài,
các điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh con người cần thiết cho hoạt
động và sinh hoạt của con người. Qua đó chúng ta có thể phân chia hoàn
cảnh sống làm hai loại đó là hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội.
a. Hoàn cảnh tự nhiên.
Trước hết chúng ta có thể hiểu hoàn cảnh tự nhiên ở đây là hoàn cảnh
địa lý như: đất đai, sông núi, khí hậu… Những điều kiện này sẽ quyết
định đến các ngày sản xuất, đặc tính nghề nghiệp ở mỗi nơi qua đó nó tác
động đến giá trị về cả vật chất lẫn tinh thần của con người. Những hoàn
cảnh tự nhiên có thể tác động đến các phong tục tập quán của các dân tộc,
tác động đến một số nét tâm lý của những con người ở đó. Một ví dụ cho
hoàn cảnh tự nhiên tác động đến nhân cách của con người; Qua sự điều
tra của các nhà tâm lý học của Việt Nam có kết quả cho rằng ở miền bắc
có thời tiết lạnh hơn hẳn các khu vực còn lại điều này làm cá tính người
miền bắc trầm hơn cá tính người miền nam họ có cá tính sôi nổi và
thoáng hơn do thời tiết đã tác động đến đời sống tâm lý của họ.

Môi trường tự nhiên thì không ảnh hưởng nhiều tới sự hình thành và
phát triển nhân cách nhưng mà nó cũng có một vai trò nhất định của nó.
3


Nếu con người sinh ra mà không sống ở môi trường tự nhiên mà mọi
người đang sống đó là môi trường mà con người có thể sinh hoạt và phát
triển mà đi chiu vào rừng sống với khỉ thì dỉ nhiên là không thể phát triển
nhân cách theo kiểu người được mà chỉ có thể phát triển theo kiểu khỉ mà
thôi. Môi trường tự nhiên không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển nhân
cách của con người mà có một môi trường khác nó có vai trò quan trọng
hơn nhiều đó là môi trường xã hội.
b. Hoàn cảnh xã hội.
Môi trường xã hội là môi trường không phải tự nhiên mà có suy cho
cùng thì nó là do con người của chúng ta tạo ra. Môi trường xã hội phong
phú hơn và ảnh hưởng tới chúng ta nhiều hơn, nó bao gồm rất rộng, rất
nhiều lỉnh vực như: văn hóa, gia đình, nhóm, kinh tế , chính trị… môi
trường xã hội có ảnh hưởng tới con người rất nhiều từ khi con người ta
sinh ra cho đến khi chết. Môi trường xã hội ảnh hưởng tới mổi người mỗi
khác nhau. vì mỗi người sống trong một môi trường xã hội khác nhau.
Một đứa trẻ được sinh ra trong một gia đình mà ở đó đồng tiền được coi
là trên hết là mục tiêu hàng đầu thì sau này lớn lên những điều đó cũng đã
ảnh hưởng tới tâm lý, mục tiêu của đứa trẻ đó. Gia đình là nơi hình thành
và phát triển nhân cách của con người, người có vai trò quyết đình tới sự
hình thành nhân cách của con người đó là cha mẹ. Vì cha mẹ là người
trục tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ từng li từng tí. Trẻ hình
thành nhân cách từ gia đình. Chúng ta có thể nói nếu bố mẹ có nhân cách
tốt thì dĩ nhiên là con cũng vậy và ngược lại nếu bố mẹ có nhân cách
không tốt thì con sẽ noi theo như thế. Như ta đã biết trong cấu trúc của
nhân cách thì có bốn phần thì vào lúc này bố mẹ cần lưu ý về cách cư xử

của chúng ta. Trên thực tế, trẻ sẽ làm những việc mà chúng thấy ta làm
chứ chưa đủ khả năng hiểu những điều chúng ta nói. Chúng ta có thể giáo
dục và làm gương cho trẻ trong các công việc tốt như là: giúp đỡ người
khác, giữ vệ sinh công cộng, lễ phép… để trẻ thấy đó mà noi theo.Cha mẹ
4


nên tìm cách sống và làm việc một cách vui vẻ, hạnh phúc với cuộc sống
rồi chia sẻ những điều đó với trẻ. Ngoài ra tùy theo độ tuổi mà con người
ta sẽ có các cách nhận thức khác nhau về xã hội, càng lớn sự tiếp xúc với
xã hội càng thêm sâu, thêm rộng qua đó sự ảnh hưởng đến nhân cách của
từng người sẽ là không nhỏ.
3. Nhân tố giáo dục.
Chúng ta thấy rằng hoàn cảnh bên ngoài tác động vào cá nhân rất khác
nhau, cùng với những sự tác động có mục đích, có tổ chức thì cũng có
không ít những tác động tự phát, ngẫu nhiên của hoàn cảnh xã hội. Trong
những tác động đó thì giáo dục là sự tác động có mục đích, có tổ chức
nên nó là nhân tố chủ đạo trong sự phát triển nhân cách.
Trong tâm lý học, giáo dục thường được hiểu là quá trình tác động có
ý thức, có mục đích và có kế hoạch về mặt tưởng, đạo đức và hành vi
trong tập thể trẻ em và học sinh, trong gia đình và cơ quan giáo dục
ngoài nhà trường. Nhưng thực ra giáo dục còn có ý nghĩa rộng hơn, giáo
dục bao gồm cả việc dạy học cùng với hệ thống các tác động sư phạm
khác , trực tiếp hoặc gián tiếp trong lớp và ngoài lớp, trong trường và
ngoài trường, trong gia đình và ngoài xã hội. Vai trò chủ đạo của giáo dục
đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ được thể hiện
ở những điểm sau:
- Giáo dục vạch ra chiều hướng cho sự hình thành và phát triển nhân
cách của học sinh và dẫ dắt sự hình thành và phát triển nhân cách cá nhân
của học sinh theo chiều hướng đó.

- Giáo dục có thể mang lại những tiến bộ mà các nhân tố khác như
bẩm sinh- di truyền hoặc môi trường, hoàn cảnh không thể có được.
Chúng ta có thể lấy một ví dụ đơn giản: Một em bé sinh ra không bị
khuyết tật gì, cùng với sự tăng trưởng và phát triển của cơ thể thì một vài
năm sau, chắc chắn em bé sẽ biết nói. Nhưng nếu không được học tập thì

5


em sẽ không thể đọc sách, viết thư và càng không thể có những kỹ xảo
nghề nghiệp.
- Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những người bị khuyết
tật, nó có thể bù đắp những thiếu hụt do bệnh tật gây ra cho con người.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, nghệ sĩ chơi ghi ta Văn Vượng…chính là
một minh chứng thuyết phục cho luận điểm này.Nhờ tác động đặc biệt
của giáo dục nên có thể phục hồi ở họ những chức năng đã mất hoặc có
thể phát triển về trí tuệ như những người bình thường.
- Giáo dục còn có thể uốn nắn những phẩm chất tâm lý xấu và làm cho
nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã hội. Đó chính là hiệu
quả của công tác giáo dục lại đối với trẻ em hư hoặc những người phạm
pháp hay cả những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Có rất nhiều trường giáo
dưỡng đã được nhà nước thành lập ra để khác phục tình trạng trẻ em hư
vi phạm pháp luật, ở đó các em sẽ được nuôi dạy và uốn nắn từ lời ăn
tiếng nói đến những cử chỉ hành động để góp phần cho xã hội phát triển
đi lên không có những trẻ em hư, không vi phạm pháp luật và bù đắp cho
các em tình cảm gia đình, bạn bè.
- Khác với các nhân tố khác, giáo dục không chỉ thích ứng mà còn có
thể đi trước hiện thực và thúc đẩy nó phát triển. Điều đó có giá trị định
hướng cho việc xây dựng mô hình nhân cách của con người Việt Nam với
tư cách là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội.

Thực tế giáo dục cũng đã chứng minh rằng: Sự phát triển tâm lý của
trẻ em chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong những điều kiện của giáo
dục và dạy học. Điều đó càng chứng tỏ tầm quan trọng của giáo dục.
Chính bởi giáo dục có vai trò chủ đạo trong sự hình thành và phát
triển nhân cách, cho nên trong quá trình dạy học và giáo dục chúng ta cần
lưu ý một số điểm sau:
- Dạy học, giáo dục sẽ tạo nên sự phát triển nhân cách khi trong quá
trình đó những sức mạnh của bản thân trẻ được thúc đẩy, khi nhu cầu,
6


động cơ, hứng thú của trẻ được chú ý, khi dạy học và giáo dục phù hợp
với những quy luật bên trong của sự phát triển cá nhân.
- Những yêu cầu của nhà trường, của nhà giáo dục, của môi trường
giáo dục xung quanh đề ra cho trẻ phải không ngừng tăng dần mức độ
phức tạp và khó khăn. Có như vậy sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của
trẻ.
- Giáo dục và dạy học một mặt phải dựa trên sự phát triển đã đạt
được của học sinh, nhưng mặt khác phải đi trước sự phát triển , kéo sự
phát triển tiến lên.
- Giáo dục và dạy học phải luôn chú ý đến việc kích thích được hoạt
động của học sinh , mặt khác, trong quá trình giáo dục và dạy học phải tổ
chức đúng đắn, hợp lý các hoạt động học tập , lao động sản xuất , hoạt
động xã hội – chính trị, thể thao, vui chơi, giải trí … Chính thông qua
hoạt động và giao tiếp ấy mà trẻ ngày càng phát triển về tâm lý, ngày
càng nhận thức thế giới mốt cách sâu sắc hơn.
- Một điều đặc biệt quan trọng là cần phải đánh giá đúng vai trò của
giáo dục trong mối quan hệ với các yếu tố khác, tránh quá đề cao hoặc là
có nhận thức không đúng đắn về vai trò của giáo dục trong sự phát triển
nhân cách con người.

4. Nhân tố hoạt động.
Con người với tư cách là một sinh thể ở bậc thang tiến hóa cao nhất
của sự tiến hóa vật chất, lại là một thực thể XH, là chủ thể lao động, nhận
thức và giao lưu. Hoạt động làm cho con người nhận thức được hiện thực,
kích thích hứng thú, niềm say mê sáng tạo và làm nảy sinh những nhu cầu
mới, những thuộc tính tâm lý mới… Nhờ đó nhân cách được hình thành
và phát triển.
Hoạt động cá nhân đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách.

7


Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mang tính xã
hội, cộng đồng, được thực hiện bằng những thao tác nhất định để nhằm
đạt được những mục đích, thỏa mãn những nhu cầu của cá nhân về cả vật
chất lẫn tinh thần điều đó là biểu hiện phong phú tích cực của nhân cách.
Để đạt được những mục đích mà con người đã đặt ra cho mình thì con
người cần phải có niềm say mê, hứng thú cùng với sự quyết tâm. Qua
hoạt động con người tự nắm lấy kinh nghiệm cho mình và giúp cho mình
trở nên hoạt bát năng động hơn. Nếu như việc giáo dục có tốt đến đâu mà
ngay trong bản thân người học sinh, sinh viên vẫn chưa ý thức và tiếp thu
thì việc giáo dục đó sẽ là vô nghĩa, hay cha mẹ có quan tâm chăm sóc con
cái từ lời ăn tiếng nói đến đối nhân sử thế mà con cái không nghe lời bỏ
ngoài tai những lời răn dạy của cha mẹ thì điều đó cũng là vô nghĩa,
chúng ta có thể thấy được sự quan trọng của hoạt động cá nhân đối với sự
phát triển nhân cách qua hai ví dụ trên đây, như vậy việc hoạt động của
mỗi cá nhân là rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển của nhân
cách.
5. Yếu tố giao tiếp.

Trước hết Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con người và con
người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm,
kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách bản thân.
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. nhu cầu
giao tiếp là một trong những nhu cầu xã hội cơ bản, xuất hiện sớm nhất ở
con người. Sự phát triển cả một cá nhân được quy định bởi sự phát triển
của tất cả các cá nhân khác mà nó giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp với
họ. Chính con người làm xuất hiện, duy trì, phát triển giao tiếp và trở
thành sản phẩm của giao tiếp. Nhờ giao tiếp mà chúng ta có thể tự đối
chiếu và đánh giá bản thân mình so với chuẩn mực của xã hội. Qua giao
tiếp mà người khác có thể nhìn nhận mình bằng những con mắt khác
nhau, họ cũng có thể đánh giá bản thân của chúng ta qua sự giao tiếp với
8


chúng ta, giao tiếp gắn mối quan hệ giữa người với người và thông qua
giao tiếp con người có thể đóng góp một phần năng lực của mình vào kho
tàng chung của nhân loại.

C. Phần kết.
Qua bài phân tích trên đây về vai trò của các yếu tố ảnh hưởng tới sự
hình thành và phát triển của nhân cách, ít nhiều chúng ta cũng có sự hiểu
biết thêm về nhân cách về vai trò của các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình
thành và phát triển của nhân cách.

9


D. Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình: Tâm Lý học đại cương (Đại Học Luật Hà Nội).

2. Giáo trình: Tâm Lý học đại cương (Học viên Hành Chính).
Wedsite.
1. sinhvienluat.vn
2. .

10


D. Mục lục.
A. Mở đầu………………………………………………………………..1
B. Nội dung………………………………………………………………1
1. Yếu tố di truyền………………………………………………………..2
2. Hoàn cảnh sống………………………………………………………..3
a. Hoàn cảnh tự nhiên…………………………………………………….3
b. Hoàn cảnh xã hội………………………………………………………4
3.Nhân tố giáo dục……………………………………………………….5
4.Nhân tố hoạt động……………………………………………………..7
5. Yếu tố giao tiếp………………………………………………………..8
C. Phần kết………………………………………………………………9
D. Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………10

11



×