Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tìm hiểu về sự hình thành hoạt động học của học sinh và nêu ý nghĩa của hoạt động học với bản thân và việc tổ chức hoạt động học cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.4 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Họat động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự
giác và lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những
dạng hoạt động nhất định, những giá trị. Học tập có hai phương thức là học một cách
ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và học theo phương thức chuyên biệt - phương
thức nhà trường. Tuy nhiên, hoạt đông học chỉ có thể phát huy hiệu quả trong môi trường
giáo dục sư phạm với phương thức nhà trường. Việc tổ hình thành hoạt động học cho học
sinh là nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi người giáo viên đứng lớp và những cán bộ quản
lý trường học song chủ yếu là người giáo viên chuyên trách.
Bản thân sinh viên ngồi trên ghế giảng đường phạm – những thầy cô giáo tương lai
bên cạnh phát huy ý nghĩa của hoạt động học với chính bản thân mình là phát triển toàn
diện nhân cách, năng lực và tư duy sáng tạo. Muốn vậy mỗi sinh viên sư phạm cần chuẩn
bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, nền tảng kiến thức tâm lý học đường vững vàng
để tham gia hiệu quả công tác giảng dạy sau này. Theo đó chúng ta cần nhận thức ý nghĩa
to lớn của việc tổ chức hoạt động học tập cho học sinh là không nằm ngoài mục đích hình
thành ý thức tích cực học tập, tính tự giác cho người học trong lĩnh hội, khám phá tri thức,
kĩ năng, kĩ xảo mới ở các em. Đó chính là nội dung của đề tài: “Tìm hiểu về sự hình
thành hoạt động học của học sinh và nêu ý nghĩa của hoạt động học với bản thân và
việc tổ chức hoạt động học cho học sinh.”

1


II. NỘI DUNG
2.1. Hoạt động học và sự hình thành hoạt động học của học sinh
2.1.1 Hoạt động học
2.1.1.1. Khái niệm hoạt động học
Họat động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự
giác và lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những


dạng hoạt động nhất định, những giá trị.
Khi tìm hiểu về khái niệm hoạt động học ta cần phân biệt học tập và lĩnh hội:
Lĩnh hội là một khái niệm chỉ sự tiếp thu của học sinh những tri thức, năng lực…của
loài người và sự vận dụng chúng vào những trường hợp cụ thể để hình thành những năng
lực và phẩm chất riêng của từng học sinh, nhờ đó tạo nên sự phát triển của các em.
Học tập không đồng nhất với lĩnh hội, vì học tập là tiền đề cần thiết cho sự lĩnh hội;
còn quá trình lĩnh hội gắn liền với các thao tác tư duy. Đồng thời việc lĩnh hội cùng một
nội dung như nhau lại có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp và phương tiện học
tập khác nhau.
Bên cạnh đó ta cần phân biệt học không chủ định và học có chủ định:
* Học một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày (học không chủ định):
- Là việc nắm được tri thức, kinh nghiệm, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, cũng như các
phương thức hành vi khác thông qua việc thực hiện một hoạt động khác trong cuộc sống
hàng ngày.
- Kết quả của cách học này:
2


+ Những kinh nghiệm lĩnh hội được không trùng hợp với những mục tiêu trực tiếp của
chính hoạt động hay hành vi.
+ Chỉ lĩnh hội những gì liên quan trực tiếp với các nhu cầu, hứng thú, các nhiệm vụ
trước mắt, những cái khác thì bỏ qua.
+ Chỉ đưa lại cho con người những tri thức khoa học ngẫu nhiên, rời rạc không hệ
thống.
+ Chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày trực tiếp mang
lại.
* Học theo phương thức chuyên biệt – phương thức nhà trường (học có chủ định):
Có thể thấy việc lĩnh hội một hệ thống khái niệm khoa học và những cấu trúc hoạt
động tâm lý tương ứng, sự phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách người học không thể
chỉ dựa vào một mình kiểu học ngẫu nhiên. Cần có một hoạt động đặc biệt mà mục đích

cơ bản, trực tiếp của nó là bản thân sự học – hoạt động học.
- Hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự
giác là lĩnh hội những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, những hình thức hành vi và những
dạng hoạt động nhất định, những giá trị.
Họa động học chỉ có thể được tiến hành khi con người có khả năng điều khiển hành
động của mình bằn một mục đích tinh thần được đặt trước một cách có ý thức. Theo nhiều
nghiên cứu khả năng này chỉ được bắt đầu vào lúc 4 - 5 tuổi trên cơ sở những hành vi và
họat động trước đó – các trò chơi, lời nói, hành vi thực tiễn..
- Các cách thức học: Học nhờ trải nghiệm; học theo phương pháp nhà trường và tự
học.
2.1.1.2. Bản chất của hoạt động học
a) Đặc điểm tâm lý của họa động học
- Chủ thể của hoạt động học là người học, là học sinh. Hoạt động học là hoạt động chủ
thể chiếm lĩnh đối tượng bằng cách tai tạo đối tượng thông qua hoạt động bản thân. Hay
lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức đó. Nghiã là tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo là đối tượng của hoạt động học. Trong quá trình này, các chức năng tâm lý của học
sinh được vận hành tích cực - tiến hành những hành động học tập chuyên biệt bằng ý thức
tự giác và năng lực trí tuệ của mình. Học sinh thực hiện hoạt động học cũng chính là
chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới – người học tái hiện những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo đã được hình thành trong lịch sử, biến chúng thành năng lực của mình. Hoạt động học
như vậy được tiến hành theo cơ chế lĩnh hội. Ví dụ: Hoạt động học toán của trẻ lớp1 là trẻ
tích cực hoạt động để chiếm lĩnh kỹ năng, kỹ xảo làm toán....
- Hoạt động học tập hướng vào chính bản thân chủ thể, làm thay đổi chính chủ thể:
Bằng hoạt động học, mỗi chủ thể lĩnh hội được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, do đó phát
triển tâm lý người học (phát triển về nhận thức, phẩm chất của nhân cách…). Hoạt động
3


học tạo ra sự biến đổi ở chính người học, hình thành nhân cách học sinh. Ví dụ: Thông
qua môn học đạo đức, hình thành các em những phẩm chất đạo đức tốt - hình thành nhân

cách ở học sinh…
- Hoạt động chủ đạo: cuộc sống con người gồm nhiều hoạt động, hoạt động học tập là
hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi học sinh các cấp. Hoạt động này không chỉ hướng học sinh
lĩnh hội nội dung học tập mà còn lĩnh hội phương thức của chính hoạt động. Nhờ đó học
sinh không phải học lỏm, mò mẫm như khi chưa hình thành được hoạt động học, đồng
thời có sự phát triển tâm lý của bản thân mình.
- Nội dung của hoạt động học chính là đối tượng mà học sinh cần chiếm lĩnh, đó là hệ
thống tri thức về các môn học và hệ thống các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Trong thực tiễn
giáo dục, nội dung của học sinh được thể hiện qua nội dung chương trình từng môn học
thuộc khoa học tự nhiên, xã hội - nhân văn. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nghệ thuật, đạo đức
thì đơn vị kiến thức và kỹ năng mới chỉ là cái đối tượng bám vào chứ chưa phải là đối
tượng đích thực. Mà đối tượng đích thực phải là hành động thực tiễn của các em. Ví dụ:
Môn học đạo đức, lối sống, học sinh hiểu khái niệm thôi chưa đủ mà quan trọng là bản
thân các em phải có thái độ hành động phù hợp.
- Phương thức học tập chủ đạo, để phân chia các cấp học:
* Bậc tiểu học: phương thức học chủ đạo là: HỌC –TẬP: Chủ yếu thực hành kỹ năng
trên cơ sở lý thuyết. Ví dụ: tập đọc, tập viết, tập làm văn…
* Bậc trung học (THSC, THPT): HỌC – HÀNH: Có lý thuyết + kỹ năng thực hành.
(Cao hơn so với bậc tiểu học)
* Bậc đại học: Có lý thuyết và kỹ năng nghề nhưng chuyên sâu hơn; Khả năng tự học
và nghiên cứu khoa học.
b) Các thành phần cấu trúc của hoạt động học
* Động cơ của hoạt động học: Chính là nhu cầu được mỗi hs nhận thức, trở thành
động lực thôi thúc các em học. Hay là cái mà học sinh thực hiện hành động học.
Nhìn chung ở mỗi học học sinh đồng thời có nhiều động cơ khác nhau, nhưng chỉ có
một động cơ chiếm ưu thế, động cơ đích thực, động cơ chân chính là động cơ xuất phát từ
chính đối tượng của hoạt động học, từ chính việc lĩnh hội nội dung học, đó cũng là động
cơ đúng đắn.
Trong quá trình dạy học, giáo viên bao giờ cũng cần chú ý hình thành cho học sinh
động cơ học tập đúng đắn, đó là động lực thúc đẩy các em thực hiện hoạt động học một

cách hứng thú và có hiệu quả.
* Nhiệm vụ của hoạt động học: (hay mục tiêu của từng tiết học)
Là nội dung cụ thể mà mỗi học sinh phải thực hiện để có được sản phẩm nhất định.
Chính là đơn vị kiến thức và kỹ năng cụ thể (mục đích), cùng với phương tiện cần thiết
4


tương ứng để học sinh có thể thực hiện các hành động học bằng hệ thống thao tác tương
ứng dể đạt sản phẩm học theo quy định.
Mỗi tiết học, mỗi bài học có thể có nhiều nhiệm vụ, nhiệm vụ học tập khác với nhiệm
vụ của các hoạt động khác ở chỗ, nhiệm vụ học tập hướng vào việc tạo ra năng lực mới
thể hiện ở kết quả học tập.
Nhiệm vụ học tập là nhân tố quan trọng của hoạt động học tập, không có nó hoạt động
học không được cụ thể hóa, và như vậy sẽ không thể đạt tới kết quả.
* Hành động học
Là cách diễn ra của hoạt động học (cách thực hiện nhiệm vụ học) gồm: Hành động
phân tích; Hành động mô hình hóa; Hành động cụ thể hóa; Hành động kiểm tra, đánh giá.
+ Hành động phân tích: Là hành động tiên quyết trong hoạt động lĩnh hội tri thức của
học sinh. Đó là cách tiếp cận tài liệu học gồm nội dung sách giáo khoa, những thí nghiệm,
thực hành tương ứng. Qua đó học sinh phát hiện được đối tượng cần chiếm lĩnh.
+ Hành động mô hình hóa. Sau khi đã phân tích, hs ghi lại kết quả dưới dạng các ký
hiệu, mô hình. Mô hình hóa là quá trình học sinh xây dựng các mô hình của đối tượng
học. Mô hình cũng có thể xem là như đối tượng đã được nhận dạng và ghi chép lại, hay
sự diễn đạt logic khái niệm một cách trực quan, nhờ đó khái niệm được chuyển từ bên
ngoài vào trí óc học sinh. Qua trình đó diễn ra theo tiến trình sau:
Đối tượng (khái niệm bên ngoài) Mô hình Khái niệm (trong đầu)
+ Hành động cụ thể hóa: Chính là khâu Hành trong học hành, hay khâu Luyện tập
trong học tập.
+ Hành động kiểm tra, đánh giá: sau khi thực hiện xong thì tiến hành kểm tra lại kết
quả xem có đúng với mục đích, yêu cầu ban đầu đã đặt ra hay không. Từ đó điều chỉnh

khác phục kịp thời những sai sót trong quá trình thực hiện để giải quyết nhiệm vụ cụ thê
đặt ra. Hành động kiểm tra, đánh giá đúng có thể là động lực thúc đẩy việc học của học
sinh.
Ngoài ra có thể phân chia thành các hành động như: Hành động định hướng; kiểm tra
đầu vào; thực hiện; kiểm tra đánh giá.( theo N.Ph.Talưdina).
Sơ đồ cấu trúc vĩ mô của hoạt động học (theo các tác giả: A.Ph Tađưina;
A.N.Lêonchiev)
Chủ thể hoạt động học (HS, SV...)
Hoạt động học (gồm 4 hành động)
Các hành động học
1. Hành động định hướng
2. Kiểm tra đầu vào
3.Thực hiện
4. Kiểm tra, đánh giá

Đối tượng hoạt động học (môn học)
Động cơ học (Mục đích khái quát)
Các mục đích học
1. Biết cái cần tìm
2. Tìm cái đã biết
3. Từ cái đã biết - cái cần tìm
4. Kiểm tra cái tìm được

5


Các thao tác

Các phương tiện, điều kiện học
Kết quả


Kết quả phía chủ thể:
Thực hiện được mục đích dạy học

Kết quả phía đối tượng:
- Thay đổi như thế nào?
- Phát hiện những kiến thức chưa
hoàn thiện.

2.1.2. Hình thành hoạt động học của học sinh
Sự hình thành hoạt động học là hình thành đơn vị cấu trúc của nó, trước hết đó là hình
thành động cơ học tập, các mục đích học tập và các hành động học tập.
2.1.2.1. Hình thành động cơ học tập
- Động cơ học của học sinh được hiện thân ở đối tượng của hoạt động học, tức là
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, giá trị chuẩn mực,…mà giáo dục sẽ đưa lại cho
họ.
- Có 2 loại động cơ: động cơ hoàn thiện tri thức (động cơ bên trong) và động cơ quan
hệ xã hội (động cơ bên ngoài).
+ Động cơ bên trong: là do sự hấp dẫn, lôi cuốn của của bản thân tri thức, cũng như
phương pháp giành lấy tri thức đó.. Mỗi lần giành được cái mới ở đối tượng học thì các
em cảm thấy nguyện vọng hoàn thiện tri thức của mình được thỏa mãn một phần. Do đó,
động cơ bên trong còn gọi là “động cơ hoàn thiện tri thức”.
Loại động cơ này thường không xuất hiện những xung đột bên trong. Chủ thể hoạt
động học tập thường không có những căng thẳng tâm lý. Hoạt động học tập được thúc
đẩy bởi động cơ này là tối ưu theo quan điểm sư phạm.
+ Động cơ bên ngoài - thuộc loại động cơ quan hệ xã hội (học để làm, để phục vụ xã
hội, để chung sống): Học sinh say sưa học tập nhưng vì sức hấp dẫn, lôi cuốn của một
“cái khác” ở ngoài mục đích trực tiếp của việc học tập. Những cái đó lại chỉ đạt được
trong điều kiện các em chiễm lĩnh được tri thức khoa học.
Ví dụ: Thưởng và phạt, đe dọa hay yêu cầu, thi đua hay áp lực…

Trong trường hợp này, những mối quan hệ xã hội của cá nhân được thể hiện ở đối
tượng của hoạt động học tập. Do vậy gọi là động cơ quan hệ xã hội.
- Mối quan hệ 2 loại động cơ: Hai loại động cơ này tương ứng với nhau. Cả 2 loại
động cơ này đều được hình thành ở học sinh, chúng làm thành một hệ thống được sắp xếp
6


theo thứ bậc. Trong những điều kiện, hoàn cảnh nào đó thì động cơ nào được được hình
thành mạnh mẽ hơn, nổi lên hàng đầu và chiếm địa vị ưu thế trong thứ bậc của hệ thống
các động cơ.
+ Làm thế nào để động cơ hóa hoạt động học tập?
Động cơ học tập không có sẵn cũng không thể áp đặt, mà được hình thành dần dần
trong quá trình học tập dưới sự tổ chức, điều khiển của người thầy. Các nghiên cứu cho
thấy nêu strong quá trình học thầy luôn thành công trong việc tổ chức cho người học tự
phát hiện ra những điều mới lạ (cả nội dung lẫn phương pháp giành tri thức), giải quyết
thành công nhữngnhiệm vụ học tập, gây được những ấn tượng tốt đối với việc học, thì
người học sẽ ngày càng ý thức được ý nghĩa của việc học, học tập dần trở thành nhu cầu ở
người học, và động cơ hoàn thiên tri thức được hình thành.
Sự hình thành và phát triển của động cơ hoàn thiện tri thức cũng có thể đạt những
trình độ khác nhau tùy thuộc vào nội dung và phương pháp học. Nếu dạy học dựa trên nội
dung và những nguyên tắc khái quát hóa hình thức (khái quát hóa những dấu hiệu chung
bề ngoài) thì sẽ dẫn đến những tri thức kinh nghiệm chủ nghĩa, động cơ hoàn thiện tri
thức hình thành ở mức độ thấp, người học dễ mất hứng thú học tập. Nếu dạy học dựa trên
nội dung và những nguyên tắc khái quát hóa nội dung (khái quát hóa những thuộc tính
bản chất quy định sự tồn tại và phát triển của đối tượng) thì sẽ hình thành ở người học
những tri thức lý luận, động cơ hoàn thiện tri thức hình thành ở mức độ cao.
2.1.2.2. Hình thành các mục đích học tập
- Mục đích được hình thành dần dần trong quá trình diễn ra hành động. Mục đích chỉ
thực sự có khi chủ thể bắt tay vào hành động (khác với con vật). Thực ra ban đầu chưa
phải là mục đích, nó mới chỉ là biểu tượng đầu tiên về mục đích đó, do trí tưởng tượng tạo

ra để định hướng cho hành động.
- Thông qua từng hành động học tập, học sinh chiếm lĩnh từng mục đích bộ phận,
riêng rẽ và dần dần chiếm lĩnh toàn bộ đối tượng. Vậy, mỗi khái niệm của môn học thể
hiện trong từng tiết, từng bài là mục đích của hành động học tập.
- Mục đích chỉ được hình thành khi chủ thể bắt tay vào hành động học tập. Lúc đó chủ
thể thâm nhập vào đối tượng, nội dung của mục đích ngày càng được hiện hình, lại càng
định hướng cho hành động và nhờ đó chủ thể chiếm lĩnh được tri thức mới, năng lực mới.
2.1.2.3. Hình thành các hành động học tập
Quá trình tạo ra sự phát triển tâm lý của chủ thể học tập chỉ có thể được thông qua các
hành động học tập. Để làm sáng tỏ sự hình thành hành động học tập cần làm rõ các nội
dung sau:
- Hình thức tồn tại khái niệm
+ Hình thức vật chất: Ở đây khái niệm được khách quan hóa hay trú ngụ trên các vật
chất hay vật thay thế.
7


Ví dụ: Khái niệm viên phấn làm bằng thạch cao.
+ Hình thức “mã hóa”: trong trường hợp này logic của khái niệm chuyển vào trú ngụ ở
một vật liệu khác (kí hiệu, mô hình, sơ đồ, lời nói…).
Ví dụ: “Viên phấn”…
+ Hình thức tinh thần: Cư ngụ trong tâm lý cá thể.
- Hình thức hành động học tập: có 3 hình thức (ứng với 3 hình thức tồn tại của khái
niệm).
+ Hình thức hành động vật chất trên vật thật.(hay vật thay thế): chủ thể dùng những
thao tác chân tay để tháo lắp, chuyển dời, sắp xếp… vật thật. Chính trong q.trình này làm
cho logic k.niệm vốn trú ngụ trên vật thật được bộc lộ ra ngoài.(loại này cần cho trẻ nhỏ).
+ Hình thức hành động với lời nói và các hình thức “mã hóa” khác. Mục đích của hình
thức này là dùng lời nói cũng như các hình thức mã hóa khác để chuyển logic của khái
niệm đã phát hiện ở hành động vật chất vào trong tâm lý chủ thể hành động.

+ Hình thức hành động tinh thần. Đến đây logic của khái niệm được chuyển hẳn vào
trong (tâm lý).
Vậy thông qua 3 hình thức trên của hành động học tập, cái vật chất đã chuyển thành
cái tinh thần, cái bên ngoài thành cái bên trong tâm lý con người.
- Các hành động học tập: hành động phân tích; hành động mô hình hóa; hành động cụ
thể hóa.
+ Hành động phân tích: Nhằm phát hiện ra nguồn gốc xuất phát của khái niệm cũng
như cấu tạo logic của nó. Là phương tiện quan trọng nhất để đi sâu vào đối tượng. Phân
tích cũng diễn ra ở 3 hình thức của hành động: phân tích vật chất; phân tích dựa trên lời
nói; phân tích tích tinh thần.
+ Hành động mô hình hóa: giúp diễn đạt logic một cách trực quan. Có thể xem mô
hình như cái “cầu nối” giữa cái vật chất và tinh thần.
Trong dạy học thường dung 3 loại mô hình sau:
* Mô hình gần giống vật thật.
* Mô hình tượng trưng.
Ví dụ: Dùng sơ đồ đoạn thẳng để mô tả quan hệ toán hoc.
* Mô hình “mã hóa” hoàn toàn. Đó là những công thức hay kí hiệu.
Ví dụ: F = ma: xác định gia tốc của một vật có khối lượng đã cho dưới tác dụng của
một lực, do định luật 2 Newton.

8


+ Hành động cụ thể hóa: giúp học sinh vận dụng phương thức hành động chung vào
việc giải quyết những vấn đề cụ thể trong cùng một lĩnh vực.
Trong dạy học, 3 hành động nêu trên được hình thành và phát triển chính trong quá
trình hình thành khái niệm. Ban đầu nó chính là đối tượng lĩnh hội, sau khi hình thành nó
trở thành công cụ, phương tiện học tập và góp phần quyết định chất lượng học tập.
2.2. Ý nghĩa của hoạt động học với bản thân và việc tổ chức hoạt động học cho học
sinh

2.2.1. Ý nghĩa của hoạt động học với bản thân
Hiện giờ tôi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, chính vì vậy hoạt động học tập
với bản thân tôi vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống. Tuy nhiên hoạt động này đã
mang tính chất và sắc thái khác với việc học tập ở trường phổ thông từ nội dung, phương
thức tổ chức tơi động cơ học tập. Chính vì vậy muốn học tập tốt tôi cần hình thành cho
mình động cơ, mục đích học tập, tích cực nâng cao tính tự giác và có phương pháp học
tập khoa học, hiệu quả.
Hoạt động học tập trong các trường cao đẳng, đại học không mang tính chất phổ
thông mà mang tính chất chuyên ngành với phạm vi hẹp và sâu hơn nhằm đào tạo những
chuyên gia cho đất nước. Vì vậy cách dạy ở đây khác với cách dạy ở phổ thông. Học ở
đại học là tự học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Việc tổ chức cũng mang tính chất “
mở” hơn rất nhiều so với ở phổ thông về thời gian cũng như các môn học. Để học tập có
kết quả, sinh viên nhưu tôi phải thích ứng được với phương pháp mới, khác về chất so với
bậc học phổ thông. Sự thành công chỉ đến với mỗi sinh viên trong đó có tôi nếu vẫn tiếp
tục coi hoạt động học tập là hoạt động quan trọng nhất trong quãng đời sinh viên của
mình.
Ý nghĩa của hoạt động học với bản thân tôi không nằm ngoài mục đích hướng đến
sự phát triển toàn diện nhân cách, năng lực nhận thức và tư duy sáng tạo. Xa hơn nữa là
với nền tảng kiến thức tâm lý, xã hội được thầy cô truyền thụ trên ghế nhà trường mà tôi
lĩnh hội được cùng những kiến thức tự học hỏi được tôi hy vọng có thể tìm kiếm được
công việc theo đúng chuyên môn được đào tạo và năng lực thực tế của mình.
Muốn phát huy được ý nghĩa của hoạt động học một cách trọn vẹn tôi cần hình thành
cho mình đông cơ học tập tích cực muốn vậy tôi cần nhận thức được: Ý nghĩa về mục
đích gần và mục đích xa của hoạt động học tập; Nắm vững ý nghĩa lý luận và thực tiễn
của những tri thức được lĩnh hội ; Nội dung mới của tài liệu và thông tin khoa học được
trình bày; Tính chất hấp dẫn, xúc cảm của những thông tin; Tính chất nghề nghiệp được
thể hiện rõ trong tài liệu được trình bày; Nhận diện những hoàn cảnh có vấn đề, những
mâu thuẫn trong bài học… Theo đó bên cạnh thái độ học tập nghiêm túc trên lớp (tập
trung chú ý nghe giảng, phát biểu ý kiến xây dựng bài học…) tôi cần phát huy tinh thần tự
giác trong việc tự đọc, tìm hiểu tài liệu ở nhà và học tập nhóm tích cực.

2.2.2. Ý nghĩa việc tổ chức hoạt động học cho học sinh
9


a) Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh:
Khi bàn về phương pháp giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trò hoạt động
của học sinh. Ông nói: “Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục không
thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài tính hoạt động đó”
Như vậy có thể nói sự hoạt động của trẻ trong quá trình giáo dục là yếu tố không
thể thiếu được và để kéo dài hoạt động đó thì việc tích cực hoá được coi là một trong
những biện pháp hữu hiệu nhất. Việc tổ chức hoạt động học học cho học sinh ý nghĩa của
nó không nằm ngoài mục đích hình thành ý thức tích cực học tập, tính tự giác cho người
học trong lĩnh hội, khám phá tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới. Muốn thực hiện được mục tiêu
đó thì tổ chức dạy học tích cực hóa cần được khoán triệt sâu rộng trong toàn hệ thống
giáo dục.
Tích cực hoá là một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ
động sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để
nâng cao hiệu quả học tập.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một trong những nhiệm vụ của
thầy giáo trong nhà trường và cũng là một trong những biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học. Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng đổi mới dạy học hiện nay
thì việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một vấn đề được đặc biệt quan
tâm. Nhiều nhà giáo dục học trên thế giới đang hướng tới việc tìm kiếm con đường tối ưu
nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nhiều công trình đã và đang đề cập
đến lĩnh vực này. Tất cả đều hướng tới việc thay đổi vai trò người dạy và người học nhằm
nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học nhằm đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai
đoạn phát triển mới. Trong đó học sinh chuyển từ vai trò là người thu nhận thông tin sang
vai trò chủ động, tích cực tham gia tìm kiếm kiến thức. Còn thầy giáo chuyển từ người
truyền thông tin sang vai trò người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự mình khám
phá kiến thức mới.

Quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh sẽ góp phần làm cho mối
quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. Tích cực hoá
vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó góp phần rèn luyện cho học
sinh những phẩm chất của người lao động mới: Tự chủ, năng động, sáng tạo. Đó là một
trong những mục tiêu mà nhà trường phải hướng tới.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp phát hiện những quan
niệm sai lệch của học sinh qua đó thầy giáo có biện pháp để khắc phục những quan niệm
đó. Vì thế việc khắc phục những quan niệm của học sinh có vai trò quan trọng trong nhà
trường nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
b) Các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh:
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh có liên quan đến nhiều vấn đề,
trong đó các yếu tố như động cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí của cá nhân, không khí
dạy học… đóng vai trò rất quan trọng. Các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau và có ảnh
hưởng tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong học tập. Trong đó có
10


nhiều yếu tố là kết quả của một quá trình hình thành lâu dài và thường xuyên, không phải
là kết quả của một giờ học mà là kết quả của cả một giai đoạn, là kết quả của sự phối hợp
nhiều người, nhiều lĩnh vực và cả xã hội.
Để có thể tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
chúng ta cần phải chú ý đến một số biện pháp chẳng hạn như: Tạo ra và duy trì không khí
dạy học trong lớp; xây dựng động cơ hứng thú học tập cho học sinh; giải phóng sự lo sợ
học sinh… Bởi chúng ta không thể tích cực hoá trong khi học sinh vẫn mang tâm lý lo sợ,
khi các em không có động cơ và hứng thú học tập và đặt biệt là thiếu không khí dạy học.
Do đó với vai trò cuả mình, thầy giáo phải là người góp phần quan trọng trong việc taọ ra
những điều kiện tốt nhất để cho học sinh học tập, rèn luyện và phát triển. Sau đây chúng
ta đi vào một số biện pháp cụ thể:
- Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra môi trường thuận lợi
cho việc học tập và phát triển của trẻ.

Trong môi trường đó học sinh dễ dàng bộc lộ những hiểu biết của mình và sẵn
sàng tham gia tích cực vào quá trình dạy học, vì khi đó tâm lý các em rất thoải mái.
- Khởi động tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh.
Trước mỗi tiết học tư duy của học sinh ở trạng thái nghỉ ngơi. Vì vậy, Trước hết
thầy giáo phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh ngay từ khâu đề xuất vấn đề
học tập nhằm vạch ra trước mắt học sinh lý do của việc học và giúp các em xác định được
nhiệm vụ học tập. Đây là bước khởi động tư duy nhằm đưa học sinh vào trạng thái sẵn
sàng học tập, lôi kéo học sinh vào khong khí dạy học. Khởi động tư duy chỉ là bước mở
đầu, điều quan trọng hơn là lphải tạo ra và duy trì không khí dạy học trong suốt giờ học.
Học sinh càng hứng thú học tập bao nhiêu, thì việc thu nhận kiến thức của các em càng
chủ động tích cức bấy nhiêu. Muốn vậy cần phải chú ý đến việc tạo các tình huống có vấn
đề nhằm gây sự xung đột tâm lý của học sinh. Điêu này rất cần thiết và cũng rất khó khăn,
nó đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực và năng lực sư phạm của thầy giáo. Ngoài ra cũng cần chú ý
tới lôgic của bài giảng. Một bài giảng gồm các mắt xích nối với nhau chặt chẽ, phần trước
là tiền đề cho việc nghiên cứu phần sau, phần sau bổ xung làm rõ phần trước. Có như vậy
thì nhịp độ hoạt động, hứng thú học tập và quá trình nhận thức của học sinh mới tiến triển
theo một mạch liên tục không bị ngắt quãng.
Khai thác và phối hợp các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, đặc biệt
chú trọng tới các phương pháp dạy học tích cực. Việc tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức và điều khiển quá trình dạy học của
thầy giáo. Bỡi vậy, trong tiến trình dạy học, thầy giáo cần phải lựa chọn và sử dụng các
phương pháp dạy học hiệu quả, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực như:
Phương pháp nêu vấn đề; Phương pháp phát triển hệ thống câu hỏi; Phương pháp thực
nghiệm… Có như vậy mới khuyến khích tính tích cực sáng tạo của học sinh trong học
tập.
Tổ chức cho học sinh hoạt động: Thầy giáo và học sinh là những chủ thể của quá
trình dạy học, vì thế tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh phải do chính những
chủ đề này quyết định. Trong việc xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ thể có ý
nghĩa rất quan trọng, nó giúp cho chủ thể định hướng hoạt động của mình. Trong giờ học
11



thầy giáo không được làm thay học sinh, mà phải đóng vai trò là người tổ chức quá trình
học tập của học sinh, hướng dẫn học sinh đi tìm kiếm kiến thức mới. Còn học sinh phải
chuyển từ vai trò thụ động sang chủ động tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình học
tập tánh tình trạng ngồi chờ và ghi chép một cách máy móc. Muốn vậy, cần phải tăng
cường hơn nữa việc tổ chức cho học sinh thảo luận và làm việc theo nhóm.

III. KẾT LUẬN
Họat động học là hoạt động đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự
giác và lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những
dạng hoạt động nhất định, những giá trị. Học tập có hai phương thức là học một cách
ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và học theo phương thức chuyên biệt - phương
thức nhà trường. Tuy nhiên, có thể thấy việc lĩnh hội một hệ thống khái niệm khoa học và
những cấu trúc hoạt động tâm lý tương ứng, sự phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách
người học không thể chỉ dựa vào một mình kiểu học ngẫu nhiên. Cần có một hoạt động
đặc biệt mà mục đích cơ bản, trực tiếp của nó là bản thân sự học – hoạt động học.
Hoạt đông học ấy chỉ có thể phát huy hiệu quả trong môi trường giáo dục sư phạm với
phương thức nhà trường. Việc tổ hình thành hoạt động học cho học sinh là nhiệm vụ quan
trọng nhất của mỗi người giáo viên đứng lớp và những cán bộ quản lý trường học song
chủ yếu là người giáo viên chuyên trách. Sự hình thành hoạt động học là hình thành đơn
vị cấu trúc của nó, trước hết đó là hình thành động cơ học tập, các mục đích học tập và
các hành động học tập.
Với chủ trương lấy người học là trung tâm việc hình thành hoạt động học tập cho học
sinh có nhiều sự khác biệt với phương pháp dạy học truyền thống người thầy trung tâm,
học sinh hết sức thụ động trong lĩnh hội tri thức với kiểu “thầy đọc trò chép”. Theo đó
việc tổ chức hoạt động học học cho học sinh ý nghĩa của nó không nằm ngoài mục đích
hình thành ý thức tích cực học tập, tính tự giác cho người học trong lĩnh hội, khám phá tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo mới. Muốn thực hiện được mục tiêu đó thì tổ chức dạy học tích cực
hóa cần được khoán triệt sâu rộng trong toàn hệ thống giáo dục.

Qua đề tài này tôi nhận thấy ý nghĩa của hoạt động học với bản thân tôi không nằm
ngoài mục đích hướng đến sự phát triển toàn diện nhân cách, năng lực nhận thức và tư
duy sáng tạo. Xa hơn nữa là với nền tảng kiến thức tâm lý, xã hội được thầy cô truyền thụ
trên ghế nhà trường mà tôi lĩnh hội được cùng những kiến thức tự học hỏi được tôi hy
vọng có thể tìm kiếm được công việc theo đúng chuyên môn được đào tạo và năng lực
thực tế của mình.

12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Văn Hồng (chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng, Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sư phạm, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
[2] GS.TS Bùi Văn Huệ, Giáo trình tâm lý học tiểu học, NXB Giáo dục, 2005.
[3] GS.TS Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên), TS. Nguyễn Văn Lũy, TS. Đinh Văn
Vang, Giáo trình tâm lý học đại cương, NXB Đại học sư phạm, 2005.
[4] ThS. Lê Thị Phi (biên soạn), Đề cương bài giảng tâm lý học sư phạm, Đại học sư
phạm - ĐHĐN, 2008.

13



×