Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.46 KB, 9 trang )

Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước
Theo quy định tại Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: “Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân…” [25, tr.13]. Với khẳng định trên, ở nước ta, quyền lực nhà nước là
quyền lực của nhân dân. “Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các
cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ
quan quyền lực cao nhất của nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương”[25, tr.15].
Như vậy, trong bộ máy nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương đó. HĐND có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Trong lịch sử phát triển của mình, HĐND đã làm được nhiều việc ích nước
lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững
chắc để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh.
Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn, chúng ta chưa quan tâm đúng mức
đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động của
HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động của HĐND các
cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy,
có ý kiến cho rằng cần bỏ HĐND, hay nói cách khác, sự tồn tại của HĐND là
không cần thiết, bởi hoạt động của nó rất hình thức, làm cho bộ máy nhà nước
thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm vì nó trái với bản chất
của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; theo đó phải có
cơ quan đại diện của nhân dân ở trung ương cũng như ở địa phương, cơ sở để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải củng
cố, kiện toàn HĐND để HĐND hoạt động thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực,


hiệu quả tương xứng với vị trí, vai trò của HĐND như Hiến pháp năm 1992 đã
khẳng định.


Vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nước ta được khẳng định dựa
trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây:
- Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND các cấp đã khẳng định
được vị trí, vai trò, và trách nhiệm của mình. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương, đại diện cho nhân dân địa phương, HĐND có khả năng đoàn
kết, tập hợp, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được mọi
nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phương góp phần vào thắng lợi chung
của sự nghiệp cách mạng.
- Sự hiện diện của HĐND các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to
lớn trong việc hình thành nhà nước kiểu mới ở nước ta, thể hiện được tính giai cấp
sâu sắc, tính giai cấp thực sự của nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân
về một chính quyền của dân, do dân, vì dân.
- HĐND các cấp đã trở thành trường học về quyền làm chủ của nhân dân.
Những người có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông qua họ,
HĐND trở thành diễn đàn để người dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà
nước và xã hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời cho đến
nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
- HĐND là cầu nối giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; vừa
bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi
toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy được nội lực từng địa phương, cơ sở. Thông qua
Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhân dân
thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả nước và trước hết làm chủ ở ngay
địa phương, cơ sở.


Trên những cơ sở thực tiễn và lý luận đó, Điều 119 Hiến pháp năm 1992 và
Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: “HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa

phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [25, tr.67].
Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo để
HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và
toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại của địa phương trong khuôn khổ
quy định của Hiến pháp và Pháp luật. Điều 120 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi
nhận:
Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp
trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm
chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện
pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm
vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước [25, tr.120].
Như vậy, Hiến Pháp và pháp luật hiện hành quy định chung về vị trí, vai trò
của HĐND các cấp.Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức
HĐND và UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh
trên các mặt sau đây:
Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương.
Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc
bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể.
Mọi quyết định của HĐND được thông qua bằng việc biểu quyết theo nguyên tắc
đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình
thức được thể hiện rõ nét nhất ở việc cơ cấu đại biểu trong Hội đồng. Mỗi địa


phương căn cứ vào số lượng dân cư, có một số lượng đại biểu nhất định đại diện
cho nữ giới, người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng
vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước và các khu vực dân cư. Điều này có
nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn
thể nhân dân. Thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết của toàn dân

sống trên địa bàn địa phương. Tính chất đại diện của HĐND khác với tính chất đại
diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 xác định: Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nước
(Điều 97). Còn HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình,
đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp
trên.
Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ cấu
đại biểu, hình thức hoạt động…mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn hiệu quả
hoạt động trong thực tế mới là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại diện của
HĐND. Song hiệu quả hoạt động thực tế hiện nay của HĐND chưa thực sự đáp
ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, mà mới chỉ phản ánh được phần nào bản
chất dân chủ của chế độ nhà nước ta.
Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thể hiện ở các
mặt sau đây:
+ Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân.
+ Có quyền căn cứ vào pháp luật bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh
của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm
nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm
đối với các chức danh do HĐND bầu ra.


+ Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra nghị quyết để triển khai
các mặt công tác ở địa phương.
+ Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương đồng
thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn,
kiểm tra của Chính phủ.
Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương
diện, nhưng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội được
Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước về phạm vi, cấp độ

cũng như thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. Ở nước ta,
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND cũng là cơ quan
quyền lực nhà nước nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết - là loại văn bản
dưới luật, phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp
trên.
Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế
HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở
địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất
cũng là quyền lực của nhân dân. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực hiện
được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và
hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và HĐND nói riêng.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Ban Tổ chức - cán bộ Chính phủ (1995), Tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp. Phương thức hoạt động của
người đại biểu Hội đồng nhân dân, Nxb Xí nghiệp văn hoá phẩm, Hà
Nội.

2.

Bộ Nội vụ (2005), Tài liệu bồi dưỡng Trưởng phó ban chuyên trách và uỷ
viên thường trực Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội.


3.

Bộ Tư Pháp (2001), Chuyên đề về sửa đổi bổ sung một số điều Hiến pháp
1992, Hà Nội.


4.

A.G.Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5.

Cục Thống kê Hà Tĩnh (2006), Niên giám thống kê 2005, Hà Tĩnh.

6.

Mai Thị Chung (2001) Nâng cao hiệu quả hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân
dân, trong sách 55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia.

7.

Nguyễn Đăng Dung (1998), Hội đồng nhân dân trong hệ thống cơ quan
quyền lực nhà nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

8.

Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XV.

9.

Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà
Tĩnh lần thứ XVI.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội IX, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
13. Vũ Đức Đán (2005), "Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại
biểu Hội đồng nhân dân", Tạp chí Quản lý nhà nước, (2)
14. Nguyễn Văn Động (2003), "Suy nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước ta hiện nay", Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, (3).
15. Bùi Xuân Đức (2003), "Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều
kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay", Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, (12).


16. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, PTS Nguyễn Hữu Đức (đồng chủ biên), (1998),
Cải cách hành chính địa phương lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (1999), Kỷ yếu kỳ họp thứ 1 của Hội đồng
nhân dân tỉnh khóa 14.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2004), Kỷ yếu kỳ họp thứ 11 của Hội đồng
nhân dân tỉnh khóa 14.
20. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2004), Kỷ yếu kỳ họp thứ 1 của Hội đồng
nhân dân tỉnh khóa 15.
21. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Kỷ yếu kỳ họp thứ 3,4,5,6 của Hội
đồng nhân dân tỉnh khóa 15.
22. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Kỷ yếu kỳ họp thứ 7,8 của Hội đồng
nhân dân tỉnh khóa 15.

23. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2006), Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân các cấp từ đầu niệm kỳ đến nay.
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2007), Kỷ yếu kỳ họp thứ 10 của Hội đồng
nhân dân tỉnh khóa 15.
25. Hiến pháp Việt Nam 1992, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Thị Hồi (2004), "Về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ở nước
ta hiện nay", Tạp chí Luật học, (1).
27. Leni Montiel (2001), Bài phát biểu tại Hội thảo nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, kỷ yếu nâng cao năng lực và hiệu
quả giám sát của Hội đồng nhân dân, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
28. Lịch sử Đảng bộ Hà Tĩnh (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Lịch sử Hà Tĩnh (2000), Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


30. Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
31. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân năm 2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. C.Mác (1962), Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, Hà Nội
34. Nguyễn Văn Mạnh (1999), "Thực trạng và giải pháp đổi mới tổ chức hoạt
động của chính quyền cơ sở trong cải cách hành chính", Tạp chí Nghiên
cứu lý luận, (6).
35. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
36. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
37. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004.
38. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Văn Mạnh (2001), 55 năm xây dựng nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.

39. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị III BCH TW Đảng khoá VIII, (1997),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Từ điển Bách khoa luật (1987), Mátxcơva.
41. Từ điển Học sinh (1971), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Từ điển Lepetitlasousse (1999), Paris.
43. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44.

Trịnh Đức Thảo (2001), Bàn về những tiêu chí và biện pháp đánh giá chất
lượng hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, trong sách 55 năm xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

45. Tỉnh uỷ Hà Tĩnh (2003), Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 01/10 của Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh về tăng cường lãnh đạo xây dựng đội ngũ
cán bộ trong những năm tới.


46. Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (2005), Quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế xã hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020.
48. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2005), Kỷ yếu Hội nghị Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn
quốc, Hà Nội.
49. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2006), Kỷ yếu Hội nghị Thường trực Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương các khu vực trên toàn
quốc, Hà Nội.
50. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Bách khoa toàn thư, Từ điển tiếng Việt (2005),
Nxb Đà Nẵng.
51. Vụ Công tác đại biểu (2005), Những điểm mới trong quy chế hoạt động của

Hội đồng nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Bùi Thế Vĩnh (2000), Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu Hội
đồng nhân dân, trong chương trình tập huấn đại biểu Hội đồng nhân dân
các cấp, nhiệm kỳ 1999-2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.



×