Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm, cho ví dụ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.99 KB, 5 trang )

Câu 18: Phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm, cho ví dụ.
Bài làm
Trong nhiều trường hợp trên thực tế, ranh giới giữa vi phạm hành chính với tội
phạm hình sự rất khó xác định. Vì vậy, nếu không giải quyết đúng đắn vấn đề này
rất rễ xảy ra tình trạng để lọt tội phạm hoặc xử lí oan người vi phạm chưa đến mức
phạm tội. Vì vậy việc phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm là rất quan trong
thực tế áp dụng pháp luật. Dưới đây là một số tiêu trí để phân biệt vi phạm hành
chính với tội phạm.
Về mặt khái niệm, hiện nay pháp luật chưa có định nghĩa về vi phạm hành
chính, nhưng tại khoản 2 Điều 1 pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính sửa đổi năm
2008 thì vi phạm hành chính được định nghĩa một cách gián tiếp như sau: Xử phạt
vi phạm hành chính được áp dụng đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành vi
cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lí nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
Khái niệm tội phạm được định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 bộ luật hình sự sửa đổi
bổ sung năm 2009.
Tiêu trí để phân biệt vi phạm hành chính với tội phạm được biểu hiện ở một số
tiêu trí sau:
Thứ nhất là tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội: Dấu hiệu căn bản để phân
biệt vi phạm hành chính với tội phạm hình sự là mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm. Về đại thể, vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn
so với tội phạm hình sự. Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm được
đánh giá ở nhiều yếu tố khác nhau và những yếu tố này thường được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Căn cứ vào các
quy định hiện hành, việc đánh giá mức độ nguy hiểm của tội phạm và vi phạm
hành chính thường dựa vào những căn cứ sau đây:
-

Mức độ thiệt hại cho xã hội: Mức độ thiệt hại có thể biểu hiện dưới nhiều

hình


thức khác nhau như mức độ gây thương tật, giá trị tài sản bị xâm hại, giá trị hàng
hóa phạm pháp. Ví dụ: theo Khoản 1 Điều 137 Bộ luật hình sự quy định: người


nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác mà giá trị tài sản từ hai triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng…thì bị …. Vì
thế nếu giá trị tài sản mà dưới mức quy định nêu trên thì người vi phạm bị xử phạt
hành chính theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 18 nghị định của chính phủ số
73/2010ND-CP ngày 12/7/ 2005 về hành vi gây thiệt hại cho người khác. Ngoài ra
mức độ gây thiệt hại trong hành vi vi phạm hành chính không dựa vào giá trị tài
sản, giá trị hàng hóa phạm pháp hay tỷ lệ thương thật. Ví dụ nếu giá trị tài sản mà
người phạm tội công nhiên chiếm đoạt của người khác mà từ năm mươi triệu đồng
đến dưới hai trăm triệu đồng thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 2
Điều 137 BLHS. Còn trong vi phạm hành chính thì chỉ cần giá trị tài sản dưới mức
quy định của BLHS là bị xử phạt hành chính theo điểm b khoản 1 điều 18 nghị
định của chính phủ số 73/2010ND-CP ngày 12/7/ 2005
-

Mức độ tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần: trên thực tế có nhiều hành vi để

xác
định có phải là tội phạm hay là vi phạm hành chính thì phải dựa vào dấu hiệu là đã
tái phạm hay vi phạm nhiều lần chưa. trong bộ luật hình sự, nhiều loại tội phạm
được nhà làm luật mô tả là “ đã bị xử phạt hành chính” ví dụ như khoản 1 điều
192 quy định tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma
túy thì một trong những dấu hiệu để bị coi là phạm tội là đã bị xử phạt hành chính
về hành vi này.Còn nếu chưa bị xử phạt hành chính thì chưa bị coi là tội phạm.
-

Công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi vi phạm: trong luật hình


sự
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm có thể được tăng lên đáng kể nếu sử
dụng công cụ, phương tiện, thủ đoạn trong hành vi thực hiện tội phạm của mình.
Ví dụ như khoản 2 điều 138 bộ luật hình sự thì một trong những tình tiết tăng
nặng là dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Còn trong vi phạm hành chính chỉ
cần có hành vi vi phạm là có thể bị xử lí vi phạm hành chính không cần phải đề
cập đến công cụ, phương tiện, thủ đoạn thực hiện hành vi, tức là chỉ cần có hành vi
trộm cắp tài sản của người khác mà giá trị của tài sản dưới mức quy định của luật
hình sự thì đã bị xử phạt hành chính về hành vi “ trộm gây thiệt hại cho người


khác” theo quy định tại điểm a khoản1 điều 18 nghị định của chính phủ số
73/2010/ND-CP ngày 12/7/ 2005.
Ngoài ra mức độ nguy hiểm của hành vi trong vi phạm hành chính thì không
chia rõ ràng như trong tội phạm. Theo như bộ luật hình sự thì mức độ nguy hiểm
của tội phạm được chia thành tội phạm được chia thành bốn mức độ đó là tội đặc
biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng. Còn
trong vi phạm hành chính thì chỉ có tội do vô ý và tội do cố ý.
Thứ hai là tính chất pháp lý: Tội phạm là loại vi phạm được quy định trong Bộ
luật hình sự và chỉ có Quốc hội mới có quyền quyết định về tội phạm và hình phạt.
Còn vi phạm hành chính được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như luật, pháp lệnh hoặc nghị định.
Thứ ba là yếu tố chủ thể: Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân
hoặc tổ chức. Tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm: các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế, các đơn vị thuộc lực lượng vũ
trang nhân dân và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp
luật. Còn chủ thể của tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự nước ta chỉ có
thể là cá nhân. Trong vi phạm hành chính thì vi vi hành chính của tổ chức chính là
vi phạm hành chính của cá nhân trong tổ chức khi thực hiện công việc cho tổ chức

đó, còn trong vi phạm luật hình sự thì cá nhân trong tổ chức vi phạm thì cá nhân
đó phải chịu trách nhiệm hình sự chứ không phải là tổ chức đó. Ví dụ: công ty A
có tư cách pháp nhân theo quy định của pháp luật mà nhập khẩu các thiết bị máy
móc mà đủ các yếu tố cấu thành tội theo Điều 185 Bộ luật hình sự thì người bị truy
cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này là người có trách nhiệm chứ không
phải là cả công ty đó. Còn nếu công ty này chưa thuộc vào trường hợp bị truy cứu
trách nhiệm hình sự mà việc nhập khẩu này là vì lợi ích của công ty thì công ty đó
phải chịu trách nhiệm về hành vi đó theo quy định tại Điều 20 của Nghị định
117/2009/NĐ-CP. Ngoài ra trong vi phạm hành chính thì năng lực trách nhiệm
hành chính của cá nhân là từ đủ 14 tuổi trở lên thì bị xử phạt nếu là lỗi cố ý. Đối
với tội phạm Điều 12 Bộ luật hình sự quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì
người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm


hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Ví dụ như nếu A 15 tuổi phạm vào tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều
138 đây là tội ít nghiêm trọng vì vậy theo quy định của luật hình sự A sẽ không
phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình. Còn nếu trong trường hợp trên
A trộm cắp tài sản nhưng giá trị tài sản dưới hai triệu đồng nhưng chưa bị xử phạt
hành chính hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản thì A sẽ vẫn bị chịu trách
nhiệm hành chính.
Thứ tư là chế tài áp dụng: đối với vi phạm hành chính chế tài áp dụng là biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với tội phạm chế tài áp dụng là hình
phạt.
Thứ năm là hình thức lỗi: Nếu đối với vi phạm hành chính chỉ áp dụng hai hình
thức lỗi là lỗi cố ý và lỗi vô ý thì tội phạm hình sự áp dụng bốn hình thức lỗi đó là
lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
Thứ sáu là mặt khách thể : nhiều khách thể mà vi phạm hành chính không có
còn tội phạm hình sự thì lại có ví dụ: các khách thể về sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của trẻ em như tội hiếp dâm trẻ em…



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

GIÁO TRÌNH LUẬT HÀNH CHÍNH – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ

NỘI
2.

GIÁO TRÌNH LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM – TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

HÀ NỘI
3.

BỘ LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2005

4.

NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 73/2010/ND-CP ngày 12/7/ 2010.

5.

PHÁP LỆNH XỬ LÍ VI PHẠM HÀNH CHÍNH SỬA ĐỔI NĂM 2008.

6.

NGHỊ ĐỊNH 117/2009/ND-CP.




×