Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.89 KB, 13 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT
1. Định nghĩa lạm phát:
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của
nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay giảm sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền
tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên
thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi nền kinh tế của một quốc
gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát của một loại tiền tệ trong
phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai thành phần này vẫn là một
chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là giảm
phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự
ổn định giá cả.
2. Đo lường
Lạm phát: được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp
chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ
hợp với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một
tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại
đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát
thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại
so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như
là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ
số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng
như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ
biến của chỉ số lạm phát bao gồm:

Chỉ số giá sinh hoạt (CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của
một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định
một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một


CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự
thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức


mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác
trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi
"người tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công
nghiệp, những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm
phát thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong
việc chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh
định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao
động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định
sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với
lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất
là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự
chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong
CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh
hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù
thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải
tính đến là các dịch vụ.


Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn
(thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống
với PPI.



Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách
có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là
vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.


Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội:
Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của
năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP
thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được
sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP
như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng



khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính
sách kiềm chế lạm phát của mình.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách
tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins")
ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban
này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng
chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".


 Thiểu phát: trong kinh tế học là lạm phát ở tỷ lệ rất thấp. Đây là một vấn

nạn trong quản lý kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam, nhiều người thường nhầm lẫn thiểu phát
với giảm phát.
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở

xuống thì được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở
mức 3-4 phần trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những
nước mà cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như
Đức và Nhật Bản, thì tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn
trung bình, chứ chưa phải thấp đến mức được coi là thiểu phát. Ở Việt Nam thời kỳ
2002-2003, tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần trăm một năm, nhưng nhiều nhà kinh tế học
Việt Nam cho rằng đây là thiểu phát.
Có những đặc trưng không phải con số tỷ lệ giúp xác định thiểu phát, đó là:
(1) Ngân hàng thương mại gặp khó khăn khi cho vay, đồng thời họ lại đặt ra
lãi suất huy động tiết kiệm thấp- một tình trạng được coi là thị trường tiền tệ trì trệ. Tỷ
lệ lạm phát thấp khiến cho lãi suất thực tế trở nên cao, khiến các nhà đầu tư dè dặt đi
vay ngân hàng. Ngân hàng ứ đọng tiền, nên giảm huy động tiết kiệm bằng cách hạ lãi
suất huy động tiết kiệm.


(2) Sản xuất trở nên thiếu sôi động. Lạm phát thấp khiến cho tiền công thực
tế cao hơn. Người lao động vì thế có thể giảm cung lao động và tăng thơi gian nghỉ
ngơi (xem thêm lý luận về đường cung lao động uốn ngược). Mặt khác, giá cả sản
phẩm thấp làm giảm động lực sản xuất.
Thiểu phát đôi khi được coi là tình trạng trước giảm phát (một tình trạng trái
ngược với lạm phát nhưng vẫn nguy hiểm đối với nền kinh tế).



 Lạm phát thấp
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến 7.0 phần trăm một năm.
 Lạm phát cao (Lạm phát phi mã)
Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá hai chữ số một năm, nhưng vẫn thấp
hơn siêu lạm phát.
 Siêu lạm phát


Siêu lạm phát là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh
chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được
chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa đơn giản là chỉ số lạm phát hàng tháng từ 50%
trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo Tiêu chuẩn Kế toán
Quốc tế 29, có bốn tiêu chí để xác định siêu lạm phát, đó là: (1) người dân không
muốn giữ tài sản của mình ở dạng tiền; (2) giá cả hàng hóa trong nước không còn tính
bằng nội tệ nữa mà bằng một ngoại tệ ổn định; (3) các khoản tín dụng sẽ tính cả mức
mất giá cho dù thời gian tín dụng là rất ngắn; và (4) lãi suất, tiền công và giá cả được
gắn với chỉ số giá và tỷ lệ lạm phát cộng dồn trong ba năm lên tới 100 phần trăm.
3. Tác động của lạm phát trong kinh tế
3.1. Lạm phát dự kiến:
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia
vào nền kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất
cho xã hội:
Chi phí mòn giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền
và lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm
cho người ta giữ ít tiền hơn hay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường
xuyên đến ngân hàng để rút tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn
giày" để chỉ những tổn thất phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà
người ta phải hứng chịu nhiều hơn so với không có lạm phát.


Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh
nghiệp sẽ mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.


Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp
do lạm phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn)
còn doanh nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn




thì giá cả của doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh
nghiệp tăng giá. Do nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối
nên lạm phát đã dẫn đến tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý
muốn của người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát.
Ví dụ: trong trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập
danh nghĩa tăng do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh
lệch giữa thu nhập danh nghĩa và thu nhập thực tế.


Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước
đo trong tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì
vậy các cá nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.


3.2. Lạm phát không dự kiến:
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa
các cá nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên
lãi suất danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn
người cho vay bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi
còn người đi vay chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu
lạm phát nên tác động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu
cực của lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là
không đáng kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa
phải. Khi lạm phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối
lại của cải giữa các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ

của tất cả các nước đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
4. Nguyên
nhân:
4.1. Lạm phát do cầu kéo
Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn
dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS.
Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và
sản lượng cùng tăng.


Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng
cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để
đáp ứng. Do đó có lạm phát.
4.2. Lạm phát do cầu thay đổi
Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt
hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính
chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng
cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng
giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.
4.3. Lạm phát do chi phí đẩy
Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng.
Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm.
Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

4.4. Lạm phát do cơ cấu
Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động.
Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người
lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém
hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.
4.5. Lạm phát do xuất khẩu

Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được
huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm
khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất
cân bằng.
4.6. Lạm phát do nhập khẩu
Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập
khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định


tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong
nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.
4.7. Lạm phát tiền tệ
Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ
cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng
trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu
thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát.
4.8. Lạm phát đẻ ra lạm phát
Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả
hàng hóa sẽ còn tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng
cung, gây ra lạm phát.
5. Kiềm chế lạm phát
Kiềm chế lạm phát còn gọi là giảm lạm phát. Có một loạt các phương thức để
kiềm chế lạm phát. Các ngân hàng trung ương như Cục dự trữ liên bang Mỹ có thể tác
động đến lạm phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất và
thông qua các hoạt động khác (ví dụ: sử dụng các chính sách tiền tệ). Các lãi suất cao
(và sự tăng chậm của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng
trung ương kiềm chế lạm phát, sử dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để hạn chế
tăng giá.
Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm
phát rất khác nhau. Ví dụ, một số ngân hàng theo dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân

xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó ở mức cao.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ nhấn mạnh việc tăng lãi suất bằng cách
giảm cung tiền thông qua các chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Những người
theo học thuyết Keynes nhấn mạnh việc giảm cầu nói chung, thông thường là thông
qua các chính sách tài chính để giảm nhu cầu. Họ cũng lưu ý đến vai trò của chính
sách tiền tệ, cụ thể là đối với lạm phát của các hàng hóa cơ bản từ các công trình
nghiên cứu của Robert Solow. Các nhà kinh tế học trọng cung chủ trương kiềm chế
lạm phát bằng cách ấn định tỷ giá hối đoái giữa tiền tệ và một số đơn vị tiền tệ tham
chiếu ổn định như vàng, hay bằng cách giảm thuế suất giới hạn trong chế độ tỷ giá thả


nổi để khuyến khích tích lũy vốn. Tất cả các chính sách này đã được thực hiện trong
thực tế thông qua các tiến trình nghiệp vụ thị trường mở.
Một phương pháp khác đã thử là chỉ đơn giản thiết lập lương và kiểm soát giá
cả (xem thêm "Các chính sách thu nhập"). Ví dụ, nó đã được thử tại Mỹ trong những
năm đầu thập niên 1970 (dưới thời tổng thống Nixon). Một trong những vấn đề chính
với việc kiểm soát này là nó được sử dụng vào thời gian mà các biện pháp kích "cầu"
được áp dụng, vì thế các giới hạn phía cung (sự kiểm soát, sản xuất tiềm năng) đã mâu
thuẫn với sự tăng trưởng của "cầu". Nói chung, phần lớn các nhà kinh tế coi việc kiểm
soát giá là phản tác dụng khi nó có xu hướng làm lệch lạc các hoạt động của nền kinh
tế vì nó làm gia tăng thiếu thốn, giảm chất lượng sản phẩm v.v. Tuy nhiên, cái giá
phải trả này có thể là "đáng giá" nếu nó ngăn chặn được sự đình đốn sản xuất nghiêm
trọng, là điều có thể có đắt giá hơn, hay trong trường hợp để kiểm soát lạm phát trong
thời gian chiến tranh.
Trên thực tế, việc kiểm soát có thể bổ sung cho đình đốn sản xuất như là một
cách để kiềm chế lạm phát: Việc kiểm soát làm cho đình đốn sản xuất có hiệu quả hơn
như là một cách chống lạm phát (làm giảm sự cần thiết phải tăng thất nghiệp), trong
khi sự đình đốn sản xuất ngăn cản các loại hình lệch lạc mà việc kiểm soát gây ra khi
"cầu" là cao.
6. Phương pháp tính:

Chỉ số giá tiêu dùng (hay được viết tắc là CPI, từ các chữ tiếng Anh Consumer
Price Index) là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá
hàng tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này dựa vào
một “rổ hàng hóa” đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.
Đây là chỉ tiêu được sử dụng phổ biến nhất để đo lường mức giá và sự thay đổi
của mức giá chính là lạm phát.
Phương pháp tính chì số giá tiêu dùng:
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo công
thức Laspeyres của giá cả thời kỳ báo cáo (kỳ t) so với thời kỳ cơ sở. Để làm được
điều đó, phải tiến hành như sau:
1.
Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng
hàng hóa, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.


2.
Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hóa
tại mỗi thời điểm.
3.
Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hóa bằng cách dùng số lượng
nhân với giá cả của từng loại hàng hóa rồi cộng lại.
4.

Lựa chọn thời kỳ gốc làm cơ sở so sánh.

Chỉ số giá tiêu dùng của cả nước được tính bằng phương pháp bình quân gia
quyền giữa chỉ số giá tiêu dùng của các vùng kinh tế với quyền số tương ứng của từng
vùng so với cả nước. Chỉ số giá tiêu dùng của từng vùng được tổng hợp từ chỉ số giá
của các tỉnh với quyền số tương ứng vủa từng tỉnh, thành phố trong vùng. Trong đó,
chỉ số giá tiêu dùng của cấp tỉnh, thành phố đã và đang được tính theo phương pháp

bình quân gia quyền giữa biến động giá của các nhóm mặt hàng với quyền số tương
ứng, theo kỳ gốc cố định (thường là 5 năm).
Công thức tổng quát:
n

I

t→ 0

=

∑pq
i =1
n

t

0

i

i

∑p q
i =1

0

0


i

i

n

=

∑W
i =1

0
i



× 



p 

p 
t

i
0

(1)


i

Trong đó:

I

t→ 0

p

t

: giá mặt hàng i kỳ báo cáo t;

i

W

: chỉ số giá tiêu dùng kỳ báo cáo t so với kỳ gốc 0;

0
i

p

0
i

: giá mặt hàng i kỳ gốc;


: quyền số cố định năm 2005.

Công thức (1) tính chỉ số giá dài hạn (kỳ báo cáo so với kỳ gốc). Công thức này
đã được áp dụng nhiều năm và có nhiều ưu điểm như cách tính dễ hiểu, ngắn gọn;
nhưng cũng có một số nhược điểm khi giải quyết vấn đề chọn mặt àhng mới thay thế
mặt hàng cũ không còn bán trên thị trường, hàng thời vụ hoặc hàng thay đổi chất
lượng.
Tuy nhiên, khi tính chỉ số theo phương pháp này, mọi so sánh phải thông qua
một kỳ gốc đã chọn (ví dụ kỳ gốc năm 2000). Do đó, có một số hạn chế khi phải xử lý
những thay đổi về mặt hàng, về điều chỉnh chất lượng mặt hàng… qua các kỳ điều tra.
Để khắc phục nhược điểm trên, chỉ số giá tiêu dùng sẽ được tính theo công thức


Laspeyres chuyển đổi – hay phương pháp so sánh với kỳ gốc ngắn hạn. Công thức này
hoàn toàn tương thích với công thức Laspeyres gốc và có dạng tổng quát như sau:

I

n

t→ 0

=

∑W
i =1

t −1
i




× 



p
p

t

i
t −1
i







(2)

Trong đó:

W

t −1

W


=

i

0
i



× 



t −1

p
p
i

0
i







Điểm mới trong công thức (2) là thay cho việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ

báo cáo so trực tiếp với kỳ gốc bằng việc tính chỉ số cá thể mặt hàng kỳ báo cáo so với
kỳ trước sau đó nhân với chỉ số cá thể mặt hàng đó kỳ trước so với năm gốc.

p
p

t

1

i
0

=

i

p
p

i
0

2

t −1

i
1


i
t −2

i

i

p
p
×… ×
p
p

×

1

×

p
p

t

i
t −1
i

Đẳng thức trên có thể viết như sau:


i

t →0

=

pi

i

t −1→0
pi

×

i

t →t −1

(3)

pi

Trong đó:

i

t →0

i


t −1→0

i

pi

: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;

pi

t →t −1
pi

: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước;

Công thức (2) có thể viết như sau:

I

t→ 0

n

=

Trong đó:

∑W

i =1

0
i

×

i

t −1→0
pi

×

i

t →t −1
pi

(4)


I
i

t→ 0

t →t −1

i


pi
t −1→0
pi

W

0
i

: chỉ số giá tiêu dùng tháng báo cáo t so với kỳ gốc 0;
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng báo cáo so với tháng trước;
: chỉ số cá thể mặt hàng i tháng trước tháng báo cáo so với kỳ gốc 0;
: quyền số cố định năm 2005.

 Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các vùng và cả nước:
Tính chỉ số giá các vùng kinh tế:
Tính chỉ số giá khu vực nông thôn của cá vùng (8 vùng) từ báo cáo chỉ số
giá khu vực nông thôn của các tình trong vùng.
Tính chỉ số giá khu vực thành thị của các vùng (8 vùng) từ báo cáo chỉ số
giá khu vực thành thị của các tình trong vùng.
Tính chỉ số giá vùng chung cho cả hai khu vực (8 vùng).
Tính chỉ số giá cả nước:
Tính chỉ số giá khu vực nông thôn cả nước, từ chỉ số giá khu vực nông
thôn của 8 vùng.
Tính chỉ số giá khu vực thành thị cả nước, từ chỉ số giá khu vực thành thị
của 8 vùng.
Tính chỉ số giá chung cả nước.
Công thức tổng quát như sau:
m


I

t →0
V

=

∑I
k =1

t →0
k

m

∑W
k =1

k

×W 0
0

(5)

k

Trong đó:


I
I
I

t →0
V0
t →0
V1
t →0
V2

k

W

: chỉ số giá cả nước kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
: chỉ số giá vùng 1 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
: chỉ số giá vùng 2 kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;
: tỉnh tham gia tính chỉ số, m: số tỉnh tham gia tính chỉ số giá;

k
0

: quyền số cố định của tỉnh k;


I

t →0
k


: chỉ số kỳ báo cáo của tỉnh k so với kỳ gốc;

Cấp tỉnh, thành phố tính chỉ số giá tiêu dùng từ giá bình quân hàng tháng
Cấp vùng và trung ương tính chỉ số giá tiêu dùng từ chỉ số giá của các địa
phương, không tính trực tiếp từ giá bình quân vùng hoặc trung ương.




×