Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC, NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (295.33 KB, 45 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN NHÂN LỰC,
NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO CHO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1. NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO VÀ CÁC TIÊU THỨC XÁC ĐỊNH

1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực (Human resource-HR)
Trong những thời kỳ mà nền kinh tế tự nhiên còn phổ biến, thì sự phát triển
của các nền kinh tế quốc gia trên thế giới chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên thiên
nhiên và lao động thủ công, do đó nước nào giàu tài nguyên hoặc có nhiều lao
động, thì nước đó có lợi thế trong phát triển kinh tế - xã hội và ngược lại. Trong
thời đại bùng nổ của cách mạng KH - CN, tình hình đã thay đổi: nước giàu tài
nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào chưa hẳn đã có lợi thế trong phát
triển hơn các nước nghèo tài nguyên hoặc khan hiếm lao động giản đơn. Trên thực
tế, chẳng hạn, Singapo, với dân số chỉ có trên 3 triệu người, tài nguyên không có gì
đặc biệt, đã nổi lên như một nền kinh tế có mức độ cạnh tranh cao nhất thế giới
(qua nhiều cuộc bình chọn trong những năm gần đây). Để có được kết quả như
vậy, trong một hướng đi của họ là đào tạo một nguồn nhân lực tốt. Ngay từ cuối
năm 1998, Uỷ ban cạnh tranh của họ (CSC) đã công bố chiến lược phát triển nguồn
nhân lực trong một thập kỷ với mục tiêu là “trí thức hóa” lực lượng lao động. Nhật
Bản, Hồng Kông, Singapo, Hàn Quốc…là những nước nghèo về tài nguyên, nhưng
họ lại là những nước đạt tốc độ phát triển kinh tế cao liên tục trong nhiều thập kỷ,
nên chỉ trong một thời gian ngắn đã biến đất nước họ trở thành các quốc gia có nền
kinh tế phát triển. Yếu tố đóng vai trò quyết định cho sự thành công trong phát
triển kinh tế của các quốc gia đó chính là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Ở các
nước phát triển cao người ta đã tính toán được rằng trong giá trị của những sản
phẩm cao cấp thì hàm luợng chất xám chiếm 70%, năng lượng 10%, nguyên liệu
10%, thao tác vật chất chỉ chiếm 5,6%. Trong thời đại ngày nay, những quan niệm


về vai trò, vị trí của nguồn nhân lực trong phát triển liên tục thay đổi. Nếu như
trước đây, người ta nhìn nhận vai trò của nguồn nhân lực chỉ đơn thuần là phương


tiện, là một nguồn lực cho phát triển giống như mọi nguồn lực vật chất khác, thì
ngày nay, sự nhận thức trên hoàn toàn khác. Con người, nguồn nhân lực không chỉ
là động lực chủ yếu mà còn là mục tiêu của sự phát triển, với phương châm phát
triển vì con người. Trí tuệ con người ngày càng được đề cao, vì nó là nguồn lực to
lớn và mạnh mẽ nhất cho tiến bộ và phát triển xã hội. Theo Alvin Toffler, mọi
nguồn lực tự nhiên đều có thể bị khai thác cạn kiệt, chỉ riêng có trí tuệ là vô tận,
bởi "tri thức có tính chất lấy không bao giờ hết”. Trái lại, NNL, đặc biệt là NNL
chất lượng cao, nếu biết khai thác và bồi dưỡng hợp lý thì càng phát triển và có khả
năng tái sinh nhanh. Chính vì lẽ đó, NNL đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học và nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, và từ đó người ta cũng
tìm ra các phương cách khác nhau để có thể nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Có quan điểm cho rằng: Thông thường những nguồn lực làm cơ sở cho chiến
lược phát triển của một nước có thể là nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên
nhiên, vị trí địa lý, có thể là cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra trong các giai
đoạn trước đó, có thể là nguồn lực ngoài như vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý,
thị trường, cũng có thể là nguồn nhân lực,... lịch sử cho thấy, NNL là nguồn lực lâu
bền nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia từ trước đến nay…cho dù có những
nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ khả năng khai thác
những nguồn lực đó, đủ trình độ nắm bắt và làm chủ kỹ thuật công nghệ hiện đại và
nếu không có một môi trường kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi cho con người hoạt
động, thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn.
Theo giáo trình kinh tế lao động, thì: nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực
con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế
xã hội. Nguồn nhân lực khác với các nguồn lực khác (nguồn lực tài chính, nguồn


lực vật chất, nguồn lực công nghệ…) là ở chỗ: trong quá trình vận động, NNL chịu
tác động của yếu tố tự nhiên (sinh, chết…) và yếu tố xã hội (việc làm, thất
nghiệp...). Chính vì vậy, NNL là một khái niệm khá phức tạp, được nghiên cứu

dưới nhiều giác độ khác nhau. Nguồn nhân lực còn được hiểu như là nơi sinh sản,
nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Cách hiểu này
muốn chỉ rõ nguồn gốc tạo ra nguồn lực con người, nghiêng về sự biến động tự
nhiên của dân số và ảnh hưởng của nó tới sự biến động NNL. Nguồn nhân lực còn
được hiểu như một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội,
là tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động. Cách hiểu này
cụ thể hơn và có thể lượng hóa được, đó là năng lực lao động của xã hội, bao gồm
những người có khả năng lao động, tức là bộ phận chủ yếu và quan trọng nhất
trong NNL.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản
xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của
lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó quyết định năng suất lao
động và tiến bộ xã hội. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao
động cơ bản của xã hội.
Theo Thuyết lao động xã hội thì nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo
nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn
lực con người cho sự phát triển. Do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển
bình thường (trừ những người bị dị tật bẩm sinh). Theo nghĩa hẹp: Nguồn nhân lực là khả
năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là toàn bộ
các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí
lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, thì NNL chính là nguồn lực chủ yếu
tạo động lực cho sự phát triển. Vì vậy việc cung ứng đầy đủ và kịp thời NNL theo


yêu cầu của nền kinh tế là yếu tố đóng vai trò quyết định đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế - xã hội. Do đó, bất cứ hiện tượng thiếu hoặc thừa sức lao động đều gây
ra những khó khăn cho sản xuất xã hội và ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Đây là đối tượng của môn Kinh tế phát triển.

Theo thuyết về vốn con người (Human resource), thì yếu tố con người được
coi là yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất, là phương tiện để phát triển
kinh tế - xã hội. NNL được coi như mọi nguồn lực khác (như vốn, công nghệ, tài
nguyên thiên nhiên, đất đai…), cho nên cần phải đầu tư cho con người. Trên thực
tế việc đầu tư cho con người có tỷ lệ thu hồi vốn khá cao và mang lại nguồn lợi lớn
hơn so với đầu tư vật chất.
Ngân hàng thế giới (WB) cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm
thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp,…mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất
khác: vốn tiền, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên,… Do đó đầu tư cho con người là
đầu tư quan trọng nhất trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững chắc cho sự
phát triển bền vững. Theo cách tính toán của WB thì đầu tư cho giáo dục tiểu học
tỷ lệ thu hồi vốn là 24% so với vốn đầu tư, cho trung học là 17%, và cao đẳng đại
học là 14%, trong khi đó đầu tư vào các ngành sản xuất vật chất tỷ lệ thu hồi chỉ
đạt 13% tổng vốn đầu tư.
Biểu 1.1: Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cho giáo dục theo vùng và cấp giáo dục
Đơn vị tính: %
Khu vực
Các nước có thu nhập
trung bình và thấp
Tiểu Sahara và châu
Phi
Châu Á
Châu Âu,Trung Đông
và Bắc Phi

Công cộng
Tiểu
Trung Đại học
học

học

Tư nhân
Trung
Đại học
học

Tiểu
học

24,3

18,2

11,2

41,3

26,6

27,8

19,9

13,3

11,7

39,0


18,9

19,9

15,5

11,2

10,6

17,4

15,9

21,7


Mỹ La tinh, Caribê
OECD

17,9

12,8
10,2

12,3
8,7

26,2


16,8
12,4

19,7
12,3

Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Việt Nam-Nghiên cứu tài chính cho giáo dục1996, tr.80.
Liên hiệp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự và cho rằng: Nguồn nhân lực
là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con
người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [55, tr.8].
Quan niệm này xem xét nguồn lực con người chủ yếu ở phương diện chất lượng
con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội. Chính vì vậy,
Liên hiệp quốc đã kêu gọi các quốc gia quan tâm hơn nữa tới nguồn nhân lực, vì:
…đầu tư vào vốn con người trước hết có tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn so với đầu tư
cho các nguồn lực khác…tiết kiệm được việc sử dụng và khai thác các nguồn lực
khác, lợi ích thu được từ đầu tư này có tính lan tỏa đồng đều hơn so với đầu tư vào
các nguồn lực khác. Do vậy, việc tập trung phát triển con người sẽ đem lại tốc độ
phát triển cao hơn, ổn định hơn và công bằng hơn trong phân phối lợi ích của sự
phát triển [55, tr.9].
Theo UNDP, thì nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực (cơ năng và trí
năng) của con người được huy động vào quá trình sản xuất, nguồn năng lực-nội lực
đó của con người cũng chính là nội lực xã hội của một quốc gia. Đối với những
nước đang phát triển như Việt Nam, với dân số đông, NNL dồi dào đang trở thành
một trong những nguồn nội lực quan trọng nhất và nếu biết khai thác nguồn nội lực
đó một cách hiệu quả sẽ tạo ra một động lực to lớn cho phát triển kinh tế-xã hội.
Ở Việt Nam, theo ý kiến của các nhà khoa học tham gia chương trình khoa công nghệ cấp Nhà nước, mã số KX - 07 thì: Con người Việt Nam - mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do giáo sư, tiến sỹ khoa học Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng nguồn lực con người được hiểu là số dân và
chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng
lực và phẩm chất [19, tr.328] còn trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà



khoa học - công nghệ các tỉnh, Thành phố phía Bắc khi đề cập đến vấn đề tăng
cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà khoa học - công nghệ và các
cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trong
lời phát biểu của mình nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: "Nguồn
lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống
của dân tộc ta” [24].
Giáo sư, tiến sỹ Hoàng Chí Bảo cho rằng: Nguồn lực con người là sự kết
hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động
và triển vọng mới phát triển của con người” [3, tr.14] tức là kết cấu bên trong của
nguồn nhân lực bao gồm sức mạnh thể lực, trí tuệ và sự kết hợp hai yếu tố đó tạo
thành năng lực sáng tạo của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên.
Trong luận án tiến sỹ triết học - nguồn lực con người trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tác giả Đoàn Khải cho rằng: Nguồn lực con
người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất lượng con người với
tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội” [23].
Theo quan điểm của tác giả Lê Thị Ngân, trong luận án tiến sỹ thì nguồn
nhân lực được quan niệm là tổng thể sức lao động của xã hội đang và sẽ được vận
dụng cho quá trình sản xuất xã hội hay nói một cách rõ hơn: NNL là tổng thể
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của
xã hội và được họ đang và sẽ đem ra vận dụng để sản xuất ra hàng hóa tiêu dùng
cho xã hội [34].
Theo quan điểm của một số nhà khoa học khác, thì: nguồn nhân lực được
xem là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức khỏe và
trí tuệ, năng lực phẩm chất, thái độ và phong cách lao động.
Do khi nghiên cứu NNL xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau như vậy
nên có những khái niệm khác nhau về NNL, nhưng nhìn chung các khái niệm đó
đều thống nhất về nội dung cơ bản là: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã



hội, là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển kinh
tế - xã hội của mọi quốc gia.
Như vậy, khi nói tới nguồn nhân lực trước hết phải hiểu đó là toàn bộ những
người lao động đang có khả năng tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế - xã
hội và các thế hệ những người lao động tiếp tục tham gia vào các quá trình phát
triển kinh tế xã hội, con người đóng vai trò là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ
quá trình đó, hướng nó tới mục tiêu đã được chọn. Cho nên NNL nó còn bao gồm
một tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách
làm việc- đó chính là các yếu tố thuộc về chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra khi
nói tới nguồn nhân lực phải nói tới cơ cấu của lao động, bao gồm cả cơ cấu đào tạo
và cơ cấu ngành nghề. Khi nói nguồn nhân lực cần nhấn mạnh sự phát triển trí tuệ, thể
lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của con người, bởi vì trí lực là yếu tố ngày
càng đóng vai trò quyết định sự phát triển NNL. Ngoài ra khi nói đến NNL cũng cần
phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, đạo đức và nhân cách của
con người.
Do đó, NNL tiếp cận dưới giác độ phổ quát của Kinh tế Chính trị được hiểu
là: Tổng hòa thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của
một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của
một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh
thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Cho đến nay, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn còn nhiều
cách hiểu khác nhau, khi nói về phát triển NNL(Human Resource Development HDR). Nhưng chung quy lại, phát triển NNL của một quốc gia (một vùng lãnh thổ)
chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng NNL trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ
năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu
NNL. Nói một cách khái quát nhất, phát triển NNL chính là qúa trình tạo lập và sử


dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế xã hội và sự hoàn thiện bản

thân mỗi con người [53, tr.194].
Trước đây, sự giàu có, sức mạnh của một quốc gia, một dân tộc thường
được hiểu đồng nghĩa với sự phong phú giàu có của các nguồn tài lực, hoặc đánh
giá thông qua khối lượng các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Còn ngày nay, nhờ
những thành tựu to lớn của khoa học công nghệ, sự giàu có của mỗi nước không
chỉ đơn giản đo bằng khối lượng tài nguyên thiên nhiên; trong thực tiễn một nước
có thể nghèo về của cải tự nhiên song vẫn có thể trở thành một nước giàu mạnh,
nếu ở đó có được chiến lược phát triển đúng cùng với NNL có chất lượng cao và
biết khai thác hợp lý nó.
Vậy thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao? Trước hết, nhân lực chất
lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình
độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu
thức phân loại lao động về chuyên môn kỹ thuật nhất định (lao động kỹ thuật lành
nghề, trên đại học). Giữa chất lượng NNL và NNL chất lượng cao có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể
NNL của một quốc gia, trong đó NNL chất lượng cao là một bộ phận cấu thành
đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh túy nhất, có chất lượng nhất, cho nên khi nói về
NNL chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng thể vấn đề chất lượng
NNL nói chung của đất nước [30].
Nguồn nhân lực chất lượng cao là NNL phải đáp ứng được yêu cầu của thị
trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức:
chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng: kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc
an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công
việc [29].
Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế
muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất 3 trụ cột cơ bản: áp


dụng công nghệ mới, phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại và nâng cao chất lượng
NNL. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững

chính là con người, đặc biệt là NNL chất lượng cao, tức là con người được đầu tư
phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo để
trở thành “nguồn vốn-vốn con người, vốn nhân lực”.
Đánh giá năm 2005 của diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về chất lượng lao
động của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm, trên thang điểm 10 điểm, so với Trung Quốc
là 5,73 và Malaysia là 5,59 [4]. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài chất
lượng NNL Việt Nam còn thấp trong so sánh quốc tế [12]. Tính theo chỉ số đánh
giá tổng hợp về chất lượng giáo dục và NNL thì Việt Nam chỉ đạt 3,2/10 điểm,
thuộc vào nhóm yếu kém nhất (trong khi Singapo dẫn đầu các quốc gia được khảo
sát với 8,4/10 điểm), xếp thứ 11 trong số 12 quốc gia Châu Á được so sánh, chỉ
đứng trên Inđônêxia và kém xa so với Philipin, Thái Lan và Malaxia. Về từng khía
cạnh cụ thể:
- Chất lượng của Hệ thống giáo dục: VN được 3,25 điểm, đứng thứ 10/12
nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 8,00 điểm).
- Mức độ sẵn có về lao động sản xuất chất lượng cao: Việt Nam được 3,25
điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Nhật Bản với 8,00 điểm).
- Sự thành thạo của lao động trình độ công nghệ cao: Việt Nam được 2,50
điểm, đứng thứ 11/12 nước và vùng lãnh thổ, tương đương với Inđônêxia (cao nhất
là Singapo 7,83 điểm).
- Mức độ sẵn sàng về cán bộ quản ly kinh tế chất lượng cao: VN được 2,5
điểm, đứng thứ 10/12 nước và vùng lãnh thổ (cao nhất là Hàn Quốc đạt 7,50 điểm).
Theo đánh giá chung, các nền kinh tế có chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có
nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu (Việt Nam đạt 32 điểm) [56].
1.1.3. Các tiêu thức xác định nguồn nhân lực chất lượng cao


Nhiều mục tiêu cụ thể về phát triển NNL cho 10 năm đầu của thế kỷ XXI đã
được đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001-2010. Những
mục tiêu này phản ánh khá toàn diện các nội dung cơ bản nhất của phát triển NNL
Việt Nam đến năm 2010: về thể lực (nâng cao tầm vóc trung bình của thanh niên,

giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, giảm tỷ lệ mắc bệnh,…) về trí lực (bao gồm
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn- kỹ thuật…), và về giữ gìn, phát huy những
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam để đóng góp vào sự nghiệp phát triển chung của
đất nước, và đó được xem là các tiêu chí của NNL chất lượng cao ở Việt Nam. Để
thấy rõ, cần phân tích từng tiêu thức cụ thể sau:
1.1.3.1. Năng lực về thể chất (thể lực) của nguồn nhân lực
Nói đến thể lực là nói đến tình trạng sức khỏe của NNL, sức khỏe là sự phát
triển hài hòa của con người về cả thể chất lẫn tinh thần. Đó là sức khỏe cơ thể và
sức khỏe tinh thần. Trong hiến chương của tổ chức y tế thế giới đã nêu: "Sức khỏe
là một trạng thái hoàn toàn thỏa mái về thể chất, tâm thần và xã hội, chứ không
phải là không có bệnh hay thương tật”. Quan niệm về chất lượng NNL mà đề tài
phân tích là năng lực tinh thần và năng lực thể chất của NNL, tức là nói tới sức
mạnh và tính hiệu quả của những khả năng đó, trong đó năng lực thể chất chiếm vị
trí vô cùng quan trọng. Nếu con người có thể lực tốt thì mới phát huy được lợi thế
của sức mạnh trí tuệ trong phát triển kinh tế xã hội và ngược lai. Sức khỏe là điều
kiện tiên quyết để duy trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để truyền tải tri thức
vào hoạt động thực tiễn, để biến tri thức thành sức mạnh vật chất phát triển kinh tếxã hội. Do đó, sức khỏe là yếu tố quan trọng của NNL, nó trở thành một chỉ tiêu
quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tình trạng sức
khỏe được phản ánh bằng một hệ thống các chỉ tiêu cơ bản về sức khỏe như: Chiều
cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật
chất và các điều kiện về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe. Cho nên thể lực của NNL
được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế độ nuôi dưỡng, chế độ chăm sóc sức


khỏe…Vì thế, thể chất của NNL phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
phân phối thu nhập, cũng như chính sách xã hội trước mắt và lâu dài của mỗi quốc
gia, nếu các vấn đề liên quan đến sức khỏe, dinh dưỡng không được giải quyết tốt
sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng nguồn nhân lực cả về thể lực lẫn trí tuệ;
Tình trạng thể lực chung của người Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, tuy nhiên,
tầm vóc và thể lực người Việt Nam hiện còn nhiều hạn chế. Tỷ trọng người lớn có

chỉ số cơ thể (BMI) bình thường chỉ chiếm khoảng 48% trong tổng số. Còn lại
khoảng 52% tổng số người lớn có những biểu hiện không bình thường trong phát
triển cơ thể như quá gầy hoặc quá béo…Vì vậy, để có NNL chất lượng cao không
thể không đề cập đến phát triển y tế, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Thể lực
tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bĩ dẻo dai của sức mạnh cơ bắp trong
công việc. Thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí lực. Trình độ kinh tế xã hội càng phát triển càng đòi hỏi cao ở thể lực, bởi nếu không có thể lực và tinh
thần tốt khó có thể chịu được sức căng thẳng của công việc, nhịp độ cuộc sống
trong thế giới hiện đại, không thể tìm tòi, sáng tạo ra những tri thức mới và vật hóa
các tri thức đó thành sản phẩm có ích. Theo nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười: "Trí tuệ
là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần
thiết để làm ra cái tài sản đó. Cần cải thiện, phát triển nòi giống, nâng cao thể lực
tầm vóc và thể trạng nhằm phát triển cân đối, hài hòa giữa thể lực và trí lực con
người Việt Nam. Mục tiêu là nâng cao một cách liên tục, bền vững tầm vóc của
người Việt Nam bằng cách tăng chiều cao trong thời kỳ trung hạn lên ngang bằng
với các nước trong khu vực Đông Á và lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của
WHO trong thời kỳ dài hạn.
Nâng cao tuổi thọ trên cơ sở tăng cường thể lực cùng với cải thiện nhanh về
hình thể, trước hết là chiều cao và trọng lượng của người lao động.
Biểu 1.2: Chiều cao và cân nặng của người Việt Nam so với tiêu chuẩn
chung của WHO


Tuổi

Chiều cao (mét)
Việt Nam
Tiêu chuẩn
2001
WHO


Cân nặng (kg)
Việt Nam
Tiêu chuẩn
2001
WHO

Nam
10
15

1,328
1,607

1,322
1,698

27,38
46,66

31,3
56,7

10
15

1,339
1,527

1,383
1,618


27,23
42,76

32,5
53,7

Nữ

Nguồn: Viện Khoa học Thể dục thể thao
Đồng thời với việc nâng cao tầm vóc là không ngừng cải thiện thể trạng
đồng thời đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa chiều cao và trọng lượng cơ thể, tăng
cường trạng thái sức khỏe chung, đặc biệt là sự phát triển hài hòa về tố chất thể lực
cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo…) cho người lao
động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Biểu 1.3: Các mục tiêu cụ thể cần đạt được vào năm 2010

Tuổi thọ
Tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi (0/00)
Chiều cao của thanh niên (m)

2000

2005

2010

2020

67,8


70

71

75

42

37

32

20

-

-

1.6

1.65

Nguồn: Chiến lược tăng trưởng toàn diện và xóa đói giảm nghèo; Nghị
quyết 37/CP của Chính phủ về định hướng chiến lược công tác chăm sóc và sức
khỏe nhân dân giai đoạn 1996-2000 và 2020.
1.1.3.2. Năng lực tinh thần (trí lực) của nguồn nhân lực

Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu thông qua sức mạnh trí tuệ, đây là
yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn nhân lực, đặc biệt trong

điều kiện trí tuệ hóa lao động hiện nay. Trí lực của NNL biểu hiện ở năng lực sáng
tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động
thông qua các chỉ số: trình độ văn hóa, dân trí, học vấn trung bình của một người


dân; số lao động đã qua đào tạo, trình độ và chất lượng đào tạo; mức độ lành nghề
(kỹ năng, kỹ xảo…) của lao động; trình độ tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh;
năng suất, chất lượng hiệu quả của lao động…
- Trình độ học vấn: là chỉ tiêu đầu tiên biểu hiện trí lực của NNL, bởi lẽ nó
thể hiện sự hiểu biết của người lao động về những kiến thức phổ thông về tự nhiên
và xã hội, là khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ
bản, thực hiện những việc đơn giản để duy trì cuộc sống.
Trình độ học vấn được cung cấp thông qua hệ thống giáo dục chính quy,
không chính quy, qua quá trình học tập suốt đời của mỗi cá nhân. Trình độ học vấn
của NNL được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động
kinh tế
Tỷ Lệ người biết chữ trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế
là số % những người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có thể đọc, viết và hiểu
những câu đơn giản của tiếng mẹ đẻ hoặc tiếng nước ngoài so với tổng số dân số
15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá trình độ văn hóa ở mức tối thiểu của
nguồn nhân lực. Các thống kê lao động và việc làm trong nước sử dụng chỉ tiêu
này.
Thứ hai: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa
tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế có trình độ văn hóa (tiểu
học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) là số % dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt
động kinh tế có trình độ văn hóa tốt nghiệp tiểu học (trung học cơ sở, trung học
phổ thông) so với dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế.

Chỉ tiêu này đánh giá một cách đầy đủ trình độ văn hóa của nguồn nhân lực.


Thứ ba: Số năm đi học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động
kinh tế
Số năm di học trung bình của dân số từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế là
số năm trung bình một người từ 15 tuổi trở lên hoạt động kinh tế dành cho học tập.
Đây là một trong những chỉ tiêu được liên hiệp quốc sử dụng để đánh giá
chất lượng NNL của các quốc gia.
Thứ tư: Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: Tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông
Tỷ lệ dân số đi học chung các cấp: (Tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông) là số % trẻ em đi học cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học phổ thông) đủ
độ tuổi của các em này có thuộc độ tuổi cấp tiểu học (trung học cơ sở, trung học
phổ thông) hay không trong tổng dân số ở độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi, cấp
trung học cơ sở từ 11 - 14 tuổi; cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi).
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá trình độ phát triển giáo dục ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn nhân lực của các quốc gia.
Thứ năm: Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông
Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông
là số % trẻ em trong độ tuổi cấp tiểu học từ 6-10 tuổi; cấp trung học cơ sở từ 11-14
tuổi, cấp trung học phổ thông từ 15-17 tuổi đi học cấp tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông trong tổng số em trong độ tuổi cấp tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông
Chỉ tiêu này dùng để đánh giá hiệu quả của hệ thống giáo dục, từ đó ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Biểu 1.4: Cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ học vấn
Đơn vị tính: %
Trình độ học vấn


1996

2000

2004


Tổng số

100,00

100,00

100,00

Không biết chữ

5,72

3,97

4,24

Chưa tốt nghiệp cấp I

20,72

16,49


25,48

Tốt nghiệp tiểu học

27,70

29,29

31,51

Tốt nghiệp THCS

32,08

33,01

30,40

Tốt nghiêp THPT

13,78

17,24

18,37

Nguồn: Điều tra lao động việc làm 1.7 hằng năm, Bộ LĐ-TB và XH.
Chính phủ các nước căn cứ vào các chỉ tiêu trên để xây dựng mục tiêu phát
triển giáo dục trong chiến lược giáo dục của quốc gia. Ví dụ: định hướng phát triển
giáo dục của Việt Nam đến năm 2010 với mục tiêu đạt tỷ lệ đi học chung của các

cấp tiểu học là 100%, cấp THCS là 80%, cấp THPT là 45%.
Trình độ dân trí của dân cư phản ánh trình độ học vấn của LLLĐ, là một chỉ
tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng NNL, bởi lẽ trình độ học vấn cao tạo ra
những điều kiện và khả năng tiếp thu và vận dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào thực tiễn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Chất lượng của nguồn nhân lực không chỉ thể hiện ở trình độ học vấn, quan
trọng hơn là trình độ chuyên môn kỹ thuật, thông qua số lượng và chất lượng của
lao động đã qua đào tạo.Trình độ chuyên môn kỹ thuật là kiến thức và kỹ năng cần
thiết để đảm đương các chức vụ trong quản lý, kinh doanh và các hoạt động nghề
nghiệp. Lao động có chuyên môn kỹ thuật bao gồm những công nhân từ bậc 3 trở
lên (có bằng hoặc không có bằng) cho tới những người có trình độ trên đại học. Họ
được đào tạo ở các Trường kỹ thuật, được trang bị kỹ năng thực hành về công việc
nào đó và được thể hiện thông qua các chỉ tiêu so sánh như sau:
Thứ nhất: Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo so với lực lượng lao động đang làm
việc là % số lao động đã qua đào tạo (từ sơ cấp, công nhân kỹ thuật đến sau đại
học) so với lực lượng lao động đang làm việc. Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái


quát trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Ví dụ: Năm 2005, ở Việt
nam tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với năm 2004.
Biểu 1.5: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động tại Việt
Nam
Đơn vị tính: %
Tổng số lao động(triệu
người)
Lao động không có
chuyên môn (%)
Lao động có chuyên
môn kỹ thuật (%)


1991

1996

1999

2002

2004

2005

30,97

35,87

37,78

40,69

50,3

44,38

93,4

87,69

86,13


80,38

77,5

75,2

6,6

12,31

13,87

19,62

22,5

24,8

Nguồn: Thực trạng lao động - việc làm ở Việt Nam, Bộ lao động-Thương
binh-Xã hội
Thứ hai: trình độ chuyên môn kỹ thuật được thể hiện thông qua tỷ lệ lao
động được đào tạo theo cấp bậc so với tổng số lao động đang làm việc của cả nước,
từng vùng, từng ngành. Chỉ tiêu này đánh giá một cách cụ thể nhất về trình độ
CMKT của nguồn nhân lực. Ví dụ: ở Việt Nam, năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào
tạo đạt 24,8%, tăng thêm 2,2% so với năm 2004. trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề
nói chung là 15,2% (tăng 1,8%), tỷ lệ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp là 4,3%
(giảm gần 0,1%), tỷ lệ tốt nghiêp CĐ, ĐH và trên ĐH là 5,3% (tăng 0,4%). Vùng
có tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là đông Nam bộ(37,4%) và đồng bằng sông
Hồng (34,4%), thấp nhất là tây Bắc (13,5%). Vùng kinh tế trọng điểm, có tỷ lệ qua

đào tạo cao nhất là Bắc Bộ với 36,4%, tiếp đến là phía Nam 36,1%, thấp nhất là miền
Trung 31%. Theo tiến sỹ Lê Duy Đồng- Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh- Xã
hội đánh giá, lực lượng lao động qua đào tạo mặc dù không ngừng tăng lên, bình quân
giai đoạn 2001-2005 tăng tới 12,9% (gần 983.000 người/năm) nhưng cũng mới đạt
24,8%, còn thấp so với mục tiêu Đại hội IX của Đảng đề ra là 30% [25]. Như vậy, vẫn


còn đến hơn 70% nguồn nhân lực chưa qua đào tạo. Một lực lượng lao động như vậy,
khó có thể đáp ứng yêu cầu “đi tắt, đón đầu” tiến vào nền kinh tế tri thức.
Thứ ba: là cơ cấu các loại lao động đã qua đào tạo theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật và cấp bậc đào tạo thể hiện cơ cấu số lao động có trình độ ĐH,CĐ/số lao
động có trình độ THCN/số lao động là công nhân kỹ thuật. Chỉ tiêu này cho thấy
cơ cấu đào tạo có cân đối với nhu cầu nhân lực của nền kinh tế hay không, trên cơ
sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu cầu đào tạo cho phù hợp. Các nghiên cứu của các
nhà khoa học gần đây cho thấy rằng, cơ cấu trên thể hiện ở Việt Nam còn bất hợp
lý “thừa thầy, thiếu thợ”. Ví dụ: năm 2002 có cơ cấu: 1/0,9/1,86; năm 2003 có cơ
cấu:1/ 0,9 / 2,7 [43]. Tỷ lệ này nói lên cơ cấu trình độ CMKT của lao động qua đào
tạo còn bất hợp lý và có xu hướng gia tăng trong thời gian tới, bởi vì số học sinh
bậc công nhân kỹ thuật được đào tạo từ năm 1991 trở lại đây ngày càng giảm
nhanh so với sự gia tăng học sinh bậc đại học, cao đẳng. trong khi đó cơ cấu này ở
các quốc gia đã thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, được coi là hợp
lý với tỷ lệ tương ứng là: 1/4/10. Theo F.M.Harbison (nhà kinh tế học), trong một
chu kỳ dài, tốc độ tăng việc làm của lao động đã qua đào tạo (lao động có kỹ thuật)
thường gấp 2-3 lần tốc độ tăng của GDP [52, tr.240].
Đối với Việt Nam, quá trình CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức được thực
hiện thông qua và bằng CNH, HĐH rút ngắn, do đó việc chuẩn bị NNL phải vừa
tăng cường đào tạo các loại cấp bậc để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế về
nhân lực qua đào tạo đồng thời phải chú trọng nhiều hơn nữa đào tạo cao đẳng, đại
học. Hơn nữa, số lao động số lao động được đào tạo trong tổng LLLĐ xã hội ở
Việt Nam còn thấp, nên quá trình đào tạo phải tăng cường đào tạo CNKT và

THCN, vừa tăng cường đào tạo bậc cao đẳng, đại học và trên đại học. Ở nước ta
hiện nay đang thiếu nghiêm trọng lực lượng lao động kỹ thuật có trình độ cao (chỉ
có 1,32 kỹ sư trên 1000 dân, trong khi ở những nước tiên tiến như Anh là 136,
Thụy Điển: 115 và Nhật Bản: 100) và chưa hình thành được một đội ngũ doanh


nhân giỏi có trình độ quản lý mang tầm quốc tế (kết quả điều tra về giám đốc
doanh nghiệp của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cho thấy 79% trong
số 77% tổng số chủ doanh nghiệp đã tốt nghiệp đại học chưa qua đào tạo, bồi dưỡng
về quản lý kinh tế). Đây cũng chính là tiềm năng có thể khai thác theo hướng sử dụng
tốt lực lượng lao động có trình độ cao để tăng tỷ trọng lao động có kỹ năng và cải
thiện cơ cấu lao động có trình độ cao góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế [47].
Trình độ CNKT của NNL còn được thể hiện ở khía cạnh khai thác và sử
dụng lực lượng này qua tỷ lệ lao động được đào tạo có việc làm và bị thất nghiệp
so với tổng số lao động được đào tạo. Các thông số đó cho thấy hiệu quả của việc
khai thác và sử dụng NNL đã qua đào tạo.
Ngoài ra, trí lực của nguồn nhân lực còn biểu hiện ở kỹ năng, kỹ xảo nghề
nghiệp của người lao động, chúng phụ thuộc trước hết vào khả năng của mỗi
người, sự say mê nghề nghiệp, ý thức rèn luyện kỹ năng. Mặt này thể hiện qua
thông số năng lực hoạt động chuyên môn của người lao động.
- Năng lực sáng tạo:
Tiếp tục phát triển và nâng cao trí lực và năng lực hoạt động thể hiện bằng
trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tầm hiểu biết, phổ kiến thức, kỹ
năng quản lý, tính năng động, năng lực thích nghi và sáng tạo của nguồn nhân
lực.Trong thời đại ngày nay, việc trang bị những kiến thức học vấn phổ thông và
kỹ năng nghề nghiệp là chưa đủ, cần phải tạo lập cho mối con người Việt Nam có
tư duy năng động, sáng tạo, dám mạo hiểm, sẵn sàng thích ứng và thích ứng cao
trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh khốc liệt nhất là trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và khu vực. Cho nên trí lực còn được biểu hiện ở óc sáng tạo, tính
linh hoạt, nhanh nhẹn, sắc bén trong phát hiện thông tin mới và khả năng thích ứng

nhanh để học tập, áp dụng, làm chủ các phương tiện khoa học, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại cũng như năng lực hoạch định các giải pháp kinh tế và thực hiện phát
triển kinh tế. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực trí tuệ trong quá trình
CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế tri thức hiện nay.


1.1.3.3. Chỉ số phát triển nhân lực HDI (Human Development Index)
Nếu quan niệm NNL là tổng thể năng lực lao động trong nền kinh tế của một
quốc gia, tức là lực lượng lao động của đất nước đó, thì khi xét chất lượng NNL,
tức là bộ phận trực tiếp hoạt động và sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội không
thể tách rời những điều kiện phát triển con người trong quốc gia đó. Trên ý nghĩa
đó, thì chất lượng nguồn nhân lực còn được thể hiện gián tiếp thông qua chỉ số
phát triển con người (HDI- Human Development Index). Theo Liên hiệp Quốc, sự
phát triển nhân lực của các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau có thể so sánh với
nhau bằng một thước đo chung, đó là chỉ số phát triển con người hay chỉ số phát
triển nhân lực. HDI là một chỉ tiêu tổng hợp gồm 3 tiêu chí cụ thể: 1) Mức độ phát
triển kinh tế: Được xác định bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu
người hằng năm;
2) Chỉ tiêu về phát triển giáo dục (chỉ tiêu học vấn): Được xác định bằng tỷ
lệ người lớn biết chữ và tỷ lệ đi học của các cấp giáo dục; và 3) Chỉ tiêu y tế: Tính
bằng tuổi thọ bình quân của người dân.
Theo quy ước quốc tế, chỉ số HDI mang giá trị từ 0 đến 1 gồm: chỉ số trình độ
học vấn, chỉ số thu nhập, chỉ số tuổi thọ. Có nơi, còn sử dụng thêm 2 tiêu chí: môi
trường tự nhiên và hệ thống an sinh xã hội. Chỉ số học vấn có giá trị bằng 1, khi 100%
số người lớn (trên 15 tuổi) biết đọc, biết viết; bằng 0, khi 0% số người lớn (trên 15
tuổi) biết đọc, biết viết. Chỉ số tuổi thọ có giá trị bằng 1, khi tuổi thọ bình quân là 85
tuổi; bằng 0, khi tuổi thọ bình quân chỉ đạt 25 tuổi. Chỉ số thu nhập bằng 1, khi GDP
bình quân đầu người đạt 40.000 USD (theo sức mua tương đương); bằng 0, khi GDP
bình quân đầu người chỉ đạt 160 USD/năm.
Giá trị HDI của các nước và lãnh thổ trên thế giới nằm trong khoảng từ 0

đến 1. Nước nào có giá trị HDI càng gần đến 1 thì mức độ phát triển nguồn nhân
lực rất cao, nếu nước nào có giá trị HDI dưới 0,4 thì mức độ phát triển nguồn nhân
lực của nước đó được coi là thấp. Theo số liệu của UNDP, chỉ số phát triển con
người (HDI: tuổi thọ, trình độ học vấn, mức sống) của Việt Nam có xu hướng gia


tăng, từ xếp thứ 116/174 nước (năm 1993) lên thứ 109/174 nước (năm 2000),
nhưng năm 2003 lại tụt xuống thứ 112/174 nước. Năm 2005 tăng 4 bậc (đạt 0,704
điểm), lên mức 108/ 177 nước. Đóng góp vào chỉ số chung này thì chỉ số phát triển
kinh tế (K) đạt 0,54; chỉ số tuổi thọ (T) đạt 0,76; chỉ số phát triển giáo dục (G) đạt
0,82. Chỉ số phát triển giáo dục đã có đóng góp nhiều nhất vào HDI, vì vậy nâng
giá trị và thứ hạng HDI của nước ta lên (nước ta có thành tựu số người lớn biết chữ
là 90,3%, số đi học trong độ tuổi 6-24 là 64%). Do vậy: G = 0,93x 2+0,64 = 0,82.
3
Biểu 1.6: HDI của Việt Nam
Năm

Chỉ số HDI

1990
1995
2000
2004
2005

0,608
0,539
0,671
0,691
0,704


Thứ bậc so với các
nước tham gia xếp
hạng
74/130
120/174
108/174
112/177 nước
108/177 nước

Chỉ số
giáo dục
0,78
0,83
0,82
0,82

Nguồn: Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện đại hội X của Đảng; Nxb
CTQG, Hà Nội 2006, trang 17.
Nước ta là một trong mười nước có chỉ số xếp hạng về HDI cao hơn xếp
hạng GDP/ người trên 20 bậc, điều này chứng tỏ nước ta đã cố gắng tăng trưởng
kinh tế với phát triển xã hội, quan tâm đến các yếu tố sức khỏe, y tế, giáo dục…
(tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 68,5, 90% dân số được tiếp
cận các dịch vụ xã hội). Một trong những yếu tố làm cho HDI của Việt Nam còn ở
mức thấp là do chỉ số GDP bình quân đầu người còn quá thấp. Vì vậy, mục tiêu
tăng trưởng kinh tế để sớm đưa VN ra khỏi vị trí nước kém phát triển là mục tiêu
hàng đầu. Như vậy trên thực tế, tồn tại những quốc gia có trình độ phát triển kinh
tế- xã hội ở mức cao, nhưng chỉ số này không được cao, trong khi đó nước có trình
độ phát triển thấp, nhưng chỉ số HDI lại ở mức tương đối như Việt Nam. Do đó,



chỉ số HDI tuy không phản ánh trực tiếp chất lượng nguồn nhân lực, song nó cho
biết khá rõ môi trường xã hội ở đó nuôi dưỡng và phát triển NNL chất lượng cao.
1.1.3.4. Kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực tiễn, phẩm chất đạo
đức, thái độ và phong cách làm việc của người lao động
Tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều
nhà nghiên cứu lý luận nước ta cho rằng, khi nói tới NNL thì ngoài thể lực và trí
lực của con người cũng cần phải nói tới kinh nghiệm sống, năng lực hiểu biết thực
tiễn và nắm bắt nhu cầu thị trường của họ. Bởi vì, ngoài thể lực và trí lực, cái làm
nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm
trải trực tiếp của con người.
Đồng thời, khi xem xét chất lượng NNL con người, không thể không nói đến
đạo đức, nhân cách, thái độ và phong cách làm việc của con người. Đây là những
phẩm chất đạo đức, tinh thần có vai trò hết sức quan trọng, ảnh hưởng đến chất
lượng của con người, nó thúc đẩy tính tích cực và làm gia tăng hiệu quả hoạt động
của con người. Do vậy, phát triển NNL trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường,
đòi hỏi người lao động phải có hàng loạt phẩm chất cần thiết như: có ý thức tổ
chức kỷ luật; tự giác trong lao động, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, tác
phong làm việc nhanh nhẹn, chính xác, có lương tâm nghề nghiệp…tất cả những
phẩm chất đó nằm trong phạm trù đạo đức của con người, tức là đào tạo con người
“vừa hồng, vừa chuyên”. Trong thực tế ở nước ta lực lượng lao động còn hạn chế
về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; năng
lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử dụng lao động, nên
còn một tỷ lệ đáng kể lao động không tìm kiếm được việc làm thích hợp hoặc làm
không đúng với trình độ và nghề được đào tạo. So với các nước trong khu vực, thứ
bậc xếp hạng về chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn thấp (VN chỉ đạt
3,79/10 so với Trung Quốc là 5,73/10 và Thái Lan là 4,04/10).


1.2. VAI TRÒ CỦA NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO ĐỐI VỚI PHÁT

TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG

1.2.1. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao
Một là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH rút ngắn.
Đối với NNL quá trình CNH, HĐH sẽ thúc đẩy sự phát triển, sự thay đổi về
nhiều mặt. Chẳng hạn, nó làm thay đổi cơ cấu NNL, làm chuyển biến từ một cơ
cấu lạc hậu sang một cơ cấu tiến bộ hơn; cơ cấu các khu vực lớn trong kinh tế, cơ
cấu các ngành kinh tế kỹ thuật, cơ cấu trong nội bộ mỗi ngành, cơ cấu NNL ở từng
vùng, từng địa phương cho đến cơ cấu NNL trong nội bộ từng doanh nghiệp. CNH,
HĐH là một yếu tố tác động rất mạnh đến NNL và phát triển NNL.
Đối với Việt Nam, bước vào giai đoạn CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế
tri thức trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế-xã hội còn thấp, do đó yêu cầu
nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công
của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và phát triển bền vững. Bởi vì: Việt Nam đang
trong quá trình hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, riêng về kinh tế, mục tiêu này
ngày càng mở rộng được thị trường, bán được nhiều hàng hóa dịch vụ. Muốn thế,
phải có sức mạnh trong cạnh tranh, tức là chất lượng và giá cả. Chất lượng và giá
cả hàng hóa lại phụ thuộc vào hai yếu tố chủ chốt: đó là trình độ công nghệ của sản
xuất và trình độ chuyên môn, kỹ thuật của nguồn nhân lực. Hơn nữa, quá trình hội
nhập kinh tế thế giới là quá trình giao lưu, trao đổi giữa Việt Nam và các nước trên
thế giới về hàng hóa dịch vụ, tiền tệ, công nghệ mới, NNL… theo hai chiều ra và
vào. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài và công nghệ mới vào Việt Nam kéo theo công
việc làm, các nghề mới, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý…Những diễn biến này
tác động trực tiếp vào NNL và phát triển NNL chất lượng cao của Việt Nam.
Do vậy, phát triển NNL ở Việt Nam đặc biệt quan trọng cho sự thành công
của CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Cho nên, cần tạo ra và cải thiện tất cả


các điều kiện cần thiết để phát triển NNL nhanh, có chất lượng, đáp ứng nhu cầu

cấp bách của công cuộc đổi mới, của CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để rút ngắn khoảng
cách tụt hậu và tăng trưởng nhanh
Trong quá trình đẩy mạnh CNH,HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
đang đứng trước thách thức rất lớn về NNL chất lượng cao. Tỷ lệ nguồn nhân lực
chất lượng cao cón thấp so với nhu cầu của thực tế. Đến năm 2005, lao động qua
đào tạo có tăng, song đến nay mới chỉ đạt 24,8% chỉ tăng 2,2% so với năm trước
(chưa đạt mục tiêu do đại hội IX của Đảng đề ra là 30%).
Trong khi dư thừa rất lớn lao động phổ thông, thì lại thiếu hụt nghiêm trọng
lao động có trình độ cao, nhất là lao động cung cấp cho các khu công nghiệp, khu
chế xuất và cho xuất khẩu lao động. Đây là tình trạng đáng báo động, không phù
hợp với quy luật tăng trưởng là tỷ lệ tăng trưởng lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật bao giờ cũng phải cao hơn tốc độ tăng GDP để đảm bảo tăng GDP một
cách vững chắc.
Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn là nước nông
nghiệp, nên ngay cả NNL được gọi là chất lượng cao vẫn còn mang nặng thói quen
và tập quán của người tiểu nông, thiếu năng động, tính tổ chức kỷ luật trong nền
sản xuất công nghiệp hiện đại còn yếu, thích tự do, tác phong công nghiệp, trình độ
văn hóa còn thấp. Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam còn khoảng cách khá xa so
với một số nước Đông Á. Cụ thể, ta đang ở mức gần tương đương với Indonesia,
nhưng thua hầu hết các nước và lãnh thổ khác như Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore,
Đài Loan, Trung Quốc, Malaysia, Hồng Kông, Thái Lan, Philippin... Từ đó dẫn
đến một loạt các yếu kém khác như trình độ vận dụng khoa học kỹ thuật kém, năng
suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao và dương nhiên dẫn đên sức cạnh tranh
của nền kinh tế nước ta còn ở vị trí rất thấp. Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế
giới, đã không được cải thiện hơn mà còn suy giảm. Năm 2004, xếp hạng 77/104
nước. Năm 2005 tụt xuống thứ 81/104 nước.


Với mục tiêu phát triển NNL đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một

nước công nghiệp, có cơ cấu công, nông và dịch vụ trong GDP chiếm khoảng 8590%, nông nghiệp chỉ còn 10-15% thì nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao theo dự báo như sau:
Biểu 1.7: Dự báo nhu cầu đào tạo
Năm
2000
2005
2010
2020

Tỷ lệ lao động được đào
tạo(%)
20
30
40
60

Tỷ lệ lao động được đào
tạo nghề(%)
13,4
18-19
26,6
44

Nguồn: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp CNH,HĐH
đất nước, Nguyễn Đình Luận, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, tháng
7/2005.
Như vậy, vấn đề cơ bản, có tính chất chiến lược trong phát triển NNL chất
lượng cao là phải tăng nhanh về số lượng để nâng cao tỷ lệ lao động được đào tạo,
đặc biệt chú trọng đào tạo nghề, đảm bảo cơ cấu đào tạo hợp lý giữa đại học, cao
đẳng trở lên so với trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề, đồng thời nâng cao

chất lượng NNL với tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp,
phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu kinh tế tri thức ở Việt Nam, có như thế
mới rút ngắn được khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới,
góp phần tăng trưởng nhanh và bền vững.
Ba là: Nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực chủ yếu tiếp cận và phát
triển nền kinh tế tri thức.
Thực tế, quá trình CNH ở các quốc gia trên thế giới cho thấy: trong tiến trình
CNH, nếu nước nào biết dựa vào việc khai thác và sử dụng năng lực của nguồn
nhân lực, thì luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định như Nhật Bản, Phần


Lan, Ireland...là những nước nghèo tài nguyên nhất, nhưng đã vươn lên thành
những quốc gia giàu có hàng đầu.
Không ai nhiều dầu lửa hơn các nước Trung Đông, nhưng chưa có quốc gia
nào ở đó vượt lên để gia nhập nhóm” các nước phát triển” mà mãi vẫn dừng lại ở”
các nước đang phát triển”. Không đâu đất đai rộng lớn hơn châu Phi. Nhưng hầu
hết các quốc gia đó vẫn đang ở mức "kém phát triển”.
Nhà báo Thomas Friedman của tờ báo New York Times đã đưa ra khái niệm
dùng trọng lượng của sản phẩm để so sánh trình độ quốc gia. Hãy xem ví dụ: để
thu được 500USD, người ta có thể làm gì?
Để thu được 500USD? Tập đoàn than và khoáng sản Việt Nam bán 5 tấn
than đá, Nông dân ở đồng bằng Sông Cửu Long bán 2 tấn gạo, Trung Quốc bán
chiếc xe gắn máy trọng lượng 100kg, Hãng Sony bán chiếc tivi trọng lượng 10 kg,
Hãng Nokia bán chiếc điện thoại trọng lượng 0,1kg, Hãng Intel bán con chip máy
tính trọng lượng 0,01 kg, Hãng Microsoft bán một phần mềm trọng lượng 0 kg.
Còn nhiều nữa, những sản phẩm giá trị nhất nhưng trọng lượng chỉ 0 kg đó
là những phát minh sáng chế hay giá trị thương hiệu...Hàm lượng tri thức càng cao,
trọng lượng sản phẩm càng nhẹ [51]. Ngày nay tất cả những quốc gia hùng mạnh
đều nhờ vào một yếu tố: trình độ giáo dục, và từ đó là trình độ công nghệ. Đó là kỷ
nguyên của nền kinh tế tri thức.

Như vậy, nhân tố đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của các
quốc gia chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, chứ không chỉ là nguồn của cải
vật chất. Do vậy, hình thành và phát triển NNL có chất lượng cao là yếu tố quan
trọng nhất không chỉ trong sự phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia, mà còn
tạo cơ hội tiếp cận kinh tế tri thức.
Tóm lại: Động lực, mục tiêu của sự phát triển và tác động của sự phát triển
tới bản thân con người cũng nằm trong chính bản thân con người. Điều dó lý giải
tại sao con người, mà trước hết là NNL chất lượng cao, được coi là nhân tố năng


×