GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT NGUỒN NHÂN LỰC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CNH, HĐH Ở CÁC TỈNH MIỀN ĐÔNG
NAM BỘ ĐẾN NĂM 2020
3.1. Những yêu cầu và định hướng phát triển nguồn nhân lực trong hội nhập ở Vùng ĐNB
3.1.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực
3.1.1.1. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực của Đảng ta
Quan điểm chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực là:
+ Lấy phát triển bền vững con người làm trung tâm;
+ Mỗi con người là một cá nhân độc lập làm chủ quá trình lao động của mình;
+ Lấy lợi ích của người lao động làm nguyên tắc cơ bản của quản lý lao động, nhằm tăng năng suất lao động;
+ Bảo đảm môi trường dân chủ thuận lợi cho tiến hành giao lưu đồng thuận; tạo cơ hội thăng tiến cho tất cả mọi người;
+ Có chính sách giải phóng và phát huy tiềm năng của người lao động, bảo đảm hiệu quả công việc;
+ Phát triển nguồn nhân lực bám sát thị trường lao động. Đây là một vấn đề rất phức tạp, trong đó mấu chốt là phải xây dựng được các chính sách quản lý phát
triển giáo dục và đào tạo đúng đắn;
+ Có hệ thống chính sách sử dụng phù hợp nguồn nhân lực bao gồm tuyển dụng, chính sách lao động, phân công lao động, phân bố nguồn nhân lực, chính
sách cán bộ, tiền lương, khen thưởng, v.v...
Vấn đề tạo ra động lực để kích thích mọi người chăm học, chăm làm, động viên tính tích cực xã hội của người lao động làm cho họ năng động, thiện chí, cầu
tiến, từ đó đi đến sáng tạo... là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô, cũng như vi mô nguồn nhân lực, lực lượng lao động. Ở đây, cần chú ý cả
lợi ích vật chất, cả nhu cầu tinh thần của con người.
Ngày nay, vấn đề "Phát triển tài nguyên con người" (Human Resources Development) được thế giới xác định là vấn đề quan trọng nhất trong sự phát triển. Nó
vừa có tính chất "mục đích" vừa có tính chất "phương tiện". Phát triển để phục vụ cho chính con người và nguồn nhân lực cũng là yếu tố sản xuất có tính chất quyết
định nhất để phát triển kinh tế xã hội nói chung. Lý thuyết kinh tế phát triển cho thấy, để xã hội phát triển đạt kết quả cao, cần phải dựa vào 04 yếu tố cơ bản cần
thiết cho tăng trưởng và phát triển kinh tế: Tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ và nguồn nhân lực. Đặc biệt, đối với nước ta, một nước có xuất
phát điểm thấp, tài nguyên thiên nhiên mặc dù đa dạng, nhưng trữ lượng ít; nguồn vốn hạn hẹp; kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, việc xây dựng nguồn nhân lực có
chất lượng cao là một lợi thế so sánh tương đối của đất nước hiện nay. Chính vì thế, yếu tố NNL trong công cuộc xây dựng đất nước cần được xem là yếu tố phát
triển quan trọng nhất.
3.1.1.2. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực Vùng ĐNB
Chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn lực con người là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược con người, là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo dục
nước ta nói chung và Vùng ĐNB nói riêng trong những năm tới, nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để tiến hành CNH, HĐH, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, mọi người, mọi nhà ấm no, hạnh phúc, có thể hội nhập vào xã hội tương lai của loài người đang hướng tới. Trong công việc trọng đại
này, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nhân tài có một ý nghĩa đặc biệt, nhất là trong thời đại thông tin, công nghệ cao, kinh tế tri thức và toàn cầu hoá.
Với mục tiêu tổng quát: tạo ra một nguồn nhân lực đủ về số lượng, cao về trí tuệ, thành thạo về kỹ năng, khỏe mạnh về thể chất, trong sáng về đạo đức, linh
hoạt và văn minh trong ứng xử, hợp lý về cơ cấu, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH của Vùng ĐNB, theo nhóm nghiên cứu, nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực của Vùng ĐNB cần xuất phát từ các quan điểm sau đây:
Quan điểm 1: Phát triển nguồn nhân lực phải dựa trên quan điểm “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”, “con người và nguồn nhân
lực là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ CNH-HĐH”. Đó là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển KT - XH của
cả nước nói chung và của Vùng ĐNB nói riêng.
Quan điểm 2: Phát triển nguồn nhân lực phải sử dụng tổng hợp nhiều giải pháp, trong đó giáo dục - đào tạo phải được coi là “quốc sách hàng đầu”, là chìa
khóa để phát triển nguồn nhân lực - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; coi trọng vai trò của lực lượng trí thức và trọng dụng
nhân tài.
Quan điểm 3: Phát triển nguồn nhân lực là phát triển năng lực của con người (bao gồm trí lực, thể lực và nhân cách, thẩm mỹ) và sử dụng những năng lực đó
một cách có hiệu quả. Đó là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH. Phát triển nguồn
nhân lực trong giai đoạn hiện nay phải hướng tới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH, tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, đồng thời bảo tồn các giá trị
truyền thống và văn hóa tốt đẹp của dân tộc, của Vùng ĐNB.
Quan điểm 4: Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với tăng trưởng và phát triển kinh tế, đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội và tạo điều kiện cho mỗi cá nhân
đều có cơ hội được phát triển toàn diện. Trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB phải gắn với phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tiến bộ, chuyển đổi bộ mặt nông thôn của Vùng ĐNB theo hướng hiện đại hóa nông thôn; với việc nâng cao dân trí, thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu
vật chất, tinh thần của người dân, tạo ra động cơ thúc đẩy và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Quan điểm 5: Phát triển nguồn nhân lực phải xuất phát từ điều kiện đặc thù của Vùng ĐNB, trên cơ sở phát huy những tiềm năng và thế mạnh của Vùng.
Đồng thời, kết hợp sự hỗ trợ, giúp đỡ từ ngoài Vùng ĐNB, kế thừa những kinh nghiệm trong nước và quốc tế.
3.1.2. Nội dung định hướng phát triển nguồn nhân lực ở Vùng ĐNB
3.1.2.1. Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sử dụng công nghệ mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế
Quá trình công nghiệp hóa ở nước ta nói chung và ở Vùng ĐNB nói riêng vừa có bước tuần tự vừa có bước nhảy vọt, tức là vừa đẩy
nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, từ đó nâng cao năng lực sản xuất của những ngành công nghiệp cơ bản, giải quyết
nhiệm vụ cấp bách mà xã hội đặt ra là nâng cao mức sống của người dân, xóa đói giảm nghèo, việc làm,… vừa phát triển nhanh các ngành
kinh tế hiện đại, dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin để hiện đại hóa và nâng cao năng lực cạnh tranh nền kinh tế,
tạo ngành nghề mới, việc làm mới, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nâng cao khả năng hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực chất của quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng ngành và cả nền
kinh tế quốc dân theo hướng gia tăng hàm lượng tri thức trong từng sản phẩm sản xuất, gia tăng giá trị. Trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế
vẫn tiếp tục sử dụng công nghệ truyền thống nhưng được cải tiến bằng những tri thức mới để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tạo
việc làm, tận dụng lao động, đất đai tài nguyên, xóa đói giảm nghèo, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Vùng ĐNB có vị trí
vai trò đặc biệt trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, do đó đòi hỏi Vùng này phải có nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh hội nhập và phát triển kinh tế tri thức.
Tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, phân công lao động xã hội có những thay đổi phù hợp. Cơ cấu lao động vùng sẽ
chuyển dịch theo hướng tăng lao động dịch vụ và nông nghiệp. Năng suất lao động trong hai khu vực này cũng sẽ tăng tương ứng (Bảng
3.1).
Bảng 3.1: Cơ cấu sử dụng lao động và năng suất lao động vùng ĐNB
Lao động trong ngành của vùng
Tỷ trọng (%)
Công nghiệp và xây dựng
Nông, lâm, ngư nghiệp
Dịch vụ
Năng suất lao động (1000 đồng)
Chung toàn nền kinh tế
Công nghiệp và xây dựng
Nông, lâm, ngư nghiệp
Dịch vụ
2005
6700
100
33,1
28,4
38,5
2010
7641
100
34,0
25,0
41,0
2015
8188
100
35,0
22,0
43,0
2020
8760
100
35,5
20,0
44,5
26932
44042
8835
25570
35216
55241
11232
33235
51905
80651
14147
47826
76794
119697
17275
69318
Nguồn: Tính toán của tác giả từ thống kê vùng và các tài liệu dự báo
3.1.2.2. Sử dụng tri thức để CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
Sử dụng tri thức và thông tin để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với quá trình CNH,
HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của Vùng ĐNB nói riêng và nước ta nói chung. Có như vậy chúng ta mới đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, góp phần nâng cao năng suất lao động, nếu không nhanh chóng hiện đại hóa nông nghiệp, chuyển
lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là phát triển ngành nghề mới dựa trên tri thức, công nghệ hiện đại thì
không thể tăng năng lực và khả năng cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập và phát triển kinh tế tri thức.
3.1.2.3. Phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa trên tri thức và công nghệ cao
Các ngành công nghiệp mới cần đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất, để tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường thế
giới. Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, trước hết là công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông, các ngành công nghiệp sinh học, các
ngành cơ điện tử, quang điện tử, các ngành vật liệu mới, năng lượng mới,… Phát triển các ngành sử dụng công nghệ hiện đại sẽ góp phần đổi mới công nghệ trong
tất cả các ngành, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng nhanh hàm lượng kinh tế tri thức. Phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ công nghệ
thông tin không chỉ thúc đẩy đổi mới của các doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động, chất lượng hiệu quả của sản xuất kinh doanh mà còn tạo điều kiện cho đổi
mới tổ chức và quản lý, cải cách hành chính, làm việc qua mạng Internet, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
3.1.2.4. Phát triển giáo dục - đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực
Giáo dục - đào tạo nước ta cũng như Vùng ĐNB đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn: Một mặt phải khắc phục những yếu kém bất cập, phát
triển mạnh mẽ để thu hẹp khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang đổi mới và phát triển. Mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối, giữa yêu cầu
phát triển nhanh quy mô và nguồn lực còn hạn chế đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng, giữa yêu cầu vừa tạo được chuyển biến cơ bản, toàn diện vừa giữ được sự ổn
định tương đối của hệ thống giáo dục.
* Về tính chất giáo dục: Là nền giáo dục tiến bộ, giàu tính nhân văn theo định hướng XHCN vì sự phát triển toàn diện của con người. Đây là nền giáo dục
thực sự của dân, do dân, vì dân, là sự phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về một nền giáo dục nhân văn.
* Về mục tiêu giáo dục: Giáo dục phải đào tạo những con người Việt Nam vừa có những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc vừa có năng lực, bản lĩnh để thích ứng
với mọi biến đổi đa dạng và nhanh chóng của thị trường. Thế hệ trẻ do nhà trường đào tạo phải có đầy đủ ý thức trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, đất nước,
phải năng động, sáng tạo, trung thực, phải tích cực học tập và học tập suốt đời; có ý chí vươn lên mạnh mẽ, có khả năng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, vừa góp
phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển KT - XH của đất nước, vừa nâng cao chất lượng cuộc sống của cá nhân.
- Trong bối cảnh thời đại và đất nước hiện nay, để tồn tại và phát triển, con người phải học tập suốt đời, xã hội phải là một xã hội học tập. Giáo dục phải thoả
mãn những nhu cầu học tập khác nhau của các đối tượng khác nhau, do đó phải tiến hành đa dạng hoá trong giáo dục từ loại hình đến nội dung, phương thức giáo
dục và đa dạng hoá phải được thực hiện trên cơ sở chuẩn hoá. Thực hiện xã hội hoá giáo dục là giải pháp cơ bản để xây dựng xã hội học tập.
- Trong bối cảnh thế giới hiện nay hội nhập quốc tế về giáo dục không chỉ là xu thế và đòi hỏi khách quan mà còn là động lực quan trọng để phát triển giáo
dục.
- Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Đổi mới tư duy giáo dục cần được thấu suốt trong mọi cấp, mọi ngành, từ đội ngũ lãnh đạo, cán bộ
quản lý các cấp, đội ngũ giáo viên và học sinh đến đông đảo các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy trí tuệ, khơi dậy tiềm năng, truyền thống hiếu học và sức mạnh
sáng tạo của toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Đổi mới tư duy giáo dục chỉ có ý nghĩa khi những tư tưởng mới được
thể hiện cụ thể trong thực tiễn hoạt động giáo dục: Trong việc xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân, trong việc xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục,
tạo dựng môi trường giáo dục, trong việc hoạch định chính sách giáo dục và thực hiện các hoạt động giáo dục khác…
3.1.3. Dự báo xu hướng biến đổi và nhu cầu sử dụng của nguồn nhân lực Vùng ĐNB
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Tạo ra khối lượng thông tin và
tri thức nhân loại tăng nhanh với gia tốc lớn, điều này vừa khiến cho vòng đời của thông tin nhanh chóng bị rút ngắn lại, thông tin nhanh chóng bị lạc hậu, nhưng
với khối lượng đồ sộ của thông tin bắt buộc hoạt động của con người phải tăng tốc, phải được nâng cấp để bắt kịp sự biển đổi này.
- Nền kinh tế toàn cầu đang chuyển dịch nhanh chóng sang dạng kinh tế tri thức (knowledge-based economy), nhất là ở các quốc gia phát triển. Tuy nhiên đây
lại là điều rất khó khăn đối với các nước kém phát triển để có thể bắt kịp. Do vậy khoảng cách cách biệt vốn có giữa nước giàu và nước nghèo trên thế giới lại có
điều kiện mở rộng hơn.
Hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển. Nếu trước đây sự phát triển của một quốc gia, lãnh thổ chủ yếu dựa
vào các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn tư bản, nguồn lao động đông đúc, thị trường tiêu thụ... nhưng trong giai đoạn hiện nay chính là tri thức
(knowledge) lại có ý nghĩa hết sức lớn lao, tạo nên sự thịnh vượng, giàu có cho một quốc gia, lãnh thổ một cách vững chắc, lâu dài.
- Xu thế toàn cầu hoá (globalization) và sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra đời của mạng internet hầu như bao phủ khắp mọi nơi trên hành
tinh chúng ta. Điều này khiến cho các quốc gia, lãnh thổ trên thế giới ngày càng trở nên gần gũi với nhau hơn, khái niệm “Global village” (ngôi làng trái đất) xuất
hiện và ngày càng phổ biến trong cuộc sống nhân loại. Các tổ chức quốc tế và khu vực như WTO, EU, AFTA, ASEAN, NAFTA... thu hút nhiều quốc gia, lãnh thổ
cùng tham gia, nhưng qua đó sự cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn nhiều. Và tất nhiên ưu thế hầu như bao giờ cũng nghiêng về quốc gia, lãnh thổ nào có chất
lượng nguồn nhân lực cao hơn, được đào tạo tốt hơn.
Từ bối cảnh trên cho thấy, quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế của nước ta cũng như Vùng ĐNB đang phải đối đầu với nhiều thách thức của thời đại,
trong đó thách thức về chất lượng nguồn nhân lực là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Nguồn nhân lực ngày nay đòi hỏi phải
thông minh, có tính linh hoạt cao, có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, có khả năng sáng tạo, có khả năng làm việc với nhiều người, có
tính độc lập v.v... Kinh nghiệm của các nước phát triển và các nước công nghiệp mới trên thế giới cho thấy chính một nền giáo dục phát triển sẽ đáp ứng được việc
cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và đây là nguồn động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của quốc gia.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với sự gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới - WTO cuối năm 2006 đang mở ra những cơ hội mới cho
Việt Nam trong phát triển thương mại quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài; tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế
trong sự phân công lao động xã hội toàn cầu. Vùng ĐNB cũng nằm trong xu hướng đó và chiến lược phát triển KT - XH của Vùng với ưu tiên hàng đầu là nâng cao
năng lực cạnh tranh nhất là đối với doanh nghiệp trên quan điểm lấy hiệu quả và lợi thế so sánh làm thước đo, gắn chặt với phân công lao động trong vùng, trong
nước và quốc tế. Chính vì vậy yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế Vùng ĐNB trong giai đoạn này là: Thúc đẩy sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ ngang bằng với
tốc độ của khu vực công nghiệp và xây dựng, tạo điều kiện để khu vực dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao hơn khu vực công nghiệp và xây dựng trong giai đoạn sau
năm 2010. Trong nội bộ ngành, cần có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ hiện đại, tăng tỷ trọng các ngành thâm dụng kỹ thuật cao,
chất xám và giá trị gia tăng cao. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vùng ĐNB đến năm 2020, cùng với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nền kinh tế
phát triển trong vùng như TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương sẽ có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trên phạm vi
toàn vùng.
Cơ cấu kinh tế của Vùng ĐNB giai đoạn 2011 - 2020 sẽ chuyển theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Tập trung phát triển các ngành, các sản
phẩm mà các tỉnh, thành phố trong vùng có lợi thế cạnh tranh so với các địa phương khác trong cả nước. Liên kết, hợp tác với nhau giữa các tỉnh trong vùng để đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng trên cơ sở hình thành rõ nét những động lực, mũi nhọn, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế; tạo chuyển biến về phân công lao động xã hội, trong đó tăng tỷ lệ lao động làm việc trong các lĩnh vực công nghệ cao, tăng tỷ lệ lao động làm việc
trong các ngành và lĩnh vực tạo ra sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là sản phẩm dịch vụ xuất khẩu.
Đối với cơ cấu ngành kinh tế, tập trung chuyển dịch sang các ngành công nghiệp hiện đại, kỹ thuật cao, những ngành sản xuất có giá trị gia tăng cao. Tập
trung phát triển các ngành dịch vụ cao cấp, dịch vụ hỗ trợ sản xuất.
Thay đổi mô hình tăng trưởng, từ tăng trưởng kinh tế dựa vào các yếu vốn và lao động chuyển sang dựa vào sử dụng công nghệ cao tạo ra, nâng cao năng suất
lao động, từ đó tìm kiếm những hướng đi mới, những phương thức kết hợp có hiệu quả nhằm phát huy cao độ lợi thế so sánh và khai thác triệt để tiềm năng, thế
mạnh của từng địa phương, nâng cao sức cạnh tranh của vùng trong hội nhập.
Cơ cấu nông nghiệp và phi nông nghiệp chuyển đổi theo hướng phát triển nhanh những ngành phi nông nghiệp (công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương
mại, và dịch vụ) và ngay trong khu vực nông nghiệp có sự chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn để thu hút lao động, nâng cao mức sống nhân
dân. Tập trung phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, có hàm lượng tri thức cao, giá trị gia tăng lớn, giảm phát triển các ngành thâm dụng lao động giản
đơn, các ngành thâm dụng tài nguyên thiên nhiên ở các địa phương như TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương. Mặt khác, tăng tỷ trọng giá trị gia
tăng của các ngành mũi nhọn, gồm: (1) cơ khí chế tạo, (2) điện tử - tin học – viễn thông, (3) công nghiệp hóa chất và dược phẩm, (4) ứng dụng công nghệ sinh học
trong ngành y dược. Đối với các tỉnh còn lại như Bình Phước, Tây Ninh, chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp thời kỳ tới vẫn là phát triển các ngành cần nhiều lao
động, có tiềm năng tài nguyên, nguyên liệu nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Vùng ĐNB sẽ chú trọng ứng dụng
khoa học kỹ thuật để tăng năng suất, ứng dụng công nghệ sinh học để phát triển nông nghiệp, hình thành khu nông nghiệp kỹ thuật cao. Đối với khu vực dịch vụ, tập
trung phát triển các ngành dịch vụ mới, cao cấp. Phát triển khu vực dịch vụ để đáp ứng nhu cầu hỗ trợ sản xuất phát triển không chỉ cho vùng mà còn cho cả nước,
đủ sức cạnh tranh với các khu vực khác. Phát triển các ngành dịch vụ tài chính, tiền tệ, ngân hàng, bảo hiể, thương mại (dịch vụ thương mại quốc tế), dịch vụ vận tải
và kho vận quốc tế, dịch vụ viễn thông và giá trị gia tăng, công nghệ thông tin – truyền thông, dịch vụ bất động sản. Tạo cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển
dịch vụ tư vấn, nghiên cứu và triển khai, du lịch quốc tế, y tế (dịch vụ y tế kỹ thuật cao), giáo dục đào tạo.
Do đó, nhu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ có những biến đổi cơ bản:
- Trong những năm tới, công nghiệp TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu là những địa phương sẽ đẩy mạnh phát triển các ngành kỹ thuật
cao, hàm lượng chất xám nhiều, vừa củng cố các ngành công nghiệp truyền thống, vừa tập trung hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu công nghiệp sang các sản phẩm và ngành
công nghiệp có giá trị lớn và có lợi thế cạnh tranh: cơ khí chế tạo, điện tử - viễn thông - tin học, công nghiệp hóa chất và dược phẩm, chế biến lương thực- thực
phẩm. Chính vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực có chất lượng cao, có chuyên môn kỹ thuật, có tay nghề sẽ ngày càng lớn. Tương ứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ngành, phân công lao động xã hội có những thay đổi phù hợp. Cơ cấu lao động vùng sẽ chuyển dịch theo hướng tăng lao động dịch vụ và công nghiệp. Năng suất
lao động trong hai khu vực này cũng sẽ tăng tương ứng (xem phụ lục 2).
- Theo nhóm nghiên cứu, xu hướng tăng nhanh tỷ trọng khu vực dịch vụ của Vùng sẽ làm tăng nhu cầu nguôn nhân lực chất lượng cao. Nhu cầu lao động sẽ
tăng cao ở các ngành dịch vụ cao cấp như: tài chính - tín dụng - ngân hàng, bảo hiểm, thương mại - các loại dịch vụ phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu - ngành dịch
vụ logistics (giao nhận - kho vận), dịch vụ vận tải - kho bãi, dịch vụ cảng, bưu chính viễn thông - CNTT - truyền thông, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tư vấn
KH-CN, du lịch, y tế và giáo dục- đào tạo chất lượng cao. Theo nhận định của nhiều chuyên gia thì thị trường lao động Việt Nam cũng như Vùng ĐNB sau khủng
hoảng vẫn sẽ tiếp tục thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cấp quản lý trở lên ví dụ như các chức danh giám đốc bán hàng, giám đốc tiếp thị, trưởng phòng đối
ngoại… Theo một cuộc điều tra tiến hành tại 630 doanh nghiệp trên hai vùng kinh tế trọng điểm là Hà Nội, TP.HCM và các tỉnh lân cận của VCCI năm 2009 thì
bức tranh về tình hình lao động vẫn không mấy thay đổi, thể hiện ở việc các doanh nghiệp thừa nhận việc tuyển dụng lao động chất lượng cao rất khó khăn. Hầu hết
các doanh nghiệp được điều tra đều cho rằng tuyển dụng cán bộ quản lý giỏi còn khó hơn nhiều. Đồng thời, việc giữ lao động ở lại doanh nghiệp mình cũng là vấn
đề không dễ dàng. Khi được hỏi về việc giữ lao động giỏi tại doanh nghiệp thì có tới 59% doanh nghiệp khu vực tư nhân, 47% doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài,
và 65% doanh nghiệp nhà nước cho rằng việc giữ lao động giỏi ở lại doanh nghiệp là rất khó. Điều này một lần nữa cho thấy sau khi cuộc khủng hoảng tài chính
qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối cung – cầu trên thị trường lao động
sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu như không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này.
- Nhu cầu về lao động phổ thông, không có tay nghề có xu hướng giảm do các ngành thâm dụng lao động, kỹ thuật thấp sẽ được chuyển sang các vùng lân
cận.
Theo tính toán dự báo của nhóm nghiên cứu, tỷ trọng các ngành nghề có nhu cầu thu hút lao động trong các doanh nghiệp tại Vùng ĐNB từ nay đến năm 2015
sẽ có rất nhiều biến động, nhất là sau khi tình hình kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu phục hồi. Trong khi lao động ở các ngành dệt may và giày da sẽ giảm từ
32,10% năm 2010 xuống còn 17% năm 2015 thì lao động trong các ngành nghề sản xuất công nghệ cao sẽ tăng từ 10-30%.
Đồ thị 3.1: Dự báo tỷ trọng các ngành nghề có nhu cầu thu hút lao động trong các doanh nghiệp tại Vùng ĐNB (Đơn vị tính: %)
Nguồn: Theo tính toán của nhóm nghiên cứu dựa trên
VHLSS2008
- Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực diễn ra ở nhiều ngành nghề của Vùng ĐNB. Tình trạng thiếu hụt lao động này không còn dừng lại ở một số ngành nghề
mà đã trở thành vấn đề chung của tất cả các doanh nghiệp trên đại bàn trong vùng. Thông qua các phiên giao dịch của Sàn giao dịch việc làm do Trung tâm giới
thiệu việc làm của các tỉnh, thành trong vùng tổ chức, chỉ tiêu tuyển dụng của các doanh nghiệp ở mỗi phiên giao dịch luôn ở mức trên 10 nghìn người, nhưng tỷ lệ
lao động được tuyển dụng luôn ở mức rất thấp [34,tr.8]. Sự thiếu hụt lao động diễn ra mạnh ở các lĩnh vực giầy da, may mặc, chế biến thực phẩm, điện - điện tử. Sự
mất cân đối cung cầu đang diễn ra chủ yếu ở các ngành đang phát triển, cần nhiều lao động kỹ thuật cao như CNTT, quản lý chất lượng sản phẩm, kỹ thuật công
nghiệp, du lịch, tài chính, ngân hàng, ở các ngành dịch vụ như bán hàng, phục vụ, quảng cáo, tiếp thị.
Sự phát triển nhanh về kinh tế đã dẫn đến sự xáo trộn trên thị trường lao động khi nhu cầu nguồn nhân lực tăng mạnh nhưng nguồn cung chưa sẵn sàng. Nhiều
chuyên gia dự báo rằng, nguồn cung nhân lực của Vùng ĐNB trong thời gian tới có xu hướng giảm sút do nguồn lao động nhập cư có xu hướng giảm vì nhu cầu
phát triển của hầu hết các tỉnh, thành trong cả nước đều tăng. Người lao động có cơ hội tìm kiếm việc làm tại quê hương hoặc các vùng lân cận. Đặc biệt hiện nay ở
TPHCM, Bình Dương, Đồng Nai đang có tình trạng lao động nhập cư, nhất là lao động phổ thông rời bỏ TP.HCM, làm cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng
thiếu hụt nhân công (số lao động nhập cư chiếm đến 40-50% lao động trong các doanh nghiệp ở KCN-KCX). Nguyên nhân chủ yếu, do mức thu nhập của người lao
động ít được cải thiện. Mặc dù so với lao động cả nước, mức thu nhập bình quân trong cùng một ngành nghề của lao động ở Vùng ĐNB có cao hơn, nhưng người
lao động nhập cư phải chịu nhiều áp lực về mức chi phí và giá cả đắt đỏ ở TP.HCM, Bình Dương hay Đồng Nai. Mặt khác, các doanh nghiệp lớn, các KCN-KCX
chưa có giải pháp tích cực về nhà ở cho công nhân cũng như các biện pháp cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần của người lao động nhập cư.
Một thực trạng khác đáng được chú ý là: trong khi nhiều doanh nghiệp thiếu hụt nghiêm trọng lao động, thì vẫn còn một lượng không nhỏ lao động thất
nghiệp, thiếu việc làm, nhất là ở các vùng mới đô thị hóa, các khu vực đất nông nghiệp bị thu hồi giải tỏa.., do không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, học vấn thấp,
không có tay nghề…
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển của vùng hiện nay, mặc dù so với toàn quốc tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật của nguồn nhân lực của Vùng đạt ở mức khá cao. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp trong Vùng ĐNB đều thiếu lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật
cao. Kết quả những lần tổ chức sàn giao dịch việc làm gần đây cho thấy nhu cầu tuyển lao động có tay nghề chuyên môn kỹ thuật của doanh nghiệp chiếm khoảng
80%, trong khi nguồn cung chỉ đáp ứng khoảng 10%[3]. “Khảo sát 16 doanh nghiệp và 16 trường dạy nghề tại TP HCM cho thấy hầu hết lao động khi mới tuyển
dụng đều không đáp ứng yêu cầu chuyên môn kỹ thuật. Đa số doanh nghiệp phải tuyển lao động phổ thông rồi đào tạo nghiệp vụ trong quá trình làm việc”[19]. Vấn
đề chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là vấn đề của TP.HCM, mà đang là vấn đề chung của Vùng ĐNB khi hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Trong thời gian tới, với chiến lược tập trung ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, các ngành dịch vụ hiện đại, nhu cầu về lao động chất lượng cao ngày
càng tăng. Đây là một thách thức không nhỏ buộc Vùng ĐNB phải có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển KT XH của mình trong giai đoạn tiếp theo.
- Biến động lao động trong các KCN-KCX và ở nhiều ngành nghề của Vùng ĐNB, đặc biệt là tại các đơn vị sản xuất thuộc ngành may rất cao, bình quân trên
20%/năm (di chuyển qua lại trong các đơn vị sản xuất ngành may khoảng 40 nghìn người/năm); đối với các doanh nghiệp tư nhân, có những đơn vị biến động lao
động 50-60%/năm. Tỷ lệ lao động thôi việc, bỏ việc, chuyển chỗ làm việc và tỷ lệ lao động tuyển dụng mới cũng rất cao, bình quân 8-20%/năm/doanh nghiệp[17].
Các nhóm nghề dịch vụ như bán hàng, phục vụ, quảng cáo, tiếp thị có nhu cầu tuyển dụng cao, nhưng cũng là những nhóm nghề có tỷ lệ biến động lao động lớn
nhất, khoảng 60-70%, gấp 03 lần so với nhóm ngành nghề gia công, sản xuất. Dịch chuyển lao động ở cả 03 nhóm lao động phổ thông, lao động kỹ thuật và lao
động quản lý từ các KCN, KCX ra bên ngoài có chiều hướng ra tăng, bình quân 7%/năm (trước đây chỉ 3%/năm)[2, tr.11]. Đặc biệt, 1/3 lao động có trình độ cao ở
các KCN-KCX sẵn sàng rời bỏ công việc nếu tìm được nơi làm việc có thu nhập và điều kiện làm việc tốt hơn. Ở lĩnh vực tài chính - ngân hàng - thị trường chứng
khoán cũng có tình trạng tương tự. Sự phát triển của các công ty chứng khoán dẫn đến việc thiếu trầm trọng nhân lực có trình độ ở lĩnh vực này. Việc săn tìm nguồn
nhân lực đã đẩy giá nhân công lên cao và làm cho lao động ở khu vực này liên tục “nhảy việc”. Nguồn lao động được phân bổ và dao động theo từng giai đoạn, sự
thay đổi về cơ cấu ngành nghề góp phần tạo nên sự biến động lớn trên thị trường lao động: nếu trước kia các ngành may mặc, giầy da thu hút nhiều lao động, thì nay
các ngành nghề trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ phát triển mạnh, công việc trong các ngành này thường nhẹ nhàng hơn nên đã thu hút một lượng lao động ở các
ngành khác chuyển sang. Một số nguyên nhân khác khiến người lao động thay đổi chỗ làm việc như: tâm lý mau chán môi trường làm việc nên luôn thay đổi chỗ
làm, không chịu nổi áp lực công việc cũ…Tuy nhiên lương bổng vẫn là vấn đề quan trọng nhất, phần lớn người lao động bỏ việc giữa chừng là muốn tìm một công
việc khác với mức lương cao hơn và có cơ hội phát triển cá nhân.
Sự biến động về nhân lực gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc duy trì và phát triển sản xuất dưới áp lực cạnh tranh nặng nề của thời hội
nhập, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển chung của Vùng ĐNB trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Quan tâm đến đời sống của người
lao động, hỗ trợ, chia sẻ khó khăn cùng với họ là cách tốt nhất để “giữ chân” người lao động.
- Hệ thống thông tin, thống kê về phát triển và sử dụng nguồn nhân lực còn yếu, thiếu độ tin cậy. Các thông tin cơ bản về nguồn nhân lực như: số lượng nguồn
nhân lực đang được sử dụng trong các hoạt động kinh tế, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ thất nghiệp, mức lương, mức cung-cầu nguồn nhân lực…chưa được
cập nhật thường xuyên. Đây lại là những thông tin quan trọng cho việc quản lý vĩ mô và điều chỉnh các hoạt động của thị trường lao động nhằm sử dụng hợp lý
nguồn nhân lực. Các cơ quan quản lý lao động ít nắm được sự di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp, các khu vực kinh tế... do không có mối liên hệ đều đặn với
các chủ sử dụng lao động. Chính vì vậy độ tin cậy của các thông tin, số liệu thu thập được chưa cao. Đây thực sự là một trở ngại lớn đối với yêu cầu đánh giá thực
trạng, phân tích và dự báo xu hướng phát triển của nguồn nhân lực – cơ sở cho việc hoạch định các chính sách và giải pháp để phát triển và nâng cao hiệu quả sử
dụng nguồn nhân lực cho quá trình CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của Vùng.
Đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới phương thức sử dụng nhân lực, phương thức sử dụng nhân lực nhằm khai thác có hiệu
quả lợi thế về nguồn nhân lực, thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm và của doanh nghiệp, rõ ràng là một khâu đột phá có chiến
lược của quá trình CNH, HĐH trong dài hạn.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Vùng ĐNB trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Vùng ĐNB để từ đó phát huy và khai thác có hiệu quả lợi thế nguồn nhân lực phục vụ quá trình CNH, HĐH và đặc
biệt là vấn đề tái cấu trúc lại nền kinh tế sau khủng hoảng là một yêu cầu cấp thiết hiện nay của Vùng ĐNB, để thực hiện những nội dung này, Vùng ĐNB cần tập
trung vào các nhóm giải pháp cơ bản sau:
3.2.1. Nhóm giải pháp tạo môi trường, điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
3.2.1.1. Chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu phát triển KT - XH
Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình là chuyển một bộ phận lao động đang làm với công cụ lao động lạc hậu, năng suất lao động
thấp sang công việc mới có năng suất cao hơn nhờ sử dụng công nghệ hiện đại hơn. Đòi hỏi của quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động là
người lao động phải có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật để có thể tiếp thu được quy trình sản xuất, phương pháp sản xuất, thao tác,
động tác của công việc mới, chính quá trình này nâng cao chất nguồn nhân lực. Cần hoàn thiện môi trường pháp lý, chính sách cho chuyển
dịch cơ cấu kinh tế để tạo tiền đề cho chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ, giảm
dần lao động trong nông nghiệp, điều chỉnh hợp lý phân bổ lao động trong từng ngành. Các địa phương trong Vùng ĐNB cần coi vấn đề tạo
việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược pháp triển các ngành kinh tế. Từ trước đến
nay, mối quan hệ này thường bị xem nhẹ nên quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động bao giờ cũng chậm hơn so với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu lao động nhất là cơ cấu lao động theo ngành kinh tế, theo trình độ công nghệ sản xuất do chuyển dịch cơ cấu
kinh tế quyết định. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc phân bổ đầu tư
cho các ngành, cơ chế, chính sách của từng ngành. Do đó, cơ cấu lao động dịch chuyển nhanh hay chậm phụ thuộc vào quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu lao động đúng hướng, cho phép phát huy hiệu quả trong sử dụng lao động, từ đó nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Về cơ cấu lao động, cần khắc phục tình trạng bất hợp lý trong cơ cấu lao động giữa các ngành, các khu vực sản xuất trong thời gian
qua, từng bước chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp.
Một vấn đề lớn đặt ra trong kế hoạch phát triển KT - XH và một nhiệm vụ đặt ra cho các cơ sở đào tạo trong của Vùng hiện nay là phải cơ cấu lại trình độ lực
lượng lao động bao gồm: tỷ lệ số lao động đã qua đào tạo, cấu trúc trình độ lao động, cơ cấu ngành chuyên môn, cơ cấu xã hội của đội ngũ người học. Trong những
năm tới cần phải nỗ lực nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo với cơ cấu: đại học 1, trung học chuyên nghiệp 5, công nhân kỹ thuật 10. Cần nhanh chóng khắc
phục tình trạng thừa " thầy", thiếu "thợ" như hiện nay theo hướng gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao với hệ thống các
trường đại học, đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý các trường dạy nghề trong vùng, mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng, linh hoạt, năng
động.
Khi cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch sẽ tạo ra sự đa dạng về ngành nghề, thêm vào đó là phải mở rộng quy mô hoạt động của các ngành kinh tế, từ đó tạo ra ngày
càng nhiều việc làm, đặc biệt là trong nông nghiệp và nông thôn, giảm áp lực về dư thừa lao động, tạo ra sự cân đối cần thiết giữa cung - cầu lao động, do đó thu
nhập, tiền lương tăng lên. Giải pháp tối đa hóa lợi nhuận của các ngành sản xuất lúc này là phải đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để giảm chi phí đầu vào,
cùng lúc đó quá trình hiện đại hóa nền kinh tế bắt đầu xuất hiện, để đáp ứng yêu cầu sự phát triển của các ngành trong điều kiện trình độ nền kinh tế đã phát triển,
chất lượng cung về lao động cũng phải được nâng lên, từ đó thúc đẩy quá trình chuyển dịch được cơ cấu lao động.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động có quan hệ tác động hệ quả, ăn khớp với nhau đảm bảo quá trình phát triển bền vững và hiệu quả nền kinh tế.
Để đáp ứng nhu cầu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần chú ý các nội dung sau đây:
- Chuyển dịch cơ cấu lao động phải gắn bó hữu cơ và phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu lao động hợp lý là cơ sở vững chắc để chuyển dịch
thành công cơ cấu kinh tế, đảm bảo tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động phải vừa đảm bảo yêu cầu phát triển của các ngành, các lĩnh vực (cơ cấu ngành nghề), yêu cầu lao động kỹ thuật (cơ cấu trình
độ), tạo điều kiện phân bổ và sử dụng lao động hợp lý.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động phải nhằm nâng cao chất lượng lao động, chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hiệu quả.
3.2.1.2. Đổi mới cơ chế chính sách thu hút, đãi ngộ và sử dụng
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi phải có hệ thống các chính sách đồng bộ và sát với từng đối tượng.
- Giải pháp về cung lao động, đi liền với giáo dục, đào tạo để nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn kỹ thuật. Đồng thời, cần có giải pháp thuận lợi
cho việc di chuyển lao động, dưới góc độ quản lý nhà nước cần nắm và chủ động trong điều chỉnh kế hoạch vĩ mô; Phát huy vai trò của TP.HCM - nơi có thị trường
lao động hoạt động sôi động nhất hiện nay, với hệ thống trung tâm giới thiệu dịch vụ việc làm được phát triển với số lượng rất lớn, TP.HCM hiện có khoảng 8 trung
tâm dịch vụ việc làm và 17 chi nhánh tại các tổ chức đoàn và liên đoàn lao động quận, huyện; ngoài ra trên địa bàn TP.HCM còn có khoảng trên 500 doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực giới thiệu việc làm với hiệu quả khá tốt, rất đáng khích lệ. Với chức năng quản lý nhà nước cần có chính sách hướng dẫn cụ thể, hỗ trợ kịp
thời và giám sát chặt chẽ và hiệu quả cao trong bảo vệ lợi ích của người lao động. Các cơ quan quản lý lao động cần có mối quan hệ chặt chẽ với các chủ sử dụng
lao động để nắm được sự di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp và các khu vực kinh tế, để từ đó có chính sách điều chỉnh kịp thời và hợp lý.
- Giải pháp về nhu cầu lao động, cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn, nhiều chủ thể tham gia,
nhiều doanh nghiệp phát triển ở các quy mô khác nhau và qua đó tạo ra nhiều việc làm cho người lao động; đồng thời Vùng ĐNB tăng cường các biện pháp để khai
thác thị trường xuất khẩu lao động vì đây cũng là một lợi thế và mang lại hiệu quả cao.
- Đối với nguồn nhân lực là người quản lý, các nhà khoa học, các chuyên gia có trình độ cao.
Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thành xây dựng khu đại học tây bắc và đông bắc TP.HCM, gắn với khu nghiên cứu, triển khai công nghệ, khu công
nghiệp; khuyến khích liên kết đào tạo giữa các trường, các trung tâm nghiên cứu và hợp tác quốc tế với các trường và các nhà khoa học có uy tín; tạo môi trường
cạnh tranh lành mạnh để nâng cao chất lượng dạy và học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Trong quá trình đổi mới và phát triển, mở rộng và giao lưu hợp tác quốc tế hiện nay, điều kiện mở ra cho sự thăng tiến của mỗi con người là rất rộng lớn, nhất
là đối với các nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học giỏi. Nếu chúng ta không có những giải pháp, những chính sách hữu hiệu và kịp thời thì việc di chuyển nguồn
nhân lực có kinh nghiệm và có trình độ cao từ khu vực Nhà nước sang các khu vực khác, nhất là sang khu vực kinh tế tư nhân, các cơ quan đại diện và doanh nghiệp
nước ngoài là dễ xảy ra.
Vùng ĐNB cần xây dựng đồng bộ các chính sách liên quan đến sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, đó là các chính sách như: bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài,
huy động và khai thác có hiệu quả mọi nguồn trí thức, nhất là từ các viện nghiên cứu, trường đại học trong vùng, đặc biệt là trên địa bàn TP.HCM và Việt kiều…
Nâng cao chất lượng và hiệu quả của nguồn nhân lực có kinh nghiệm quản lý và trình độ chuyên môn cao cần phải được đặc biệt quan tâm trên cả hai phương diện:
môi trường và điều kiện cho họ hoạt động và chính sách đãi ngộ hợp lý.
Chính sách về đãi ngộ người lao động
Thực hiện được giải pháp này Vùng ĐNB sẽ khai thác được điểm mạnh về con người “Sài Gòn” năng động trong kinh tế thị trường và hội nhập, vì vậy cần tổ
chức thực hiện các nội dung sau đây:
- Có chế độ chính sách mới để khuyến khích đội ngũ trí thức và nhân tài; gắn liền kết quả nghiên cứu khoa học với thực tiễn, hạn chế đầu tư dàn trải cho
nghiên cứu khoa học như hiện nay. Phát huy sự đóng góp của lực lượng kiều bào, thông qua các chính sách ưu đãi như: cấp visa dài hạn, không hạn chế điều kiện để
mua nhà tại Việt Nam,….
- Về đội ngũ doanh nhân: xây dựng chương trình đào tạo và đào tạo lại kiến thức kinh doanh toàn cầu cho hệ thống doanh nghiệp; khuyến khích tinh thần dám
nghĩ, dám làm; cho phép người nước ngoài tham gia hoạt động quản lý các doanh nghiệp trong nước (có thể là doanh nghiệp Nhà nước).
- Về đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề: xã hội hóa công tác dạy nghề, trong đó Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong qui hoạch mạng lưới, đầu tư cơ sở
vật chất, hỗ trợ phát triển đào tạo các ngành nghề mới phù hợp với định hướng phát triển của Vùng ĐNB như công nghệ thông tin, điện tử, cơ khí, sinh học, hóa
chất, các ngành sử dụng công nghệ hiện. Xây dựng cơ chế và hỗ trợ việc liên kết các trường đào tạo và các doanh nghiệp lớn trong việc đào tạo và sử dụng lao động.
- Về đội ngũ công chức và cán bộ quản lý: đẩy mạnh cải cách hành chính đi đôi với việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức. Thí điểm thi tuyển vào các
chức danh lãnh đạo cấp Sở, ngành và quận huyện. Chính quyền các địa phương trong vùng cần có những biện pháp kịp thời hạn chế nạn “Chảy máu chất xám”
(brain drain) từ khu vực Nhà nước sang các khu vực khác, đây là điều khó tránh khỏi.
- Hoàn thiện các chế độ lương bổng và phúc lợi, chế độ khen thưởng, chế độ điều động và đề bạt.
+ Chế độ lương bổng và phúc lợi được thiết lập trên cơ sở: (a) phù hợp với trình độ đào tạo; (b) phù hợp với thâm niên công tác, cấp bậc và chức vụ được
giao; (c) phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp của từng ngành; (d) tăng tương ứng với sự phát triển kinh tế và sự gia tăng giá cả v.v...
+ Chế độ khen thưởng: phải kịp thời, đúng lúc cho (a) cá nhân, đơn vị hoàn thành nhiệm vụ đạt hiệu quả cao; (b) cá nhân, đơn vị có sáng kiến hoặc giải pháp
(đột xuất, độc đáo) đem lại lợi ích lớn cho xã hội, không phân biệt đó là cán bộ lãnh đạo hay nhân viên; (c) khen thưởng các sinh viên, cán bộ khoa học - kỹ thuật
được gửi đi đào tạo ngoài nước hoàn thành tốt nhiệm vụ và trở về nước phục vụ; (d) khen thưởng các cá nhân, đơn vị có những cống hiến tốt cho xã hội và nhân
dân, không phân biệt ở trong hay ngoài nước.
+ Chế độ điều động và đề bạt cán bộ cần thực hiện trên cơ sở công khai, khách quan và vô tư. Việc điều động nhân sự đòi hỏi phải đưa đúng người về đúng
nơi có nhu cầu, bao gồm cả các cán bộ lãnh đạo lẫn các chuyên viên quản lý hành chính, chuyên viên khoa học - kỹ thuật. Song song với chế độ điều động cần có
chế độ đề bạt hợp lý (cả về chức vụ lẫn lương bổng, phúc lợi) để khuyến khích và tạo niềm tin cho những người được điều động để họ phấn đấu hoàn thành nhiệm
vụ được giao.
Chính sách về thu hút và sử dụng nguồn nhân lực
Thực tế ở Việt Nam nói chung và Vùng ĐNB nói riêng cho thấy việc đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực chưa hợp lý, chưa đồng bộ. Trong bối cảnh
Việt Nam đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Vùng
ĐNB cần phải có chính sách thu hút và sử dụng có hiệu quả bốn đội ngũ sau:
- Đội ngũ lãnh đạo Đảng, quản lý nhà nước, quản lý hành chính: bao gồm những người có chuyên môn, có khả năng nhìn xa trông rộng, có khả năng ra quyết
định đúng và kịp thời, có khả năng lãnh đạo v.v...
- Đội ngũ quản lý doanh nghiệp: bao gồm các giám đốc, các nhân viên quản lý doanh nghiệp, xí nghiệp, nhà máy có trình độ thông thạo về luật kinh tế, luật
pháp quốc tế, có năng lực ngôn ngữ và nhất là có khả năng diễn đạt tốt v.v...
- Đội ngũ khoa học, kỹ thuật: bao gồm những nhà khoa học đầu đàn, đạt trình độ quốc tế, những chuyên viên kỹ thuật có đẳng cấp, những công nhân kỹ thuật
giỏi, thành thạo nghiệp vụ.... Đây là lực lượng có khả năng sáng tạo lớn, có khả năng ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến, có khả năng giải quyết
vấn đề (problem solving) v.v...
- Đội ngũ tri thức Việt kiều, hiện nay có khoảng 3 triệu Việt kiều đang sinh sống ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, trong số này có rất nhiều nhà khoa
học, kỹ thuật Việt Nam đạt thành tích cao trong khoa học, đây là nguồn chất xám rất đáng trân trọng. Mặt khác, với chính sách mở cửa và hội nhập của Đảng và
Nhà nước, hiện nay ngày càng có nhiều thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam đang lao động hoặc học tập tại các nước tiên tiến. Do vậy, cần đẩy mạnh chính
sách thu hút tri thức Việt kiều, thu hút các lưu học sinh và lao động sau khi hoàn tất nhiệm vụ trở về phục vụ Tổ quốc. So với các vùng khác, Vùng ĐNB có lợi thế
trong thu hút lực lượng này.
Công việc này có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: trở về nước sinh sống và làm việc, trở về nước phục vụ trong một thời gian nhất định, hoặc
vẫn sống ở nước ngoài nhưng tham gia tư vấn, tham mưu, kiêm nhiệm v.v... Việc thu hút và sử dụng có hiệu quả cả hai nguồn nhân lực được đào tạo trong và ngoài
nước có ý nghĩa lớn lao trong việc bổ sung tri thức, chia xẻ kinh nghiệm và hỗ trợ nhau trong phát triển khoa học, công nghệ giúp TP.HCM có thể đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh, tiếp cận trình độ phát triển khu vực và thế giới.
Chính sách tiền lương và phúc lợi
- Khuyến khích các doanh nghiệp trên địa bàn được phép tự định đoạt mức lương, thưởng cho công nhân viên, dựa trên quy luật thị trường lao động và hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Các cơ sở tự quyết định chính sách thu hút nhân tài, kể cả các cơ quan sự nghiệp như bệnh viện, trường học…
- Tiền lương thực sự tuân theo quy luật cung cầu về lao động. Nhà nước chỉ quy định mức lương tối thiểu để bảo vệ lợi ích của người lao động.
- Các chế độ lao động được quy định mềm dẻo, linh hoạt hơn nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động nhưng không ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả của
các doanh nghiệp. Lược bỏ những quy định mang tính hình thức, cứng nhắc như trong hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động hiện nay.
- Đối với công chức trong các cơ quan quản lý Nhà nước, quy định mức lương tối thiểu đối với các công chức trên địa bàn, cùng các chế độ phụ cấp, khen
thưởng, đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút người tài vào làm việc trong các cơ quan Nhà nước. Thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ để từ đó có chính sách tiền
lương hợp lý nhằm kích thích nâng cao năng lực làm việc của người lao động (chẳng hạn như chính sách lên lương trước thời hạn, thực hiện tự chủ về tài chính theo
quy định của nhà nước).
3.2.1.3. Phát triển nhanh các ngành có hàm lượng công nghệ cao và chuyển giao công nghệ
Thế mạnh của Vùng ĐNB là phát triển các ngành kinh tế hiện đại do có các địa phương nhưng TP.HCM, Bình Dươmg, Đồng Nai hay Bà Rịa - Vũng Tàu có
khả năng phát triển kinh tế nhanh bằng cách tiếp cận công nghệ tiên tiến trên thế giới, để phát huy được lợi thế này, Vùng ĐNB phải tăng cường mở rộng hợp tác
quốc tế trong thu hút đầu tư nước ngoài, trong nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực, từ đó có điều kiện đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ tương
đương với các nước trong khu vực, đồng thời phát triển nhanh các ngành có hàm lượng công nghệ cao. Đầu tư có hiệu quả vào các chương trình phát triển KT - XH
để đa dạng hóa mô hình tạo việc làm, chú ý tạo việc làm tại chỗ trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, ổn định trật tự an toàn
xã hội. Mặt khác, phải phát triển các ngành khoa học kỹ thuật cao để thu hút lao động có chất lượng để tăng thu nhập và khuyến khích người lao động có ý thức
nâng cao trình độ. Đây là một trong những yếu tố tạo sự ổn định và phát triển bền vững đối với lao động và việc làm. Với lợi thế về trung tâm đào tạo và khoa học -
công nghệ, cho phép TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển các ngành sử dụng công nghệ cao, có lợi thế cạnh tranh, từ đó xác lập cơ cấu
kinh tế hiện đại.
Phát triển nhanh các khu công nghệ cao trên địa bàn TP.HCM nhằm tập hợp lực lượng trí thức trong và ngoài nước để nghiên cứu sáng tạo khoa học - công
nghệ, đặc biệt quan tâm đội ngũ trí thức khoa học - kỹ thuật là người Việt Nam ở nước ngoài đang nằm trong hệ thống tổ chức quản lý sản xuất công nghệ cao của
các tập đoàn, các công ty Bắc Mỹ, châu Âu, Nhật Bản... Thông qua đó tạo một không gian sống và làm việc thuận tiện, hài hòa, chất lượng cao để lao động và
nghiên cứu sáng tạo, một không gian tri thức, tiến tới làm "hạt nhân" cho một đô thị khoa học trong tương lai không xa.
Nghiên cứu xây dựng trung tâm khoa học và chuyển giao công nghệ có tầm cỡ quốc gia, từ đó nâng cao hoạt động chuyển giao công nghệ, nhiều nhà kinh tế
đồng ý rằng sự tiến bộ về công nghệ là nhân tố chính cho tăng trưởng kinh tế và đến lượt nó, các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao là động lực chủ yếu cho các
tiến bộ về công nghệ. Mặt khác, các lí thuyết về tăng trưởng cổ điển với việc cho rằng lao động và vốn thì chưa đủ để đóng góp cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nhà kinh tế học Robert Solow, người đã đoạt giải Nobel về kinh tế năm 1987 với lí thuyết về vai trò của công nghệ trong tăng trưởng kinh tế đã chứng minh rằng sự
thay đổi về công nghệ bao gồm cả công nghệ được cải thiện và nâng cao trình độ lực lượng lao động là nhân tố chính trong tăng trưởng dài hạn.
Một số lý thuyết kinh tế đề cập nhiều đến mối quan hệ giữa tiến bộ về công nghệ và phát triển kinh tế. Lý thuyết tăng trưởng mới nhấn mạnh, tốc độ tăng
trưởng do nguồn vốn con người, bao gồm các tri thức hay các ý tưởng sáng tạo từ khu vực doanh nghiệp, trường học và chính phủ. Cách tiếp cận này cho rằng các ý
tưởng mới là nguồn gốc dẫn đến sự cải tiến về công nghệ và do đó dẫn đến sự cải thiện về năng suất. Khi hoạt động chuyển giao công nghệ có hiệu quả, với lợi thế
của mình, Vùng ĐNB trở thành “cửa ngõ” tiếp nhận công nghệ tiên tiến của thế giới vào Việt Nam, điều này góp phần củng cố và nâng cao vị thế của Vùng trong
phát triển khoa học - công nghệ. Khi trình độ khoa học - công nghệ phát triển sẽ tác động lan tỏa đến chất lượng nguồn nhân lực.
Đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ tiên tiến trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh doanh sản
phẩm mới, công nghệ mới, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nông thôn,…Ưu tiên phát triển nhanh
các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ mới nhất, nhằm khai thác hiệu quả lợi thế của vùng là trung tâm công nghiệp, đào tạo nguồn nhân lực và phát triển
khoa học - công nghệ. Phát triển công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành trong hội nhập. Phát triển
nhanh các ngành công nghiệp sinh học (công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp dược phẩm, hóa chất, công nghiệp môi trường,…), các ngành công nghiệp vật liệu
mới, công nghệ nano, tăng nhanh các ngành công nghiệp, dịch vụ giá trị gia tăng cao. Vùng ĐNB cần tập trung đi thẳng vào công nghệ hiện đại đối với những
ngành có lợi thế, quá trình phát triển các ngành này gắn chặt với quá trình phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện cho quá trình phát
triển các ngành kinh tế có trình độ công nghệ hiện đại. Với trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến là động lực cơ bản thúc đẩy quá trình nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
3.2.1.4. Phát triển thị trường lao động
Hiện nay, Vùng ĐNB có nhiều cơ hội để mở rộng, phát triển và hoàn thiện hệ thống thị trường lao động, với khả năng thu hút người lao động cũng như môi
trường làm việc thuận lợi để khắc phục điểm yếu về sự mất cân đối trong thị trường lao động, từ đó phát triển thị trường lao động nhằm nâng cao hiệu quả trong đào
tạo và sử dụng lao động cũng như phát triển nguồn nhân lực. Việc hình thành một cơ chế và thị trường lao động kỹ thuật và trình độ cao, đáp ứng nhanh chóng nhu
cầu của các nhà đầu tư nước ngoài được xem như một lợi thế cạnh tranh của Vùng ĐNB trong quá trình CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển thị trường lao động: phát triển thị trường lao động để lao động được xã hội hóa, người lao động được quyền tham gia trao đổi sức lao động trên thị
trường theo quan hệ kinh tế thị trường. Mở rộng hơn nữa hệ thống các trung tâm dạy nghề và xúc tiến việc làm, kết hợp với việc thông tin rộng rãi dưới nhiều hình
thức về nhu cầu việc làm, khả năng cung ứng lao động được đào tạo cũng như các yêu cầu và khả năng sử dụng lao động. Điều đó vừa đảm bảo lợi ích cho người
lao động, vừa tạo động lực thúc đẩy chất lượng đội ngũ lao động. Trong những năm tới hướng giải quyết khá tích cực đối với lao động, việc làm là mở rộng và nâng
cao hiệu quả xuất khẩu lao động.
Trong kinh tế thị trường, việc tổ chức đào tạo, cung ứng lao động cho hoạt động của nền kinh tế cũng như các bộ phận hợp thành của nó được thực hiện chủ
yếu thông qua thị trường lao động. Thị trường lao động là một bộ phận của thị trường cung ứng các yếu tố sản xuất, quy mô, năng lực, trình độ tổ chức của nó trực
tiếp ảnh hưởng đến khả năng cung ứng lao động cân đối với các yếu tố sản xuất khác, với đầu ra trong quá trình hoạt động của hệ thống kinh tế các cấp. Do vậy, sự
phát triển của hệ thống kinh tế luôn gắn với hiện trạng, khả năng thay đổi về quy mô, năng lực, trình độ phát triển thị trường lao động trong từng thời kỳ.
Sự phát triển của thị trường lao động và quá trình phát triển KT - XH của Vùng ĐNB luôn gắn liền với nhau: một mặt, nó là nguồn lực, điều kiện thực hiện
các nội dung phát triển kinh tế; mặt khác lại là kết quả của chính quá trình phát triển đó. Những đặc điểm về quy mô, cơ cấu lao động, tình hình phân bổ lao động…
đều có nguồn gốc từ đặc điểm phát triển kinh tế Vùng ĐNB. So với các vùng khác, Vùng ĐNB, có TP.HCM, Bình Dương là nơi tập trung lao động lớn nhất, số
lượng lao động tăng qua các năm.
Khi thị trường lao động phát triển, tạo sự kết nối, phối hợp hoạt động giữa các chủ thể để tạo chuỗi giá trị liên tục từ xây dựng sản phẩm hàng hóa sức lao
động đến chuyển sức lao động từ nơi hình thành, đào tạo đến nơi sử dụng. Đảm bảo sự cân đối, đồng bộ, ổn định cần thiết trong diễn biến các yếu tố, quan hệ trên
thị trường sức lao động để từ đó, hình thành các luồng dịch chuyển dân cư, lao động theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động, dân cư, cơ cấu kinh tế của vùng.
Phát triển các thị trường lao động mới trong mối quan hệ thống nhất, đồng bộ với các thị trường khác trong cơ cấu tổ chức hệ thống thị trường lao động trong vùng.
Thị trường lao động phát triển cho phép hạn chế tính tự phát trong phát triển thị trường, những nhân tố tiêu cực trước đây trong quá trình vận động của thị
trường lao động ở TP.HCM, từ đó phát huy lợi thế về nguồn nhân lực của cả vùng.
Để phát triển thị trường lao động Vùng ĐNB mà chủ yếu tập trung ở TP.HCM, Bình Dương và Đồng Nai, cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động các loại thị trường lao động đang tồn tại và phát huy giá trị tích cực trong thực hiện các nội dung
phát triển kinh tế của Vùng ĐNB. Đồng thời chú trọng đến tiềm năng phát triển các loại thị trường mới, đặc biệt là thị trường xuất khẩu lao động và thị trường dịch
vụ cho đối tượng lao động nhập cư.
Thứ hai, Thực hiện sự can thiệp hợp lý, đúng quy luật và có hiệu quả của các địa phương trong vùng vào diễn biến thị trường nhằm nâng cao giá trị, vai trò
tích cực của thị trường đối với sự nghiệp phát triển Vùng ĐNB.
Thứ ba, Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thúc đẩy phát triển đồng bộ các loại thị trường, trong đó có thị trường lao động có tầm quan trọng đặc biệt. Đây
là cơ sở để đảm bảo sự phát triển nhanh, vững chắc về KT - XH và nâng cao hiệu quả giải quyết việc làm cho người lao động. Phát triển thị trường lao động đòi hỏi
phải thực hiện các giải pháp tác động lên cung, cầu lao động hoàn thiện các chính sách thị trường lao động và khắc phục các khiếm khuyết về điều chỉnh thị trường
lao động.
Thứ tư, xây dựng và triển khai dự án phát triển thị trường lao động Vùng ĐNB nhằm điều tra, thông kê lao động và thiết lập hệ thống thông tin thị trường lao
động trong nội bộ vùng. Hiện nay các thị trường lao động của các địa phương trong vùng chưa liên thông với nhau.
3.2.1.5. Tạo lập môi trường làm việc thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực
Môi trường xã hội thuận lợi là tổng thể các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hoá, pháp luật, đạo đức, tâm lý, dư luận xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống, gia
đình … cho phép con người có thể cống hiến tối đa năng lực của mình và được hưởng thụ nhiều nhất những gì họ xứng đáng được hưởng thụ. Các yếu tố này là sự
phản ánh hiện thực KT - XH, đồng thời có tính độc lập tương đối, tác động qua lại với nhau. Do vậy, để có môi trường xã hội thuận lợi, kích thích sự cống hiến và
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của con người, phải tác động tích cực, có tính định hướng lên cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần của xã hội. Đây là điều kiện đầu tiên
để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Với vị trí, tiềm năng của Vùng ĐNB có khả năng khai thác lợi thế nguồn nhân lực của mình thông qua việc tạo lập môi trường làm việc thuận lợi, cho phép
người lao động phát huy tính sáng tạo. Đây là nhân tố quan trọng trong việc “giữ chân” đội ngũ tri thức có năng lực lao động (đặc biệt là các nhà khoa học trẻ, sinh
viên mới ra trường,…). Khả năng tăng trưởng kinh tế, tiến trình CNH, HĐH Vùng ĐNB nhanh hay chậm một phần phụ thuộc vào đội ngũ này. Trong những năm
gần đây, các nền kinh tế trong Vùng ĐNB như: TP.HCM, Bình Dương hay Đồng Nai đang đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu, cùng với
xu thế hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, tái cấu trúc cơ cấu nền kinh tế quốc dân sau khủng hoảng đã tạo ra nhiều cơ hội sản xuất - kinh doanh, sự mở
rộng quy mô sản xuất của hệ thống doanh nghiệp trong vùng. Do đó, người lao động có nhiều sự lựa chọn lĩnh vực làm việc phù hợp với khả năng nghề nghiệp và
sở thích của mình (có đất dụng võ) cũng như cơ hội thăng tiến cá nhân. Người lao động thông qua làm việc mới có khả năng sáng tạo và tất nhiên, công việc ấy phải
phù hợp với năng lực và sở trường. Vùng ĐNB có các nền kinh tế năng động và hứa hẹn nhiều tiềm năng phát triển sẽ có những điều kiện cần thiết để tạo ra môi
trường làm việc thuận lợi, sẵn sàng đón nhận những giá trị tích cực của nguồn lao động, đây chính là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong tương lai.
Cần xây dựng môi trường pháp lý tin cậy, trong đó mọi thành viên trong xã hội và nhà nước đều tôn trọng, thi hành pháp luật nghiêm minh. Điều này chẳng
những làm cho xã hội có trật tự kỷ cương, mọi người tin tưởng, yên tâm cống hiến và hưởng thụ, mà còn là điều kiện bảo đảm thực hiện dân chủ, tự do, bình đẳng
và công bằng xã hội.
Một yếu tố rất quan trọng trong môi trường xã hội, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính tích cực của con người đó là tâm lý xã hội. Nó bao gồm các thành tố: tâm
trạng xã hội, tình cảm xã hội, tâm thế xã hội, dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống văn hoá … Những kết quả điều tra xã hội học gần đây cho thấy sau
yếu tố thu nhập, tâm lý xã hội là yếu tố thứ hai tác động mạnh đến niềm tin, ý chí, động cơ, tinh thần, thái độ làm việc của người lao động. Thực tiễn trong nhiều
năm qua đã chỉ ra rằng, khi người lao động có được trạng thái tâm lý an tâm, tin tưởng, phấn khích … thì tính tích cực của họ sẽ được khơi dậy và phát huy. Còn
nếu ngược lại, tính tích cực sẽ bị thu lại dưới dạng tiềm ẩn, thậm chí bị mất đi. Trạng thái tâm lý có vai trò to lớn như vậy là vì nó không chỉ tác động đến tâm lý mà
còn tác động đến lý trí và tình cảm con người. Do vậy, tạo ra được môi trường tâm lý xã hội thuận lợi, lành mạnh ở nơi làm việc là điều kiện quan trọng và là động
lực để nuôi dưỡng và phát huy tính tích cực của người lao động. Ngân hàng thế giới cũng cho rằng đối với các nước đang phát triển, một trong bốn yếu tố cần được
ưu tiên khi hoạch định chính sách phát triển là cải thiện không khí doanh nghiệp.
Để có môi trường tâm lý xã hội thuận lợi, điều quan trọng nhất là phải đưa ra được những chính sách KT - XH đúng đắn, vừa phù hợp với điều kiện và khả
năng hiện thực xã hội, vừa kịp thời đáp ứng tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Trong điều kiện nước ta hiện nay, để tạo ra tâm lý an tâm, phấn khởi, tích cực của
người lao động, cần đáp ứng những nhu cầu chính đáng của số đông người lao động. Đó là những nhu cầu như: việc làm, thu nhập cao, dân chủ, bình đẳng, công
bằng xã hội, nâng cao sự hiểu biết, tự khẳng định bản thân, chống tham nhũng có hiệu quả, quan hệ thân ái nơi làm việc….
Kinh nghiệm cho thấy, trong các biện pháp kích thích lao động, ngoài những kích thích kinh tế như tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp, thì những kích
thích về tâm lý, đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu biết kết hợp khéo léo giữa động viên về kinh tế với động viên về tâm lý, cùng truyền thống cần cù lao
động của người Việt Nam, thì sẽ tạo nên những người lao động toàn tâm, toàn ý vì công việc.
Vai trò quyết định của nguồn nhân lực suy cho cùng là ở năng lực sáng tạo, do đó phải tạo ra được môi trường tâm lý kích thích tinh thần sáng tạo của mỗi
thành viên trong đơn vị. Cần có cơ chế rộng mở thu hút các sáng kiến của mọi cá nhân, ngoài những đóng góp ý kiến trực tiếp, mỗi công ty, đơn vị nên có những
hòm phiếu để thu nhận các sáng kiến. Tất cả các sáng kiến dù lớn hay nhỏ đều được trân trọng, đánh giá khách quan và có chế độ động viên, khen thưởng kịp thời.
Đồng thời, luôn khuyến khích lối tư duy sáng tạo; khích lệ cổ vũ những tranh luận mang tính xây dựng giữa các nhà quản lý, giữa các nhân viên, giữa các nhà quản
lý và nhân viên để tìm ra phương án tốt nhất. Không nên coi hoạt động sáng tạo là lĩnh vực đặc quyền của các nhà phát minh, sáng chế chuyên nghiệp; trái lại, cần
quán triệt triết lý coi trọng nhân viên và tin tưởng vào khả năng vô hạn của con người, thực hiện phương châm quản lý hướng vào con người.
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài, đội ngũ trí thức trẻ đang làm việc ở một số địa phương trong vùng, thu nhập không phải là vấn đề duy nhất, họ
đang cần một môi trường làm việc tốt hơn, dân chủ hơn và họ muốn cống hiến nhiều hơn, trong đó có cả những cán bộ đang làm trong khu vực Nhà nước. Để khai
thác được lợi thế này, trong quá trình CNH, HĐH, Vùng ĐNB cần thực hiện các giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, có chính sách, cơ chế liên kết vùng phù hợp để tạo động lực, kích thích mọi người chăm học, chăm làm, động viên tính tích cực xã hội của người
lao động làm cho họ năng động, thiện chí, cầu tiến, từ đó đi đến sáng tạo... là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong tổ chức quản lý vĩ mô, cũng như vi mô nguồn lực
con người, lực lượng lao động. Ở đây, cần chú ý cả lợi ích vật chất, cả nhu cầu tinh thần của con người.
Thứ hai, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đây là bộ phận quan trọng nhất trong chiến lược con người, là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp giáo
dục nước ta nói chung và Vùng ĐNB nói riêng trong những năm tới, nhằm tạo ra những điều kiện cơ bản để tiến hành CNH, HĐH theo những mục tiêu đã xác định,
có thể hội nhập vào xã hội tương lai của loài người đang hướng tới. Trong công việc trọng đại này, chăm lo, phát huy, bồi dưỡng nhân tài có một ý nghĩa đặc biệt,
nhất là trong thời đại thông tin, công nghệ cao, kinh tế tri thức và toàn cầu hóa.
Thứ ba, đẩy nhanh quá trình tin học hóa trong quản lý, tạo môi trường việc hiện đại, quản lý theo hiệu quả công việc - làm việc trong môi trường mạng. Từng
bước xây dựng văn phòng không giấy tờ, họp không bàn ghế, nói chuyện không cần điện thoại... là mô hình làm việc năng động, các địa phương như: TP.HCM,
Đồng Nai, Bình Dương hay Bà Rịa - Vũng Tàu có điều kiện thực hiện được nội dung này.
Thứ tư, cải thiện điều kiện sống ở các KCN, KCX như: giao thông, môi trường, nhà ở cho công nhân, nước sinh hoạt,…đặc biệt là đời sống tinh thần của lực
lượng công nhân đang làm việc tại các KCN, KCX vì đây là một trong những nhu cầu cơ bản của con người, có đáp ứng đầy đủ các điều kiện cơ bản này thì người
lao động mới yên tâm với công việc. Đó thực sự là động lực mạnh mẽ kích thích tính tích cực và năng lực sáng tạo của con người, năng suất lao động, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cũng nhằm mục đích nâng cao năng lực đó của con người trong tiến trình CNH, HĐH đất nước.
3.2.2. Nhóm giải pháp củng cố, phát huy các cấu thành của chất lượng nguồn nhân lực
3.2.2.1. Về giáo dục - đào tạo và dạy nghề
Để khắc phục điểm yếu về khả năng liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp, đồng thời phát huy thế mạnh của hệ thống cơ sở nghiên cứu, đào tạo, hệ
thống doanh nghiệp Vùng ĐNB, cũng như thế mạnh về đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật và doanh nhân. Giải pháp cụ thể cần thực hiện lúc này để khai
thác lợi thế là đào tạo nguồn nhân lực, đây là bước đi căn bản, đặt nền tảng cho việc giải quyết việc làm ổn định, bền vững đáp ứng mục tiêu chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng hiện đại. Trong đó, chất lượng đào tạo, cơ cấu đào tạo và gắn nó với yêu cầu phát triển KT - XH (tức là phân bổ nguồn nhân lực) cần quan tâm đặc
biệt, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
Thay đổi nhận thức trong đào tạo
Yêu cầu về nguồn nhân lực trong giai đoạn hiện nay đã có nhiều thay đổi lớn lao so với trước. Trước đây các tiêu chuẩn thường được đưa ra là: tính tốt, cần
cù, trung thành, có trách nhiệm.... Nhưng ngày nay những tiêu chuẩn này đã thay đổi thành: có tính sáng tạo, có khả năng xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có
tinh thần đồng đội, có khả năng ăn nói diễn đạt v.v.... Nói chung nguồn nhân lực phải được huấn luyện tốt.
Để thích nghi với sự phát triển chung của giáo dục thế giới, ngành giáo dục Việt Nam thiết tưởng phải được tiếp tục cải cách nhiều hơn nữa và cần phải tôn
trọng 4 nguyên lý được đề xuất trong Hội nghị quốc tế về giáo dục cho thế kỷ 21 do UNESCO tổ chức tại Paris vào năm 1998. Bốn nguyên lý này còn được gọi là 4
trụ cột của nền giáo dục:
- Học để biết (Learning to Know);
- Học để làm (Learning to Do);
- Học để sống chung với mọi người (Learning to Live together);
- Học để tồn tại (Learning to Be)
Quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực
Vùng ĐNB cần phải tiến hành hai giải pháp cụ thể là quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực, đây là công cụ cơ bản thực hiện chức năng q uản lý Nhà
nước về nguồn nhân lực, là nội dung quan trọng trong quá trình phát triển KT - XH nói chung, qua đó các chính quyền địa phương trong vùng tập trung về những
vấn đề trọng yếu nhưng không hạn chế quyền chủ động, sáng tạo, năng động của người lao động và sử dụng lao động.
Để phát triển nhanh chất lượng nguồn nhân lực, các địa phương trong vùng cần có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ngành ở Trung ương để có những giải
pháp đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo và coi đó là cái gốc của chất lượng nguồn nhân lực. Để đạt được mục tiêu đề ra, việc đầu tiên phải làm tốt
khâu dự báo và quy hoạch, các thông tin cơ bản về thị trường lao động thường bao gồm: thông tin về nguồn lao động, dân số hoạt động kinh tế, trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lực lượng lao động, tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, mức tiền lương và thu nhập… những thông tin này là công cụ quan trọng để nắm được
động thái của thị trường lao động và đó là cơ sở cho việc quản lý vĩ mô; phải căn cứ vào đặc điểm của Vùng ĐNB - một trung tâm lớn, có “sức hút” rất mạnh đối
với nguồn lực lao động, đồng thời Vùng ĐNB lại là nơi tập trung năng lực đào tạo nguồn nhân lực rất lớn, đủ mọi quy mô và trình độ; trên cơ sở đó căn cứ vào nhu
cầu phát triển và nhu cầu của thị trường lao động để xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực; cần đổi mới tư duy và cách tiếp cận mới, cần đổi mới cả nội
dung, phương thức và phương pháp đào tạo; xác lập các yêu cầu mới về chuẩn tri thức, kỹ năng và hành vi của giáo dục phổ thông và đào tạo nghề nghiệp; đào tạo
kỹ năng, kỹ thuật, công nghệ, đào tạo các nhà quản lý phải theo nhu cầu của xã hội và nhu cầu của thị trường.
Muốn việc đào tạo nguồn nhân lực thực sự có hiệu quả, điều quan trọng hơn là chúng ta có chính sách đào tạo. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu CNH, HĐH. Trong các chương trình và chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải bảo đảm:
- Bảo đảm nguồn nhân lực từ trình độ thấp chuyển sang nguồn nhân lực có học vấn, có kỹ năng và có chuyên môn kỹ thuật cao. Nhà nước cần có chương trình
đào tạo nhân lực chuyên môn kỹ thuật cho các ngành đang chịu sự tác động lớn của sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực đào tạo, nâng cao chất lượng
đội ngũ doanh nhân Việt Nam.
- Nguồn nhân lực làm công tác giáo dục, đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân phải được đặc biệt quan tâm và phát triển, đây là yếu tố quyết định tới chất
lượng của nguồn nhân lực nói chung. Nguồn nhân lực làm chức năng quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý văn hóa - xã hội phải được đào tạo cơ bản, toàn
diện, đòi hỏi phải có kiến thức sâu, rộng, có phẩm chất đạo đức trong sáng để hoàn thành tốt chức năng và trách nhiệm của mình; đẩy mạnh khuyến học, khuyến tài
đi đôi với nâng cao vai trò quản lý nhà nước về giáo dục - đào tạo. Hoàn thiện thể chế và nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về lao
động.
- Nguồn nhân lực làm công tác nghiên cứu khoa học (cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), đây là bộ phận có trình độ cao, được coi là “vốn” quý giá nhất
trong nguồn nhân lực của sự phát triển, họ cần có môi trường và điều kiện thuận lợi để làm việc, nên đây là đối tượng được đặc biệt quan tâm.
Tổ chức lại hệ thống các cơ sở đào tạo
Sắp xếp lại hệ thống các cơ sở đào tạo (cao đẳng, đại học và dạy nghề) theo hướng tập trung đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát
triển của các ngành, lĩnh vực mũi nhọn; chú trọng đào tạo các ngành kinh tế, kỹ thuật phục vụ sự phát triển của các ngành dịch vụ hiện đại, dựa trên công nghệ cao.
Đầu tư nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô đào tạo của các cơ sở này, có tính đến nhu cầu phát triển khu vực phía Nam.
Phát triển các hình thức đào tạo nghề theo hướng liên kết với các cơ sở liên doanh. Đào tạo nghề gắn với nhu cầu thị trường, cung cấp đội ngũ công nhân tay
nghề tinh thông, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp. Sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu- sản xuất, kinh doanh; thiết lập quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH&CN
trong vùng theo mô hình 3 nhà “Nhà nước, nhà trường và nhà đầu tư” sẽ góp phần khắc phục điểm yếu hiện nay là đào tạo không có địa chỉ cũng như khó khăn về
kinh phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu mới của nhà đầu tư.
Xây dựng trung tâm đào tạo chất lượng cao và trung tâm dạy nghề, có phương án liên doanh với nước ngoài. Nghiên cứu xây dựng trung tâm khoa học và
chuyển giao công nghệ có tầm cỡ quốc gia, khu vực và quốc tế. Củng cố và mở rộng, chuẩn hóa hệ thống trường, lớp đào tạo, đặc biệt là đầu tư và nâng cấp các
trường và trung tâm dạy nghề kỹ thuật thực hành thuộc trọng điểm quốc gia và đạt chuẩn khu vực;
Phát hiện và đào tạo nhân tài
Vùng ĐNB là nơi tập trung nhiều cơ sở đào tạo nên lượng sinh viên học tập trên địa bàn là rất lớn, tập trung chủ yếu ở TP.HCM, đồng thời Vùng này có nhiều
cơ hội làm việc, do đó sinh viên sau khi tốt nghiệp, họ có nguyện vọng làm việc tại một địa phương có nền kinh tế phát triển như TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai,
nên cần thực hiện cơ chế phát hiện nhân tài ngay khi còn là sinh viên trong các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học để có kế hoạch bồi dưỡng, đào
tạo chuyên sâu.
Song song với việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nước, việc chú trọng thúc đẩy quá trình đào tạo ngoài nước, đưa các sinh viên xuất sắc, giáo
viên, cán bộ quản lý học tập, tu nghiệp ở các trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế có uy tín sẽ góp phần tích cực trong việc xây dựng nguồn nhân lực trình độ cao
phục vụ đất nước trong tương lai. Chẳng hạn, chương trình đào tạo 300 tiến sĩ và thạc sĩ ở nước ngoài bằng ngân sách Nhà nước, cũng như chương trình đào tạo 300
tiến sĩ và thạc sĩ ở nước ngoài bằng ngân sách của TP.HCM chứng tỏ đây là những quyết sách đúng đắn cần được phát triển và mở rộng thêm.
- Đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc học từ nội dung đến phương pháp, để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu
của thị trường lao động. Phải gắn dạy chữ, dạy nghề với “dạy người”. Điều chỉnh hợp lý cơ cấu đào tạo trong các bậc học, theo cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo.
Tiếp tục tăng cường đào tạo giáo dục đại học, ưu tiên các ngành khoa học và công nghệ (bao gồm cả nông nghiệp). Giáo dục trung học tập trung vào việc tăng
cường chất lượng và hướng nghiệp hơn là việc đơn thuần dành nhiều chỗ cho những học sinh đã tốt nghiệp tiểu học. Giáo dục tiểu học cần được nâng cao chất
lượng và mở rộng để đạt yêu cầu phổ cập giáo dục.
- Thực hiện giáo dục và đào tạo trên những nguyên tắc mới: xã hội hóa, dân chủ hóa và nhân văn hóa. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giáo dục và thị
trường, đặc biệt là trong lĩnh vực đào tạo nhân lực, khắc phục cách thị trường hoá nhà trường và dạy học kiếm lợi nhuận. Hình thành thị trường đào tạo nhân lực gắn
với thị trường lao động - việc làm. Xây dựng hệ thống các chuẩn đào tạo trên cơ sở chuẩn nghề nghiệp. Bảo đảm sự thích ứng giữa đào tạo và sử dụng.
- Thực hiện xã hội hoá giáo dục. Tăng cường đầu tư cho giáo dục từ nhiều nguồn: Nhà nước, xã hội, doanh nghiệp, hỗ trợ quốc tế v.v… Tính đủ chi phí đào
tạo các loại hình để bảo đảm chất lượng. Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích phát triển các loại hình giáo dục ngoài công lập. Tăng cường sự đóng góp
của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong sự nghiệp phát triển giáo dục, đặc biệt là trong công tác hướng nghiệp, đào tạo và bồi dưỡng nghề
nghiệp.
Khuyến khích phát triển lao động kỹ thuật
- Tập trung đầu tư phát triển hệ thống đào tạo nghề (bán lành nghề, lành nghề, trình độ cao), bậc đào tạo từ sơ cấp đến trung học, cao đẳng và đại học nghề,
củng cố, sắp xếp hệ thống đào tạo nghề hiện có của Vùng ĐNB, trong đó TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương cần phải đi tiên phong trong việc liên kết và tăng
cường đào tạo công nhân kỹ thuật gắn với nhu cầu sử dụng của các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao.
- Thực hiện tốt đào tạo liên thông trong hệ thống đào tạo nghề và liên thông với các bậc đào tạo khác, để tạo điều kiện cho công nhân hiện có ở các khu công
nghiệp, khu chế xuất nâng cao trình độ cũng như khả năng tiếp cận với kỹ thuật ngày càng hiện đại của các dây chuyền công nghệ.
3.2.2.2. Nâng cao công tác chăm sóc sức khỏe và dịch vụ y tế
Thứ nhất, tiếp tục củng cố mạng lưới y tế cơ sở đặc biệt là tuyến xã và thôn, bản.
Từng bước phấn đấu để 100% thôn, bản có nhân viên y tế được đào tạo về chuyên môn. Tăng cường thực hiện chính sách đưa bác sĩ về xã; phấn đấu 100% số
xã có bác sĩ vào năm 2015; 100% số xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi vào năm 2015. Xây dựng và nâng cấp các trạm y tế xã để khắc phục tình hình lũ lụt ở các địa
phương. Kết hợp quân dân y trong các hoạt động phòng chống bệnh tật và khắc phục phục hậu quả thiên tai.
Tăng cường đầu tư trang thiết bị và cơ sở vật chất cho các TTYT huyện và TYT xã để các CBYT ở tuyến huyện và xã có điều kiện hành nghề chuyên môn với
chất lượng cao, từng bước thực hiện các tiêu chuẩn phân cấp kỹ thuật cho mỗi tuyến của Bộ Y tế…
Tăng cường đào tạo nâng cấp, đào tạo bổ túc NVYT phục vụ cho công tác được đảm đương và tiếp cận với các tiến bộ KHKT y học hiện đại. Mặt khác, tăng
cường công tác quản lý và sử dụng nguồn nhân lực y tế có hiệu quả, bố trí phân công nhiệm vụ đúng người, đúng việc, hạn chế những tác động tiêu cực của xã hội
vào hoạt động của các cơ sở y tế công lập.
Có chế độ chính sách thỏa đáng về tiền lương, chế độ làm việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các nguồn lợi khác cho NVYT làm việc trong MLYTCS,
hạn chế bớt những qui định bất bình đẳng đối với nhân viên y tế làm việc ở tuyến huyện, xã như chế độ trực, tiền phẫu thuật .v.v…
Hoàn thiện các chế độ chính sách đối với người là NVYT thôn, bản lâu năm, được cộng đồng tín nhiệm, khuyến khích NVYT thôn bản hoạt động bằng những
lợi ích tinh thần, vật chất.
Xây dựng qui hoạch đào tạo MLYT cho hệ thống y tế cơ sở trong 3 năm, 5 năm, 10 năm của mỗi địa phư ơng để đáp ứng các tiêu chuẩn của Bộ y tế về BV
huyện, TYT xã… Phát triển hình thức đội y tế lưu động chuyên khoa để CSSK chuyên khoa thiết yếu ở cộng đồng.
Đổi mới chương trình đào tạo và phương thức đào tạo NVYT cho MLYTCS ở các trường đại học và trung học y tế theo hướng tăng thực hành, bớt lý thuyết,
kết hợp hài hoà các môn khoa học xã hội, tâm lý, hành vi, môi trường với các môn khoa học y học. Hình mẫu bác sĩ gia đình cần được ứng dụng vào đạo tạo bác sĩ
sẽ làm việc ở y tế cơ sở.
Thực hiện việc đào tạo theo địa chỉ, theo đơn đặt hàng của người sử dụng NVYT cho những mục đích khác nhau; y tế thôn xã, y tế cơ quan, y tế doanh nghiệp
sản xuất, y tế trường học, nhân lực y tế xuất khẩu….
Thứ hai, tiếp tục triển khai công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu có chất lượng cao với các chương trình y tế quốc gia có mục tiêu tại nông thôn như tiêm
chủng mở rộng, sốt rét, bướu cổ, lao, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, sức khỏe sinh sản… Đẩy mạnh công tác vệ sinh phòng bệnh, vệ sinh môi trường, vệ sinh
an toàn thực phẩm, chương trình nước sạch nông thôn.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thông, tuyên truyền để nâng cao nhận thức và hành động của người dân nông thôn, nâng cao trách nhiệm của các
cấp Đảng, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và tự giác tham gia công tác chăm sóc sức khỏe, xây dựng nếp sống vệ sinh, bài trừ các thói quen có hại đến
sức khỏe, chủ động nâng cao sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng, thực hiện quyền bình đẳng giới trong CSSK.
Thứ tư, mở rộng bảo hiểm y tế ở nông thôn với nhiều hình thức và mức độ khác nhau, đồng thời hoàn thiện các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm y tế
cho nông dân nghèo. Vận động các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội nhân đạo trong và ngoài nước chăm sóc sức khỏe người nghèo, người tàn tật với nhiều hình
thức phong phú như: Cấp phát thẻ Bảo hiểm y tế, tổ chức các phòng khám và phát thuốc từ thiện, nhân đạo…
Thứ năm, hoàn chỉnh chính sách, tổ chức, cơ chế hoạt động của y tế tư nhân (cả y và dược) ở nông thôn để đảm bảo cho y tế tư nhân phát triển với vai trò chủ
đạo của hệ thống y tế Nhà nước tại cơ sở, điều chỉnh lại tổ chức và quản lý y tế tư nhân. Đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với y tế tư
nhân.
Thứ sáu, chuyển hướng đầu tư tài chính công của Nhà nước với tỷ lệ cao hơn cho chăm sóc sức khỏe cộng đồng, y tế dự phòng và y tếnông thôn (huyện, xã
và thôn bản) và các tỉnh có nguồn tài chính yếu, tiếp tục trợ giá vận chuyển thuốc, muối Iod và cấp thuốc cho nhân dân các dân tộc vùng núi, vùng kinh tế khó khăn,
thiên tai lũ lụt.
Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với cán bộ y tế cơ sở (xã, phường và thôn bản) như BHXH, BHYT và các phụ cấp khác, đặc biệt là ở
những vùng nông thôn khó khăn để đảm bảo cho cán bộ y tế cơ sở có điều kiện yên tâm và mang hết năng lực của mình phục vụ sức khỏe nhân dân lâu dài tại cơ sở.
Thứ tám, có kế hoạch và xây dựng chế độ đào tạo để bổ sung về số lượng và nâng cao chất lượng chuyên môn, chính trị cho cán bộ y tế cơ sở đảm bảo cập
nhật kiến thức về y tế công cộng, giúp cán bộ y tế cơ sở đủ trình độ để đáp ứng nhiệm vụ với chất lượng ngày càng cao.
Thứ chín, đẩy mạnh việc xây dựng kế hoạch chăm sóc sức khỏe nông dân theo đặc điểm sinh thái, KT - XH và bệnh tật. Nâng cao hiệu quả xã hội hóa công
tác y tế, đưa các chính sách của Đảng, Chính phủ và của ngành vào cuộc sống nhân dân ở nông thôn một cách thiết thực.
Thứ mười, nâng cao hiệu quả và công bằng trong khám, chữa bệnh cho người nghèo, cần phải thực hiện các biện pháp cụ thể sau đây :
Tiếp tục mở rộng và thực hiện có hiệu quả các chương trình xoá đói, giảm nghèo của Nhà nước Chính phủ với những điều kiện thuận lợi và ưu đãi hơn cho
người nghèo để họ tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo.
Thực hiện xã hội hoá hơn nữa công tác khám, chữa bệnh cho người nghèo với những chính sách cụ thể, thiết thực của Nhà nước như: điều chỉnh ngân sách
Nhà nước tăng cho vùng nghèo với số lớn hơn hiện nay (từ 1,7 lên 2,5 đến 3 lần tuỳ theo vùng), điều chỉnh mức cung cấp thuốc chữa bệnh cho phù hợp vật giá (hiện
nay ở mức 20.000 đồng/ người) cho nhân dân miền núi, vùng sâu, vùng xa và giao cho bản, trạm y tế xã và bệnh viện thuộc trung tâm y tế huyện quản lý và cấp cho
người nghèo đến khám chữa bệnh tại trạm y tế xã, phòng khám đa khoa khu vực và bệnh viện thuộc Trung tâm y tế huyện, để góp phần nâng cao hiệu quả công tác
khám chữa bệnh cho người nghèo một cách thiết thực hơn.
Mở rộng bảo hiểm y tế cho người nghèo như: Thành lập quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo bằng sự đóng góp của ngân sách Nhà nước, các tổ chức kinh
tế, cũng như các tổ chức chính trị - xã hội rộng rãi trong và ngoài nước.
Bổ sung tiêu chuẩn để xét hộ nghèo cần dựa vào: Phân loại thu nhập hàng năm của Bộ Lao động Thương binh Xã hội và Tổng cục Thống kê về thu nhập bình
quân đầu người của hộ gia đình và tình hình cuộc sống thực tế tại thôn, xã của hộ đó. Xây dựng cơ chế và quy trình xác định đối tượng người nghèo tại cộng đồng
được chính xác, kịp thời hàng năm, bằng cách giao cho Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và chính quyền tại thôn (bản), xã hội với sự hướng dẫn của
ngành thương binh - xã hội.
Mở rộng và nâng cao chất lượng hơn nữa mạng lưới y tế cơ sở đối với miền núi, vùng sâu, vùng xa bằng cách tăng nhân viên y tế thôn (bản) theo cụm dân cư,
nâng cao chất lượng phòng khám khu vực và bệnh viện thuộc trung tâm y tế huyện... để đảm bảo cho người nghèo có cơ hội thuận lợi được khám chữa bệnh tại cơ
sở y tế địa phương phù hợp với điều kiện kinh tế của người nghèo hiện tại.
Cần huy động y tế tư nhân (cả y và dược) hỗ trợ công tác khám chữa bệnh cho người nghèo trên địa bàn của cơ sở đó đang hành nghề.
Đảng và chính quyền các cấp cần tăng cường giám sát và đánh giá kết quả công tác khám, chữa bệnh cho người nghèo để có những cải tiến công tác này nhiều
hơn nữa.
3.2.2.3. Tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
Phấn đấu có đủ việc làm cho người lao động, nhất là lao động trí tuệ, là vấn đề lớn và quan trọng đối với mọi địa phương trong vùng. Vấn đề này càng trở lên
cấp thiết không chỉ đối với Vùng ĐNB mà còn đối với nước ta, một nước có nền sản xuất còn lạc hậu, tổng sản phẩm vào loại rất thấp, lực lượng lao động thường
trực ngày càng đông đảo, lại bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, chính sách lao động và việc làm phải hướng vào việc khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả để khai thác những lợi thế
của nguồn nhân lực Vùng ĐNB với quan điểm là bảo đảm và tạo điều kiện cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm. Điều này đòi hỏi phải xã
hội hoá việc làm, đồng thời Nhà nước phải tạo môi trường, điều kiện thuận lợi về pháp lý, kinh tế, xã hội để người lao động bình đẳng trong cơ hội tìm kiếm việc
làm; bảo vệ quyền tự do lao động của họ.
Trước hết, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần là điều kiện tiên quyết để giải quyết việc làm
Đây là chính sách giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy sức mạnh toàn dân, điều này đã được minh chứng rõ từ khi nước ta tiến hành công cuộc đổi
mới. Trong những năm qua, hoạt động của khu vực ngoài nhà nước không chỉ góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế của đất nước mà trong thực tế còn tạo ra hầu
hết việc làm cho xã hội, trung bình mỗi năm tiếp nhận gần 1 triệu lao động mới. Hiện tại số lao động làm việc ở khu vực ngoài quốc doanh chiếm tới 4/5 tổng số lao
động. Do vậy, cần tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
Đặc biệt quan tâm tạo việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
Tuy Vùng ĐNB chuyển dịch mạnh mẽ sang khu vực kinh tế hiện đại nhưng số lao động nông nghiệp, nông thôn còn không nhỏ, đất canh tác lại quá thấp nên
tình trạng phổ biến của lao động nông thôn là thiếu việc làm, tỷ suất sử dụng sức lao động thấp. Vì vậy, vấn đề lao động, việc làm, sử dụng có hiệu quả bộ phận lao
động xã hội này trở nên cấp bách, nó không chỉ là nhân tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế khu vực nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế, mà còn có ý nghĩa
lớn lao về phương diện chính trị, xã hội của Vùng.
Trong thời gian qua, cùng với cả nước, Vùng ĐNB đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm khơi dậy tiềm năng lao động, đất đai, tạo việc làm, tăng thu nhập
cho lao động nông nghiệp, nông thôn song đây vẫn còn đang là một bài toán khó. Để góp phần giải bài toán này, phải thực hiện các công việc sau đây:
Một là, công tác quy hoạch và kế hoạch hóa dài hạn về lao động, việc làm trong nông nghiệp, nông thôn cần tiếp tục đặt ra một cách nghiêm túc và thiết thực,
có sự điều tra, đánh giá chuẩn xác thực trạng thị trường lao động nông thôn. Các chương trình việc làm và trợ giúp việc làm quốc gia trong lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn phải được cụ thể hoá phù hợp với điều kiện KT - XH của các địa phương trong Vùng để từ đó lựa chọn các biện pháp tạo ra việc làm có tính khả thi cao;
tránh tình trạng hình thức hoặc thả nổi, cho rằng đó là công việc tự thân của nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Hai là, cần chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển công nghiệp nông thôn, khôi phục và
mở mang các nghề truyền thống với tinh thần " mỗi làng một nghề", từ đó làm biến đổi cơ cấu lao động theo hướng giảm dần số hộ thuần nông, tăng tỷ lệ hộ phi
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay, kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản xuất kinh doanh, thu hút lao
động, do đó cần có chính sách phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi
trường kinh tế, xã hội và luật pháp thuận lợi cho nó phát triển.
Ba là, chú trọng đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế, kỹ thuật và xã hội ở nông thôn, đó là tiền đề tất yếu để phát triển sản xuất, nhờ đó tạo việc
làm và nâng cao đời sống vật chất - tinh thần cho nông dân.
Tóm lại, muốn tạo ra nhiều việc làm cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, tất yếu phải phát triển sản xuất, mở rộng ngành nghề. Để làm được điều này, ngoài
việc phát huy tối đa nội lực của nông nghiệp, nông thôn, nông dân, Nhà nước phải hỗ trợ đắc lực về vốn và các dịch vụ " đầu vào, đầu ra" cho sản xuất, nâng cao
dân trí và đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Mặt khác, vấn đề giải quyết việc làm phải đặt trong điều kiện nền kinh tế thị trường, do đó sự hoạt động của thị trường lao động là tất yếu và khách quan. Điều
quan trọng là Nhà nước phải tổ chức quản lý, hướng dẫn tốt việc thuê mướn và sử dụng lao động; kiểm tra việc trả công lao động, việc thực hiện các quy định về giờ
làm việc trong ngày, về điều kiện lao động, về bảo hộ, an toàn lao động …, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng người lao động. Từ đó,
tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được tự do làm ăn, tự do làm giàu chính đáng, tự do hợp tác và thuê mướn lao động theo pháp luật và theo sự hướng dẫn
của Nhà nước.
Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động với nhiều hình thức, trên cơ sở bảo vệ lợi ích người lao động, đặt trong chiến lược phát triển KT - XH chung
của Vùng ĐNB. Xuất khẩu lao động không chỉ là giải pháp quan trọng nhằm giải quyết việc làm, tăng nguồn thu nhập cho cá nhân và đất nước, mà nó còn là con
đường để đào tạo nguồn nhân lực.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, kết hợp cùng các bộ ngành liên quan và chính quyền địa phương trong vùng cần tổ chức quy hoạch lại hệ thống mạng lưới các trường
trong vùng theo hướng Nhà nước chỉ quản lý trực tiếp đối với các cơ sở đào tạo lớn, còn lại giao cho địa phương quản lý. Nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp lý
về giáo dục, nhằm khuyến khích các đoàn thể xã hội và tư nhân đầu tư mở các trường, trung tâm dạy nghề. Như vậy, đào tạo nghề sẽ bám sát với tình hình sản xuất
của địa phương cũng như hoạt động của các KCN, KCX và KCNC.
Nhà nước cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý theo hướng tỷ lệ Cao đẳng, Đại học - Trung học chuyên nghiệp - Công nhân kỹ thuật là 1:4:10, thông qua việc
giao chỉ tiêu tuyển sinh, thực hiện yêu cầu phân luồng hợp lý học sinh sau khi tốt nghiệp Trung học cơ sở, Trung học phổ thông. Phát triển các trung tâm giới thiệu
việc làm một cách có hệ thống, để góp phần hoàn thiện thị trường lao động và định hướng nghề nghiệp cho người dân địa phương, đồng thời hỗ trợ tài chính từ ngân
sách của trung ương và địa phương hoặc tạo nguồn vốn vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho các cơ sở đào tạo nghề.
Tuyên truyền và vận động người dân nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về đào tạo, qua đó giúp họ nhận thấy rằng, để thành đạt thì có thể bằng nhiều con
đường khác nhau. Người dân có thể học đại học, cao đẳng hoặc cũng có thể học nghề và trở thành một người công nhân có tay nghề cao.
Có chính sách đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực của vùng. Chủ động trong việc xác định đúng mục tiêu đào tạo, thông qua việc tìm hiểu, dự báo thị trường
lao động và nhu cầu của các doanh nghiệp trong các KCN, KCX.
Cần đầu tư và đẩy mạnh công tác cải tiến nội dung, chương trình đào tạo. Bổ sung, sửa đổi lại giáo trình, giáo án của các cơ sở dạy nghề theo những yêu cầu
của mục tiêu đào tạo đề ra, đổi mới phương pháp đào tạo và tăng cường trang bị những phương tiện giảng dạy hiện đại, hệ thống phòng thí nghiệm, phòng thực
hành và cơ sở thực tập. Phải đặt người học vào vị trí trung tâm, tăng cường trao đổi giữa giáo viên với người học, giữa người học với nhau, để hình thành nên mối
quan hệ nhiều chiều, tạo tính chủ động, sáng tạo, tự tin và khả năng quyết tâm rèn luyện của người học. Qua đó, vừa phát triển được khả năng tư duy, kiến thức và
năng lực tự học, tự sáng tạo cũng như tác phong nghề nghiệp cho người học.
Tăng cường đội ngũ giáo viên cả về số lượng và chất lượng thông qua việc mời những chuyên gia, nhà kỹ thuật của các doanh nghiệp đang hoạt động trong
các KCN, KCX, KCNC làm giảng viên hoặc đề nghị cơ quan nhà nước cấp thêm biên chế, quỹ lương để tuyển dụng thêm giáo viên có chuyên môn tốt. Mặt khác,
phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ giáo viên thông qua cộng tác với các doanh nghiệp để đưa giáo viên và học sinh xuống thực tập, hoặc
tìm kiếm các đề tài nghiên cứu khoa học để giáo viên nghiên cứu và thực hiện; khuyến khích giáo viên tự nghiên cứu và tự đi học thông qua việc cơ sở sẽ tạo điều
kiện về mặt thời gian, thậm chí cả kinh phí.
Chính quyền các địa phương trong Vùng, các cơ sở đào tạo cần phải tăng cường công tác đánh giá chất lượng học sinh một cách nghiêm túc, đặc biệt là các cơ
sở đào tạo dân lập, bởi chất lượng học sinh chính là yếu tố quan trọng để tạo ra, nâng cao và duy trì uy tín, thương hiệu của cơ sở đào tạo trên thị trường lao động.
Đối với Ban quản lý và các doanh nghiệp trong các KCN, KCX của vùng. Cần nhanh chóng kết hợp với các bộ, ngành liên quan và chính quyền địa phương
để mở thêm các trường, trung tâm đào tạo nghề tại KCN, KCX nhằm đào tạo trực tiếp công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp sản xuất trong KCN, KCX. Mặt
khác, xúc tiến việc hình thành các trung tâm giới thiệu việc làm thuộc Ban quản lý KCN, KCX nhằm trợ giúp các doanh nghiệp trong hoạt động tuyển dụng lao
động. Các doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận với các cơ sở đào tạo nghề, với Ban quản lý KCN, KCX để kết hợp mở các khóa đào tạo nghề theo nhu cầu của
doanh nghiệp.
Đối với lao động chưa đáp ứng tốt về chuyên môn, doanh nghiệp nên phân công xuống các tổ sản xuất để bố trí việc làm cụ thể. Qua đó, họ có thể vừa làm và
vừa học nghề hoặc doanh nghiệp có thể mở các khoá đào tạo tại trụ sở với việc thuê giáo viên hoặc các chuyên gia kỹ thuật trong và ngoài doanh nghiệp giảng dạy,
sau đó yêu cầu người lao động thực hành ngay tại vị trí làm việc của mình. Các doanh nghiệp nên chủ động tiếp cận với Quỹ quốc gia giải quyết việc làm để có thể
vay được khoản vốn với lãi suất ưu đãi, nhằm đầu tư để nâng cao chất lượng công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các KCN, KCX của Vùng ĐNB đã và đang là nhu cầu cấp bách, là nhân tố then chốt đối với sự hoạt động có hiệu
quả của các doanh nghiệp nói riêng và hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX nói chung trong bối cảnh nền kinh tế thế giới cũng như trong nước đang phụ hồi
mạnh mẽ. Để đáp ứng tốt nhu cầu này, không những cần sự cố gắng, nỗ lực của các cơ sở đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương, của các
doanh nghiệp hoạt động trong các KCN, KCX mà còn cần có sự ủng hộ của người dân trong vùng, cũng như cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá
trình đào tạo nguồn nhân lực.
PHẦN KẾT LUẬN
Vùng ĐNB là khu vực kinh tế năng động của nước ta, có tiềm năng phát triển các ngành kinh tế hiện đại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh. Tuy nhiên, tăng
trưởng kinh tế của Vùng này chủ yếu dựa vào các nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu là gia tăng đầu tư và sản xuất gia công lắp ráp, phụ thuộc rất lớn vào
thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chủ yếu là các ngành công nghiệp thâm dụng lao động. Các ngành công nghiệp được xem là
ngành mũi nhọn phát triển chậm, một số ngành công nghiệp khác còn chưa định hình hay còn rất manh mún và nhỏ bé. Trong quá trình phát triển và hội nhập, Vùng
ĐNB luôn khẳng định vai trò là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong bốn
vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước và cũng là vùng động lực cho công cuộc phát triển KT - XH ở địa bàn Nam Bộ và cả nước theo chiến lược CNH, HĐH.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một yêu cầu tất yếu khách quan của quá trình CNH, HĐH ở Vùng ĐNB. Đồng thời, khai thác được lợi thế trong phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng ngày càng cao của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển theo chiều sâu và nâng cao năng lực cạnh tranh của cả vùng. Công
nghiệp hoá ở nước ta gắn liền với hiện đại hoá; công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay chuyển từ việc chủ yếu khai thác nguồn lực tự nhiên sang khai thác nguồn
lực con người, đặc biệt là nguồn tiềm năng trí tuệ. Để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải có các nguồn lực như nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
nhiên… Các nguồn lực này đều cần thiết và có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nguồn lực con người vai trò quyết định.
Hơn nữa, chính con người là đối tượng mà công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải hướng vào phục vụ, đầu tư, phát triển. Bởi thế trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn chất lượng tăng trưởng kinh tế với đáp ứng phúc lợi của nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội, với phát triển bền vững. Mỗi
thành quả của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện, phương tiện mới để nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người, phát triển
nguồn nhân lực.
Hiện tại, nguồn nhân lực ở nước ta, cũng như Vùng ĐNB bên cạnh những ưu thế về số lượng, con người Việt Nam cần cù, chịu khó, thông minh và sáng
tạo… thì những hạn chế không phải nhỏ, nhất là về trình độ chuyên môn nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp; thêm vào đó, việc
khai thác và sử dụng số lao động đã qua đào tạo, có trình độ lại bất hợp lý và kém hiệu quả. Vì vậy, việc khai thác và phát triển nguồn lực con người hợp lý, có hiệu
quả để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang là nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa sống còn đối với quá trình CNH, HĐH Vùng ĐNB.
Để giải quyết nhiệm vụ này, cần nhanh chóng thực hiện đồng bộ hàng loạt giải pháp về giáo dục và đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân
số, cải thiện môi trường sống, về tạo việc làm, về tổ chức khai thác lực lượng lao động, về hệ thống các động lực kích thích tính tích cực của con người… Nhận thức
đúng vị trí và đặc điểm của nguồn lực con người trong thời đại ngày nay, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; thấy được nguồn
lực con người là nguồn vốn lớn nhất, quý nhất, quan trọng nhất trong tất cả các nguồn lực hiện có để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.