Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI SẮP XẾP, ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.91 KB, 29 trang )

DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI SẮP XẾP,
ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG ĐIỀU KIỆN
NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1.1.1. Quan niệm về doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của
kinh tế nhà nước, quan trọng nhất nhưng không phải đồng nhất và đồng
nghĩa với kinh tế nhà nước. Do vậy phải điểm lại các quan niệm về doanh
nghiệp nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Trên
thế giới, khi nghiên cứu hoặc đề xuất phương án cải cách doanh nghiệp nhà
nước, các học giả có quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước, các
định nghĩa pháp lý và học thuật về doanh nghiệp nhà nước của các quốc gia
khác nhau cũng rất khác nhau. Ở nước ta quan niệm về doanh nghiệp nhà
nước qua các thời kỳ đổi mới quản lý cũng đã thay đổi rất nhiều và rất nhiều
học giả, nhà quản lý đôi khi lẫn lộn giữa khái niệm doanh nghiệp nhà nước
với các khái niệm gần nghĩa khác dẫn đến hiểu sai lệch về vai trò, vị trí của
doanh nghiệp nhà nước và cuối cùng dẫn đến cách thức tổ chức quản lý, đổi
mới doanh nghiệp nhà nước có sự khác nhau giữa các ngành, các địa
phương.
Trong điều kiện kinh tế kế hoạch hóa tập trung, doanh nghiệp nhà
nước (trước đây gọi là xí nghiệp quốc doanh) chiếm vai trò độc tôn trong
nền kinh tế, đó là những doanh nghiệp hạch toán kinh tế theo nguyên tắc thu
đủ, chi đủ, bao cấp (Trung Quốc gọi là cơ chế ăn nồi cơm chung, Liên Xô cũ
gọi là cơ chế chi phí). Về mặt sở hữu, đó là những doanh nghiệp do Nhà
nước đầu tư vốn 100%, trực tiếp quản lý.


Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc
chuyển đổi (cải cách, đổi mới) cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp nhà


nước luôn là vấn đề trung tâm. Kết quả là các doanh nghiệp nhà nước không
những thay đổi về nguyên tắc hoạt động, cơ chế quản lý và hạch toán mà
còn thay đổi cả cơ cấu sở hữu, phát triển một số hình thức đan xen sở hữu
hoàn toàn mới. Chính vì vậy, Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành ngày
20/4/1995 (lần đầu tiên ở Việt Nam) đã đưa ra khái niệm có tính pháp lý về
doanh nghiệp nhà nước như sau:
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước
đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh
hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã
hội do Nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp
nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp
quản lý [1].
Qua gần 10 năm thực hiện, Luật đã có một vai trò rất quan trọng
trong việc củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước, góp phần tăng
cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, thu hút đầu tư nước ngoài, bảo
đảm tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua còn nhiều doanh nghiệp nhà
nước hoạt động kém hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, có nhiều nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này như những yếu kém về trình độ quản lý, công
nghệ thiết bị lạc hậu... trong đó, có một nguyên nhân quan trọng là những
vướng mắc về thể chế, chính sách tổ chức quản lý đối với doanh nghiệp nhà
nước làm cho khu vực doanh nghiệp này thiếu tính năng động, tự chủ, tự
chịu trách nhiệm. Bên cạnh đó, sau khi Luật doanh nghiệp nhà nước có hiệu
lực thi hành, đã có nhiều văn bản liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp


nói chung được ban hành như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, Luật thương
mại... Trong đó, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo Luật
doanh nghiệp được đổi mới hơn so với doanh nghiệp hoạt động theo Luật

doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về sắp xếp, đổi
mới, phát triển doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả và tiến tới
hình thành một mặt bằng pháp lý chung cho mọi loại hình doanh nghiệp,
Luật doanh nghiệp nhà nước đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
ngày 1/7/2004, khẳng định: "Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do
Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối,
được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty
trách nhiệm hữu hạn" [15].
1.1.2. Phân loại doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét phân loại theo nhiều
tiêu thức khác nhau. Sau đây là một số cách phân loại chủ yếu:
Xét theo mức độ sở hữu, doanh nghiệp nhà nước có hai loại: Loại
doanh nghiệp nhà nước chỉ có một chủ sở hữu vốn duy nhất là Nhà nước;
loại doanh nghiệp nhà nước có nhiều chủ sở hữu vốn, trong đó nhà nước
nắm giữ một phần sở hữu nhất định.
Xét theo mục tiêu kinh tế - xã hội, doanh nghiệp nhà nước được chia
thành: doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận (hoạt động công ích);
doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (hoạt động kinh doanh) [8], [7].
Căn cứ vào sự khác nhau về địa vị pháp luật, doanh nghiệp nhà nước
có thể chia thành ba loại:
- Doanh nghiệp nhà nước do chính phủ trực tiếp quản lý, không có
đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập: loại doanh nghiệp nhà nước có nguồn vốn từ


ngân sách của các cơ quan chủ quản thuộc chính phủ và các đại biểu chính phủ
tham gia vận hành kinh tế mà chủ yếu là các xí nghiệp liên quan đến quốc kế
dân sinh như y tế, giao thông công cộng, điện nước, bưu chính, đường sắt, sản
xuất vũ khí... Hiện nay, loại doanh nghiệp nhà nước này không còn thấy
nhiều ở các nước.

- Doanh nghiệp nhà nước có đầy đủ pháp nhân và toàn bộ tài sản
thuộc về nhà nước: Đây là các doanh nghiệp nhà mà toàn bộ tài sản do nhà
nước đầu tư và có đầy đủ địa vị pháp nhân độc lập. Ở các nước trên thế giới
loại hình doanh nghiệp này thường thuộc các lĩnh vực công cộng, lấy việc phục
vụ xã hội làm mục tiêu cơ bản, như: đường sắt, bưu chính, điện, khí, ga, nước
sạch... Loại doanh nghiệp nhà nước này là những thực thể kinh tế được lập ra
và kinh doanh dựa vào một pháp quy cụ thể nào đó của nhà nước, đồng thời lệ
thuộc vào cơ quan quản lý của nhà nước, tuy có đầy đủ địa vị pháp nhân độc
lập, đồng thời có quyền tự chủ kinh doanh nhất định trong phạm vi đã xác định
nhưng các doanh nghiệp này đều phải lấy một mục tiêu nào đó của Nhà nước
làm tôn chỉ hoạt động kinh doanh và chấp hành sự điều tiết kinh tế và quản lý
nhất định của Chính phủ.
- Doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp có địa vị pháp nhân độc lập và
Nhà nước nắm quyền sở hữu một phần tài sản: phần lớn ở các nước tư bản,
doanh nghiệp nhà nước hỗn hợp là hình thức chủ yếu nhất trong mọi loại
hình doanh nghiệp nhà nước. Đặc điểm lớn nhất của loại doanh nghiệp nhà
nước này là nhà nước tham dự cổ phần, nhờ đó có thể khống chế chúng.
Nhưng doanh nghiệp nhà nước loại này hoạt động kinh doanh theo nguyên
tắc của doanh nghiệp tư nhân, thu lợi nhuận kinh doanh qua cạnh tranh với
các doanh nghiệp khác, đồng thời, bằng chế độ tham dự, nhà nước có thể
triển khai các hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất
nước bao gồm những công trình cơ sở hạ tầng như ngân hàng, đường sắt,
đường bộ, vận tải biển và cũng có thể triển khai mở rộng vào các ngành


công nghiệp mới. Doanh nghiệp nhà nước theo chế độ nhà nước tham dự
ngày càng tỏ ra là loại hình doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả nhất [9],
[10].
Dựa theo cấp độ quản lý, doanh nghiệp nhà nước được chia thành:
- Doanh nghiệp nhà nước địa phương (doanh nghiệp địa phương): là

những doanh nghiệp chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan, ban
ngành cấp tỉnh.
- Doanh nghiệp nhà nước Trung ương (doanh nghiệp Trung ương): là
những doanh nghiệp vừa chịu sự quản lý về mặt hành chính của các cơ quan,
ban ngành cấp tỉnh cũng đồng thời chịu sự quản lý và chi phối trực tiếp trực
tiếp của các cơ quan quản lý cấp trên theo ngành dọc như các Tổng công ty
(Tổng công ty Điện lực), các liên hiệp xí nghiệp (liên hiệp xí nghiệp đường
sắt), các Cục, Tổng cục…
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà
nước mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước và hệ thống thể chế kinh tế
vĩ mô luôn được xác định là hai công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện
vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế quốc dân, dẫn dắt nền kinh tế
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường được
thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Doanh nghiệp nhà nước có vị trí rất quan trọng, góp phần để kinh tế
nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là động lực
thúc đẩy phân bố lại dân cư theo hướng công nghiệp hóa, hình thành các
trung tâm kinh tế văn hóa, đô thị mới, trang bị lại kỹ thuật, đổi mới công


nghệ cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đào tạo bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật,
công nhân lành nghề và tạo thêm điều kiện hạ tầng để phát triển đất nước.
Nhờ liên tục đổi mới hệ thống chính sách đối với doanh nghiệp nhà
nước nói riêng và kinh tế nhà nước nói chung, đã bước đầu hình thành đòn
bẩy thu hút và khuyến khích các thành phần kinh tế khác liên doanh với
doanh nghiệp nhà nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước là công cụ vật chất để Nhà nước điều tiết

nền kinh tế và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Doanh nghiệp nhà nước đã và đang chiếm vị trí quan trọng trong
nhiều ngành kinh tế chủ chốt, bảo đảm các điều kiện cơ sở hạ tầng, dịch vụ
xã hội ngày một tốt hơn. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò quyết định
trong việc cung cấp những sản phẩm trọng yếu cho nền kinh tế quốc dân,
như điện, xi măng, sắt thép, phân bón, xăng dầu, giấy viết... là lực lượng chủ
yếu thực hiện các chính sách xã hội thông qua các doanh nghiệp công ích,
nhờ có doanh nghiệp nhà nước và lực lượng vũ trang mà chúng ta có khả
năng ứng phó có kết quả trong việc khắc phục ảnh hưởng và hậu quả của
thiên tai.
Doanh nghiệp nhà nước góp phần điều tiết cơ cấu nền kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển mạnh của doanh nghiệp
nhà nước trong các ngành công nghiệp, dịch vụ góp phần tăng nhanh tỷ
trọng GDP của các ngành này trong nền kinh tế; các ngành thuộc cơ sở hạ
tầng như: giao thông. năng lượng, bưu chính viễn thông đã tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế khác phát triển. Doanh nghiệp nhà nước được thành
lập ở vùng núi, vùng có nhiều khó khăn góp phần thay đổi kinh tế vùng lãnh
thổ.
Mặc dù đã giảm mạnh về số lượng doanh nghiệp và phần tài trợ của
Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước vẫn đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo


đảm hầu hết yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích, các điều kiện giao
thông, điện, nước, thông tin, vật tư, hàng hóa cho xuất khẩu và thị trường
trong nước, đóng góp cho ngân sách nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
các chính sách xã hội và ổn định kinh tế - xã hội, góp phần cùng với khu vực
kinh tế khác giải quyết các vấn đề việc làm, thu nhập cho người lao động,
xóa đói giảm nghèo, phát triển văn hóa giáo dục, y tế làm cơ sở và nền tảng
cho yêu cầu từng bước hình thành chế độ mới.

Tóm lại, doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vẫn giữ được vai
trò quan trọng trong nền kinh tế, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực
hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
1.1.4. Đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Là một loại hình trong cộng đồng các doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước có các đặc
trưng chung như mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như:
- Là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, trụ sở giao dịch ổn định,
được đăng ký kinh doanh theo quy định nhằm thực hiện các mục đích hoạt
động kinh doanh.
- Chức năng của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động sản xuất, cung
ứng dịch vụ, trao đổi, hợp tác và tiêu thụ sản phẩm.
- Mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi ích kinh tế,
trước hết là mục đích sinh lợi.
- Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp là điều kiện cơ bản, quyết
định sự tồn tại của doanh nghiệp trong nền kinh tế.


Ngoài những đặc điểm chung kể trên, các doanh nghiệp nhà nước
cũng có những đặc điểm riêng, đó là:
- Chủ sở hữu tài sản, tiền vốn trong doanh nghiệp nhà nước là Nhà
nước dưới hình thức sở hữu toàn dân. Do vậy, các doanh nghiệp nhà nước
thường phải chịu áp lực quản lý hoặc điều tiết của Chính phủ như giá bán,
nguồn cung cấp nguyên liệu, họ không được chủ động hoàn toàn trong việc
lựa chọn các mặt hàng kinh doanh và phương án đầu tư. Hơn thế, các doanh
nghiệp nhà nước thường chịu sự chi phối của không chỉ một cơ quan chủ
quản, mỗi cơ quan lại có một yêu cầu riêng về quản lý, vì vậy một quyết
định có tính chiến lược kinh doanh thường được triển khai chậm, có khi còn
mất cả cơ hội do phải trình duyệt qua nhiều cửa, nhiều cấp quản lý.

- Hoạt động của doanh nghiệp nhà nước ngoài mục tiêu tối đa hóa lợi
nhuận, vẫn có một số trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu cơ bản
quan trọng nhất (như đối với doanh nghiệp hoạt động công ích). Vì ngoài
việc đầu tư phát triển để thu được lợi nhuận tối đa, các doanh nghiệp nhà
nước đôi khi còn phải đầu tư vào các chương trình phù hợp với kế hoạch
quốc gia hoặc hy sinh lợi nhuận để thực hiện các mục tiêu xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh
nghiệp nhà nước giữ vai trò then chốt để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò
chủ đạo và ổn định nền kinh tế - xã hội. Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò
tích cực như cung cấp những dịch vụ, cơ sở vật chất quan trọng cho nền kinh
tế quốc dân, gánh lấy những rủi ro trong sự phát triển kinh tế; giải quyết một
loạt các vấn đề kinh tế - xã hội, đồng thời tiến hành các chức năng đặc biệt
như an ninh, quốc phòng…
Các đặc điểm nêu trên không những có ảnh hưởng và chi phối rất lớn
đến công tác hoạch định cơ chế chính sách tài chính đối với doanh nghiệp


nhà nước mà còn ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà
nước.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI SẮP XẾP, ĐỔI MỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM

1.2.1. Những yếu kém, tồn tại của doanh nghiệp nhà nước cần được
khắc phục
Thực hiện đường lối đổi mới, hơn 10 năm qua khu vực doanh nghiệp
nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện được vai trò chủ đạo
của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, những
mặt tích cực, trong quá trình phát triển doanh nghiệp nhà nước còn bộc lộ
những yếu kém, tồn tại, chưa tương xứng với yêu cầu và năng lực sẵn có của
doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là:

- Thứ nhất, hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của
doanh nghiệp nhà nước còn thấp, chưa tương xứng với điều kiện và lợi thế
có được; tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp nhà nước có biểu hiện giảm
dần, nợ khó đòi ngày càng lớn.
Về hiệu quả kinh doanh, mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phía
Nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các
doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ được hiệu quả của mình so với
khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng và Nhà nước,
chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do Nhà nước dành cho.
Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành
do Bộ Tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được
vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc
vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy
đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi và trích


lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu
tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu báo cáo năm 2003 của
Bộ Tài chính, trong tổng số 4.800 doanh nghiệp nhà nước thì số doanh nghiệp
kinh doanh có lãi chiếm 77,2% (nếu tính theo chỉ tiêu hiệu quả chỉ chiếm 56%);
số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 13,5% (nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định
thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn), số còn lại là những doanh nghiệp
nhà nước chưa có hiệu quả, nằm trong tình trạng khi lỗ, khi lãi và nếu có lãi
cũng chỉ là tượng trưng.
Về khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp nhà nước rất yếu kém,
biểu hiện rõ nhất là chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh yếu kém ngay tại
thị trường nội địa, có nhiều ngành, sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước
đang được bảo hộ tuyết đối (ưu đãi, độc quyền) hoặc bảo hộ qua hàng rào
thuế quan, trợ cấp (qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế…) nhưng các
doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình,

thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để Nhà nước tăng
cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo
số liệu nghiên cứu gần đây của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, các mặt
hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây
dựng, xe đạp, động cơ nổ... đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và
phi thuế quan dẫn đến giá trên thị trường Việt Nam cao hơn giá quốc tế từ
10-50% tùy mặt hàng. Khả năng cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà
nước thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh
lợi, thị phần của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút nhường
chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh, khả năng
cạnh tranh kém của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện Việt Nam đã
và đang thực hiện cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình
Nhà nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các
doanh nghiệp nhà nước.


Tình trạng công nợ của doanh nghiệp nhà nước hiện nay là khá nghiêm
trọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi có xu hướng ngày càng tăng. Trong số 15,1%
nợ quá hạn ngân hàng thương mại thì doanh nghiệp nhà nước chiếm 64,8%,
gây khó khăn lớn đến hoạt động của ngân hàng. Theo Báo cáo của Bộ Tài
chính đến hết năm 2003, tổng số nợ phải trả lên tới 207.778 tỷ đồng (tăng 10%
so với năm 2002), trong đó nợ quá hạn là 10.716 tỷ đồng, nợ khó đòi là 2.748
tỷ đồng, tỷ lệ nợ này không phải là cao so với các nước trên thế giới nhưng
khả năng thanh toán lại rất thấp. Thêm vào đó theo thống kê của Bộ Tài
chính, ước tính lượng hàng hóa tồn kho tại các doanh nghiệp nhà nước hiện lên
tới 45.600 tỷ đồng, bằng 12,7% tổng giá trị tài sản của khối doanh nghiệp nhà
nước và 26,2% tổng giá trị tài sản lưu động, trong số hàng tồn kho trên có
khoảng 1.155 tỷ đồng hàng hóa thuộc diện ứ đọng không cần dùng. Ngoài
ra, lượng hàng hóa tồn kho lâu ngày bị kém, bị mất phẩm chất cũng lên tới
445 tỷ đồng. Do hầu hết hàng hóa tồn kho là vật tư, nguyên liệu có từ thời

bao cấp, lỗi thời, không tiêu thụ được và để lâu, chất lượng giảm, kỹ thuật
lạc hậu nên các doanh nghiệp cứ để treo chờ Nhà nước có biện pháp xử lý,
điều này làm tăng gánh nặng cho chi phí bảo quản, cất giữ, gây ứ đọng vốn.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước còn nhiều về số lượng, nhưng lại
nhỏ về quy mô, dàn trải, chồng chéo về ngành nghề và lãnh thổ, địa phương
nên dẫn đến tình trạng manh mún, hạn chế sự tích tụ, tập trung sản xuất.
Đến tháng 12/2003 cả nước có 4.800 doanh nghiệp với tổng số vốn
nhà nước 139.293 tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp là 29 tỷ đồng. Số
doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tới 42,45%, trong
khi đó số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 29,89%; số doanh
nghiệp nhà nước có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm gần 50% tổng số doanh
nghiệp tại 51 tỉnh, trong đó tại 14 tỉnh số doanh nghiệp nhà nước có vốn
dưới 5 tỷ đồng chiếm trên 75%, cũng tại các địa phương này, hơn 30% số


doanh nghiệp nhà nước có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đặc biệt có 6 tỉnh con số này
là hơn 50% (Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Kon Tum, Hà Tây, Nam Định và Hà
Nam) [2].
Nhiều doanh nghiệp nhà nước cùng loại hoạt động trong tình trạng
chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, cơ quan quản lý và trên cùng một địa
bàn, tạo ra sự cạnh tranh không đáng có trong khu vực doanh nghiệp nhà
nước với nhau. Hiện nay trên một sân bay có đến 4 - 5 doanh nghiệp của
Tổng Công ty Hàng không Việt Nam và Cục Hàng không cùng kinh doanh,
vừa chồng chéo vừa cạnh tranh lẫn nhau. Các doanh nghiệp thuộc cùng một
ngành kinh tế kỹ thuật rất phân tán, manh mún, trực thuộc nhiều cơ quan
quản lý khác nhau, điển hình là trong các lĩnh vực thương mại, tư vấn, xây
dựng; sự kết hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau và với
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn lỏng lẻo và chưa thành
nề nếp.
Sự chồng chéo, trùng lặp về ngành nghề, về sản phẩm trong khi thị

trường còn chưa được phát triển và sức mua của nhân dân chưa cao đã dẫn
đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Đầu tư dàn trải trong khi nguồn
vốn rất hạn hẹp, quan hệ cung cầu luôn không cân đối.
Thứ ba, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, đầu tư đổi mới công
nghệ chậm đã hạn chế khả năng cạnh tranh và hội nhập của các doanh
nghiệp.
Theo thống kê của Bộ Công nghiệp thì các doanh nghiệp nhà nước
được trang bị máy móc thiết bị từ nhiều nước khác nhau (26% của Liên Xô
cũ, 25% của các nước Đông Âu, 20% của các nước ASEAN và Bắc Âu, trên
18% là các nước khác, còn trong nước chỉ chế tạo chưa đến 12%) và thuộc
các thế hệ khác nhau. Theo kết quả khảo sát 727 thiết bị và 3 dây chuyền
nhập khẩu của 42 cơ sở của một ngành do Viện Khoa học Bảo hộ lao động


thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tiến hành gần đây thì đến 76%
thiết bị máy móc nhập khẩu thuộc thế hệ những năm 50 - 60, trên 70% đã
hết khấu hao, gần 50% được tân trang lại.
Theo tài liệu của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường qua khảo
sát nhiều doanh nghiệp thuộc 7 ngành thì máy móc thiết bị, dây chuyền sản
xuất lạc hậu so với thế giới từ 20 đến 30 năm, trình độ cơ khí hóa, tự động
hóa dưới 10%, mức độ hao mòn hữu hình từ 30 đến 50%; có 38% tài sản cố
định ở dạng thanh lý; 52% qua bảo dưỡng, sửa chữa, hậu quả là chưa tạo ra
được các sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Một số mặt
hàng như cơ khí, sắt thép, xi măng, phân bón, kính xây dựng... có mức giá
cao hơn hàng nhập cùng loại từ 20 đến 40% [6], [3].
Thứ tư, tình trạng thiếu việc làm và lao động dôi dư trong các doanh
nghiệp nhà nước đang là một khó khăn lớn, ảnh hưởng đến việc đẩy nhanh
quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì hiện nay
số lao động không có việc làm trong doanh nghiệp nhà nước khoảng 6%

nhưng trong thực tế nhiều doanh nghiệp nhà nước có số lao động quá lớn so
với yêu cầu như ở Tổng Công ty Than Việt Nam, Công ty Gang Thép Thái
Nguyên, các nhà máy xi măng địa phương… Số lao động không có việc làm
ở các địa phương chiếm tỷ lệ cao hơn, tiếp đến là ở các Bộ, ngành trung
ương. Các địa phương có số lao động không có việc làm đặc biệt cao là Hải
Dương (33%), Nam Định (27%), Hà Tĩnh (23%), Nghệ An (16%), Hải
Phòng (15%). Tổng Công ty Than dôi dư lao động 30%, Tổng Công ty
Lương thực miền Bắc dôi dư lao động 28%. Tổng Công ty Thép Việt Nam
dôi dư lao động 12%.


Bên cạnh đó phần lớn người lao động không qua đào tạo hoặc đào
tạo rất hạn chế nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất lao động của
doanh nghiệp. Khi chuyển sang cơ chế tự chủ của doanh nghiệp thì Nhà
nước chưa có cơ chế giám sát về tuyển dụng lao động, trả công lao động và
gắn với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên việc
tuyển dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn rất tùy tiện. Mặt khác, cơ chế
chính sách hiện hành chưa làm cho doanh nghiệp giảm được số lao động dôi
dư.
Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhà nước ở ta đều được hình thành
từ cơ chế tập trung bao cấp hoặc tiếp quản những cơ sở sản xuất kinh doanh
của chế độ cũ. Trong giai đoạn chuyển tiếp sang cơ chế mới đã cho phép các
cơ quan, trường học, quận huyện được thành lập doanh nghiệp nhà nước để
"tự cứu" nên hầu hết không đủ những điều kiện tối thiểu, trách nhiệm tài sản
không được phân định rõ ràng, trang bị quá đơn sơ, đội ngũ giám đốc và
công nhân không được đào tạo có hệ thống, phương hướng sản xuất kinh
doanh không gắn với yêu cầu lâu dài của thị trường. Mặt khác, kinh tế tư
nhân còn quá non yếu nên doanh nghiệp nhà nước chưa thể điều chỉnh cơ
cấu thật mạnh theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế.

Thứ năm, tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp khá phổ biến. Các
doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư thành lập nhưng vốn Nhà nước
cấp không đủ ở mức tối thiểu cần thiết cho sản xuất kinh doanh. Có gần 60%
số doanh nghiệp nhà nước không có đủ vốn pháp định theo Nghị định 50/CP
của Chính phủ. Vốn Nhà nước trong các doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng
60% tổng số vốn kinh doanh, trong đó các Tổng Công ty là 75%, các doanh
nghiệp do Bộ, ngành quản lý là 45%; các doanh nghiệp do địa phương quản
lý là gần 50%. Trên 50% doanh nghiệp chưa có đủ vốn lưu động cần thiết.


Trong số vốn lưu động hiện có cũng chỉ huy động được cho kinh doanh
khoảng 50%, còn lại dưới dạng vật tư mất phẩm chất, kém phẩm chất hoặc
các khoản công nợ không có khả năng thu hồi, khoản lỗ chưa được bù đắp…
Những mặt hạn chế, yếu kém của doanh nghiệp nhà nước nêu trên xuất
phát từ nhiều nguyên nhân. Có thể khái quát một số nguyên nhân chủ yếu
sau:
* Nguyên nhân khách quan
Những vấn đề tồn tại của doanh nghiệp nhà nước có nguyên nhân
khách quan là trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, cơ chế mới đang hình
thành, cơ chế cũ chưa được xóa bỏ triệt để và nhiều vấn đề do lịch sử để lại
nặng nề không thể giải quyết được trong một sớm một chiều.
Trừ một phần nhỏ số doanh nghiệp được thành lập trong giai đoạn
đổi mới, còn đa phần các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam là kế thừa từ
thời bao cấp với các đặc trưng như công nghệ kỹ thuật lạc hậu, không có
nguồn thay thế. Nguồn vốn khấu hao để tái sản xuất giản đơn cũng chưa đủ
do chế độ trích nộp khấu hao vào ngân sách nhà nước những năm trước đây.
Lao động vừa thiếu (thiếu lao động lành nghề), vừa thừa (thừa lao động không
đáp ứng yêu cầu công việc) song chưa có cơ chế giải quyết. Cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước không hợp lý, không có khả năng tự đổi mới công nghệ cũng
như ngành nghề...

Để thoát khỏi tình trạng đó, chúng ta cũng không thể dùng giải pháp
phá đi làm lại bởi năng lực sản xuất của đất nước và đời sống của nhiều con
người trông cậy vào đây mà chỉ có thể dùng biện pháp gỡ rối dần dần, vừa
cải tổ, vừa ổn định kinh tế và xã hội, chính vì thế hiệu quả của hệ thống
doanh nghiệp nhà nước chưa thể cải thiện nhanh.
* Nguyên nhân chủ quan


Thứ nhất, chưa nhận thức thống nhất và đầy đủ nội dung đổi mới và
phát triển doanh nghiệp nhà nước; trong tổ chức thực hiện thiếu kiên quyết,
không triệt để và chưa có giải pháp, chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu
đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và vị trí quan trọng của doanh
nghiệp nhà nước chưa được nhận thức đầy đủ và thống nhất đã gây khó khăn
lúng túng khi định hướng và thực hiện các biện pháp đổi mới doanh nghiệp
nhà nước nhất là các biện pháp về sắp xếp, đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp
nhà nước. Quá trình sắp xếp vẫn còn mang tính chất hành chính, chưa gắn
với cơ chế điều chỉnh của thị trường, với Luật phá sản, chưa quan tâm đầy
đủ đến yếu tố chất lượng, hiệu quả và khả năng hội nhập nên kết quả còn
nhiều hạn chế. Ttrong khi không đủ khả năng bảo đảm vốn tối thiểu cho
doanh nghiệp nhà nước hoạt động nhưng nhiều ngành, địa phương cho rằng
vị trí của doanh nghiệp nhà nước được thể hiện qua số lượng lớn, tỷ trọng
cao nên vẫn muốn duy trì nhiều doanh nghiệp nhà nước dẫn đến đầu tư quá
phân tán và còn thành lập thêm những doanh nghiệp nhà nước, trong cổ phần
hóa vẫn muốn Nhà nước giữ tỷ lệ cổ phần chi phối…
Một hiện tượng không bình thường là gần đây trong khi việc sắp xếp
doanh nghiệp, thu gọn đầu mối, giải quyết những doanh nghiệp thua lỗ kéo
dài, khắc phục tình trạng thiếu vốn còn đang phải đẩy mạnh thì một số
doanh nghiệp nhà nước lại được thành lập chỉ dựa vào các dự án vay vốn
đầu tư xây dựng cơ bản, cơ quan sáng lập doanh nghiệp nhà nước với tư

cách là chủ sở hữu nhưng lại không đảm bảo đủ vốn tối thiểu ban đầu cho
doanh nghiệp nhà nước và không nghiên cứu kỹ thị trường tiêu thụ sản
phẩm. Do đó nhiều doanh nghiệp vừa mới bắt đầu hoạt động đã lâm vào tình
trạng nợ nần, sản phẩm không tiêu thụ được, năng suất lao động thấp, nổi
bật là trong các lĩnh vực xi măng lò đứng, mía đường, gạch Tuy-nen.


Thứ hai, cơ chế chính sách quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp
nhà nước còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần tháo gỡ.
Chính sách tài chính tín dụng tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng
vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp với loại hình doanh nghiệp nhà nước hoạt
động công ích và hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường. Nhà nước
chưa tạo đủ điều kiện và chưa đòi hỏi đúng mức để doanh nghiệp nhà nước
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, năng động trong sản xuất kinh doanh, tích tụ
vốn cho đầu tư và đổi mới công nghệ; chưa xây dựng phát triển được đồng
bộ thị trường vốn để tạo ra sự chu chuyển thông suốt trong toàn xã hội, đáp
ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
Đặc biệt vốn ban đầu, doanh nghiệp nhà nước nói chung không được
Nhà nước đầu tư đầy đủ mà chỉ đầu tư vào tài sản cố định. Điều này khiến
nhiều doanh nghiệp không đảm bảo được vốn lưu động tối thiểu. Nguyên
nhân là Nhà nước thiếu vốn nhưng lại đầu tư dàn trải, đồng thời pháp luật
cũng không quy định rõ mức vốn Nhà nước phải đầu tư vào doanh nghiệp,
không phân biệt rõ tính chất vốn điều lệ, vốn đầu tư dẫn đến trách nhiệm về
đầu tư vốn của chủ sở hữu nhà nước không rõ ràng và đầy đủ.
Chính sách thuế tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn còn nhiều
điểm bất hợp lý, chưa ổn định, chưa chú trọng đầy đủ đến việc nuôi dưỡng
nguồn thu và phát triển sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
tích lũy vốn. Chế độ kế toán chưa tạo điều kiện và bắt buộc doanh nghiệp
nhà nước hạch toán đúng kết quả kinh doanh; phân phối thu nhập chưa tạo
được động lực mạnh mẽ cả đối với người quản lý và người lao động; chính

sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lại doanh nghiệp chưa gắn chặt
với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Nhiều cơ chế, chính sách tài chính không
còn phù hợp với cơ chế thị trường nhưng chưa được sửa đổi, chẳng hạn như:
quỹ dự phòng rủi ro, quỹ dự phòng thất nghiệp…


Về quản lý nhà nước, chưa phân định rõ ràng các loại quyền như:
quyền quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quyền của cơ
quan nhà nước với tư cách là chủ sở hữu; quyền của đại diện chủ sở hữu trực
tiếp đối với doanh nghiệp; quyền sử dụng vốn và quyền chủ động kinh
doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, cơ chế thực thi sở hữu nhà nước vẫn tỏ ra
chưa hiệu quả do một mặt, chúng ta thừa nhận quyền tự chủ khá rộng rãi của
doanh nghiệp, nhưng mặt khác vẫn còn tồn tại chế độ chủ quản hành chính
trước kia như: duyệt dự án đầu tư mới, bổ nhiệm cán bộ chủ chốt, kiểm tra
theo chức năng của cơ quan chủ quản… đã dẫn đến tình trạng doanh nghiệp
vừa làm vừa lo, còn cơ quan quản lý nhà nước vẫn thích can thiệp quá nhiều
vào công việc của doanh nghiệp mà không phải chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, cải cách hành chính còn tiến hành chậm, chưa theo kịp đòi
hỏi thực tiễn của tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, việc nâng cao
hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn hạn chế, còn
gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp, chưa phát huy đầy đủ quyền tự chủ,
tính năng động của doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường.
Thứ ba, sự chậm trễ trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa sở
hữu và cổ phần hóa, chưa tạo được cơ chế quản lý năng động có hiệu quả và
đã làm hạn chế các kênh huy động vốn của xã hội cho yêu cầu bù đắp phần
thiếu hụt vốn đầu tư của Nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước và chậm
khắc phục có hiệu quả tình trạng trì trệ và thiếu trách nhiệm trong lao động,
quản lý sử dụng vốn của nhà nước.
Thứ tư, trình độ năng lực quản lý kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước còn nhiều yếu kém, bất cập so với yêu cầu hạch toán kinh doanh theo

cơ chế thị trường, nhất là đội ngũ giám đốc doanh nghiệp và cán bộ chủ chốt
có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp nhưng do cơ
chế theo dõi, tuyển chọn và đào tạo còn nhiều yếu kém, bất cập do đó một


bộ phận không nhỏ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp nhà nước hiện nay
chưa đáp ứng được yêu cầu, kém năng lực phẩm chất và thiếu trách nhiệm,
trong khi đó việc bãi nhiệm, thay thế lại hết sức khó khăn.
Từ những phân tích trên cho thấy, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp,
đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay vừa đáp ứng được đòi
hỏi bức xúc của thực tiễn, vừa là một tất yếu khách quan để các doanh
nghiệp có thể giữ vững, phát huy vai trò chủ đạo của mình trong nền kinh tế
và chuẩn bị cho quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
1.2.2. Phương hướng và mục tiêu sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà
nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VI, VII, VIII và các Nghị quyết
Ban chấp hành Trung ương về đổi mới và phát triển kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, hơn 10 năm qua Chính phủ đã triển khai nhiều
biện pháp sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước và đã đạt được một số
kết quả tích cực. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện cũng bộc lộ những tồn
tại, yếu kém và cũng còn nhiều vướng mắc cần được tiếp tục xử lý, tháo gỡ
để doanh nghiệp nhà nước thực sự phát huy được vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định:
Kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước
định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước
giữ các vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội
và chấp hành pháp luật.



Trong 5 năm tới, cơ bản hoàn thành việc củng cố sắp xếp,
điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động các
doanh nghiệp nhà nước hiện có, đồng thời phát triển thêm doanh
nghiệp mà Nhà nước đầu tư 100% vốn ở một số ngành, lĩnh vực
then chốt và địa bàn quan trọng. Xây dựng một số tập đoàn kinh tế
mạnh trên cơ sở các Tổng Công ty Nhà nước, có sự tham gia của
các thành phần kinh tế. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và
đa dạng hóa sở hữu đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước không
nhất thiết nắm giữ 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê… các
doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập,
giải thể, phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và
không thực hiện được các biện pháp trên [5].
Mục tiêu của việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp
nhà nước trong những năm tới là:
- Xây dựng doanh nghiệp nhà nước đủ mạnh góp phần chủ yếu để
kinh tế nhà nước làm tốt hơn vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành
phần định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Làm cho doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, hoạt động có
hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn trong các ngành
và lĩnh vực kinh tế then chốt để Nhà nước chi phối, điều khiển được nền
kinh tế, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
- Làm nòng cốt đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và xây dựng công
nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công
nghiệp quốc phòng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
- Bảo đảm được nhu cầu cần thiết cho an ninh, quốc phòng và các
sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội.



Từ những mặt tồn tại, yếu kém của các doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian qua và những phương hướng mục tiêu đổi mới, phát triển doanh
nghiệp nhà nước trong những năm tới để doanh nghiệp nhà nước khắc phục
được tình trạng phân tán, manh mún, kinh doanh kém hiệu quả, thực sự phát
huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tổ
chức sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc đẩy mạnh các giải
pháp cổ phần hóa và chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước
không cần nắm giữ hình thức sở hữu nhà nước là vấn đề vừa có tính thời sự
cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với việc đổi mới khu vực doanh nghiệp
nhà nước.
1.3. CÁC HÌNH THỨC SẮP XẾP, CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC

Để giải quyết tình hình khu vực doanh nghiệp nhà nước cồng kềnh
về mặt số lượng, yếu kém về mặt chất lượng, Đảng và Nhà nước Việt Nam
đã và đang tích cực thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước thông qua việc
chuyển đổi và đa dạng hóa sở hữu doanh nghiệp nhà nước theo các hình thức
cụ thể sau:
1.3.1. Sáp nhập, hợp nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước
Sáp nhập doanh nghiệp là loại giao dịch trong đó một hay một số
doanh nghiệp từ bỏ pháp nhân của mình để gia nhập vào một doanh nghiệp
khác và sử dụng pháp nhân của doanh nghiệp này để hoạt động. Thông
thường doanh nghiệp nhận sáp nhập phải có tiềm lực tài chính, kinh doanh
lớn hơn doanh nghiệp bị sáp nhập, doanh nghiệp nhận sáp nhập sẽ tiếp nhận
toàn bộ tài sản, quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích hợp pháp của doanh
nghiệp bị sáp nhập. Sau khi việc sáp nhập được hoàn thành doanh nghiệp bị
sáp nhập sẽ chấm dứt sự tồn tại của mình, còn doanh nghiệp nhận sáp nhập
sẽ được hưởng các quyền lợi và lợi ích hợp pháp, đồng thời cũng chịu trách



nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng lao động và các nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Khác với hình thức sáp nhập, việc hợp nhất các doanh nghiệp là giao
dịch trong đó hai hoặc một số doanh nghiệp thỏa thuận với nhau hợp nhất lại
để hình thành một pháp nhân mới. Nói một cách đơn giản đó là sự ra đời của
một doanh nghiệp mới từ sự kết hợp một số doanh nghiệp cũ. Các doanh
nghiệp tham gia hợp nhất đều từ bỏ pháp nhân của mình để hình thành một
pháp nhân mới. Doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền lợi và lợi ích
hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, các hợp đồng
lao động và và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp bị hợp nhất.
Kết quả của việc sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp là việc hình thành
một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn trước, nhờ tập trung sản xuất bằng con
đường sáp nhập hoặc hợp nhất doanh nghiệp mà các doanh nghiệp mới đạt
được hiệu quả kinh doanh cao hơn, sự tiết kiệm nhiều hơn trong hoạt động
kinh doanh. Hơn thế nữa việc mở rộng quy mô kinh doanh bằng việc sáp
nhập, hợp nhất doanh nghiệp còn đem lại nhiều lợi thế so sánh hơn so với
việc tăng quy mô bằng tăng trưởng nội lực (tái đầu tư lợi nhuận sau thuế), đó
là thời gian đạt được sự tăng trưởng nhanh hơn; khả năng tiết kiệm các chi
phí trong đào tạo nguồn nhân lực; tiết kiệm các chi phí cố định; rút ngắn thời
gian kiểm soát và chiếm lĩnh thị trường... chính vì vậy, sáp nhập hoặc hợp
nhất doanh nghiệp cũng là một con đường có thể lựa chọn để cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.
Giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước là giải pháp chấm dứt
sự tồn tại của một doanh nghiệp, song nguyên nhân và cách thức thực hiện
giữa chúng lại có sự khác biệt nhất định.
Một doanh nghiệp nhà nước có thể bị giải thể và chấm dứt sự tồn tại
pháp nhân của mình trong các trường hợp sau đây:



- Hết thời hạn hoạt động ghi trong quyết định thành lập doanh nghiệp
mà doanh nghiệp không xin gia hạn.
- Doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài song chưa lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
- Doanh nghiệp không thực hiện được các nhiệm vụ do Nhà nước
quy định sau khi đã thực hiện các biện pháp cần thiết.
- Việc tiếp tục duy trì doanh nghiệp nhà nước là không cần thiết.
Khác với giải thể doanh nghiệp, việc phá sản doanh nghiệp là việc
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp và thực hiện theo luật về phá sản
doanh nghiệp. Một doanh nghiệp bị phá sản nếu doanh nghiệp kinh doanh
thua lỗ kéo dài, sau khi đã áp dụng các biện pháp cần thiết để khôi phục
doanh nghiệp mà vẫn hoàn toàn mất khả năng thanh toán các khản nợ đến
hạn, tổng số nợ lớn hơn tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
1.3.2. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển đổi hình thức sở
hữu từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở
hữu) đồng thời chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh
nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp hoạt động theo các quy định về công ty
cổ phần trong Luật doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một xu thế khách quan, một
biện pháp quan trọng để tổ chức lại khu vực doanh nghiệp nhà nước khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường. Có thể nêu ra một số căn cứ sau đây:
- Việc cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là phù hợp với định
hướng phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
những năm qua theo đường lối của Đảng và Chính phủ.


- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp thu hút vốn kinh doanh trên thị
trường, giải quyết khó khăn về vốn của các doanh nghiệp
- Giảm nhẹ gánh nặng chi tiêu ngân sách cho các doanh nghiệp mà

Nhà nước không cần duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước.
- Thúc đẩy và tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn,
tạo thêm kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Mục tiêu cơ bản của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước được xác
định là:
- Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo
thêm việc làm, phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh, thay đổi cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước.
- Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp cổ phần và
những người đã góp vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý,
tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản nhà
nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế
của đất nước.
Đối tượng cổ phần hóa là doanh nghiệp nhà nước không thuộc diện cần
duy trì hình thức doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên trong số các doanh nghiệp
nhà nước có thể cổ phần hóa cũng cần phân biệt loại doanh nghiệp nhà nước
cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt hoặc loại doanh nghiệp nhà nước
có thể hoặc không cần nắm cổ phần hoặc thực hiện các hình thức chuyển đổi
sở hữu khác. Việc phân loại trên đây tạo điều kiện vừa thúc đẩy quá trình cổ
phần hóa, vừa tạo điều kiện phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong
nền kinh tế.


Về hình thức cổ phần hóa, các doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong
các hình thức được quy định phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp,
đó là:
- Giữ nguyên giá trị thuộc phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh
nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

- Bán toàn bộ phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.
1.3.3. Giao doanh nghiệp nhà nước
Giao doanh nghiệp nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp nhà nước
và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp thành sở hữu của tập thể người lao
động có điều kiện ràng buộc [12].
Đối tượng được giao doanh nghiệp là tập thể người lao động trong
doanh nghiệp do Ban chấp hành Công đoàn đại diện hoặc người được đại
hội toàn thể công nhân viên chức trong doanh nghiệp bầu làm đại diện tự
nguyện đăng ký nhận giao.
1.3.4. Bán doanh nghiệp nhà nước
Bán doanh nghiệp nhà nước là sự chuyển đổi sở hữu toàn bộ giá trị tài
sản của một doanh nghiệp nhà nước sang cho các pháp nhân hoặc thể nhân khác
[12].
Căn cứ vào quyết định phê duyệt bán doanh nghiệp của cấp có thẩm
quyền, giám đốc doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo cho toàn thể người
lao động trong doanh nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng để
đăng ký danh sách người mua doanh nghiệp.
Đối tượng được mua doanh nghiệp có thể là tập thể, cá nhân hoặc
các pháp nhân kinh tế có nhu cầu mua doanh nghiệp. Nếu chỉ có một người
đăng ký mua thì doanh nghiệp được bán theo phương thức trực tiếp. Trường


×