Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝCỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.76 KB, 11 trang )

YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN LÝ
CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.3.1. Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy
tính tự quản của cộng đồng
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Các nội
dung cơ bản của CNH, HĐH đất nước là: Thay thế phần lớn lao động thủ công bằng lao
động cơ khí hoá, điện khí hoá và một phần tự động hoá, thực hiện công nghiệp hoá nông
nghiệp; tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP và trong lao động xã hội; tiếp
cận và vận dụng, ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ; nâng
cao dân trí, chất lượng nguồn lực con người ngang bằng khu vực với bản lĩnh, bản sắc
của văn hoá Việt Nam; thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội; nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở cơ sở.
Ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân có
những đặc trưng sau đây:
Một là, đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ba là, Nhà nước được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp, pháp luật và đảm bảo cho Hiến pháp
và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ của tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Bốn là, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và
công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Năm là,
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
đồng thời đảm bảo sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận
tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận [5, tr.111-112].
CBCC chính quyền cấp xã là người hướng dẫn nhân dân phát huy tính tự quản ở
cộng đồng dân cư. Hoạt động tự quản nhằm giữ gìn đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp



đỡ thực hiện pháp luật, trợ giúp trong sản xuất, cùng nhau giữ gìn trật tự an ninh, an toàn
xã hội (trong thôn, bản).
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; xây dựng thành
công Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phát huy tốt
tính tự quản ở cộng đồng dân cư. Yêu cầu đặt ra đối với CBCC là phải: Trung thành với
mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới, am
hiểu pháp luật, gần gũi với cơ sở, tâm huyết với cơ sở, có năng lực tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận
tuỵ với dân. Để đáp ứng yêu cầu đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải nâng cao năng lực
quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã.
1.3.2. Yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải
cách hành chính, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở Hà Tĩnh
Trong những năm qua, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Hà Tĩnh
đạt được những thành tựu sau đây: Tư duy kinh tế của CBCC từng bước được đổi mới,
CBCC năng động, sáng tạo hơn, hình thành nhiều CBCC dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp,
dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông lâm - ngư nghiệp; các ngành kinh tế chuyển dịch theo
hướng ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, làm cho trình độ công nghệ của một số
ngành có những bước tiến rõ rệt. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Hoạt động
xuất nhập khẩu có chuyển biến tích cực, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 48 triệu
USD, trong đó xuất khẩu đạt 45 triệu USD; phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần
của người dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh.
Bên cạnh đó, còn có những hạn chế: Thu nhập bình quân đầu người mới bằng 1/2
mức bình quân chung cả nước. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp. Tỷ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn quá cao (gấp hai lần mức bình quân chung cả nước), quy
mô công nghiệp và dịch vụ còn nhỏ bé, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm thấp,
chưa có một cơ sở sản xuất công nghiệp lớn nào trên địa bàn, thu ngân sách còn thuộc
nhóm các tỉnh thấp nhất cả nước (mới tự cân đối khoảng 20%), kết cấu hạ tầng tuy đã
được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Kết qủa xóa

đói giảm nghèo chưa thật sự vững chắc, tỷ lệ hộ đói nghèo còn cao hơn mức bình quân
chung cả nước. Một số cán bộ chậm đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo, nhất là tư


duy kinh tế, còn có biểu hiện của tư tưởng bảo thủ, trì trệ, sớm thỏa mãn với những thành
tích, kết quả đạt được.
Yêu cầu đặt ra của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Hà Tĩnh là:
Phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, tăng nhanh tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm mạnh tỷ trọng nông nghiệp. Muốn vậy phải tập trung
mọi nguồn lực để tạo bước phát triển đột phá trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các cụm công nghiệp, làng nghề
tập trung ở các huyện, xã nhằm thu hút lao động, giải quyết việc làm, tăng thu ngân sách
cho địa phương.
Phải phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn toàn diện, chuyển dịch mạnh cơ
cấu sản xuất, cơ cấu lao động theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá, bảo đảm an ninh
lương thực. Đưa nhanh tiến bộ khoa học, công nghệ nhất là giống cây, con có năng suất
chất lượng tốt vào sản xuất; gắn sản xuất với chế biến và thị trường tiêu thụ. Phát triển
kinh tế nông nghiệp phải gắn với xây dựng nông thôn mới. Từng bước quy hoạch lại các
khu dân cư, các làng, xã, thị trấn; vừa phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, vừa tổ chức đời sống ở nông thôn ngày càng văn minh hơn, giảm dần
sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Phải năng động, sáng tạo tìm cơ chế, chính sách thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn
đầu tư từ các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Phải thường xuyên chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa và nâng cao chất lượng các lĩnh vực giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân, các hoạt động văn hoá, thông tin, thể thao. Thực
hiện các chính sách xã hội xóa đói giảm nghèo một cách thực chất, bền vững.
Cải cách hành chính ở Hà Tĩnh đạt được những thành tựu sau đây: Thể chế hành
chính ngày càng hoàn thiện, bộ máy chính quyền được tổ chức theo hướng gọn nhẹ; chức
năng, nhiệm vụ được phân định rõ ràng, phương thức quản lý, lề lối làm việc được cải
tiến, thủ tục hành chính ngày càng đơn giản, minh bạch, công khai, nền hành chính từng

bước hiện đại hóa. Qua thực hiện cải cách hành chính, tinh thần trách nhiệm của CBCC
được nâng cao, thái độ phục vụ nhân dân tốt hơn, kỹ năng hành chính, phong cách làm
việc từng bước được cải tiến, kỷ cương, kỷ luật hành chính ngày càng được thiết lập. Chế
độ chính sách đối với CBCC được cải thiện, làm cho CBCC phấn khởi yên tâm công tác.


Thực hiện cơ chế "một cửa" ở 11 huyện, thị xã, các sở, ban, ngành và 261 xã, phường, thị
trấn đã tạo điều kiện thuận tiện cho nhân dân giao dịch với cơ quan nhà nước để giải
quyết những thủ tục hành chính, qua đó nhân dân càng thêm tin yêu chế độ.
Bên cạnh đó còn có những hạn chế: Tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu của một bộ
phận CBCC vẫn chưa được đẩy lùi, thủ tục hành chính vẫn còn ách tắc, nhiều khiếu nại,
tố cáo của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời, dứt điểm dẫn đến tình trạng khiếu nại
vượt cấp; kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm, một số biểu hiện tiêu cực chưa
được ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm túc, năng lực của một số CBCC chưa tốt, còn
lúng túng, bị động khi giải quyết các tình huống quản lý phức tạp.
Yêu cầu đặt ra của cải cách hành chính ở Hà Tĩnh là: Xây dựng nền hành chính trong
sạch, vững mạnh, hiện đại, chuyên nghiệp theo hướng phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực tốt, đáp ứng yêu
cầu phát triển trong giai đoạn mới.
Về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở Hà Tĩnh đạt được những kết quả đáng
khích lệ sau đây: Hệ thống chính trị ở cơ sở đã chú trọng phát huy quyền làm chủ, sức
sáng tạo của nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần thực hiện các chương
trình, các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước. Nổi bật là phong trào: "Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", xóa đói, giảm nghèo, xóa tranh
tre dột nát, "nông dân sản xuất giỏi, làm giàu chính đáng", "phụ nữ tích cực học tập, lao
động sáng tạo, nuôi con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc", "thanh niên lập nghiệp, tuổi
trẻ giữ nước"... Qua đó đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,
phát triển kinh tế, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, cải thiện dân sinh, nâng cao dân
trí, xây dựng đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh, từng
bước ngăn chặn, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự

nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng
XHCN.
Bên cạnh đó, còn có những hạn chế: Quy chế dân chủ ở cơ sở thực hiện chưa đồng
đều, cá biệt có nơi còn mang tính hình thức; một số tổ chức chính trị - xã hội và xã hội - nghề
nghiệp còn thiếu năng động, sáng tạo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để thích
ứng với điều kiện cơ chế thị trường.


Yêu cầu của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ở Hà Tĩnh hiện
nay là: Phải xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp đổi mới nhằm phát huy
sức mạnh toàn dân, huy động mọi nguồn lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Tập
trung phát triển kinh tế, văn hoá, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí và
năng lực làm chủ cho nhân dân.
Để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, cải cách
hành chính, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở ở Hà Tĩnh, thì Hà Tĩnh cần phải xây
dựng đội ngũ CBCC có những phẩm chất sau:
Bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt; nhận thức sâu sắc về quan
điểm, đường lối đổi mới của Đảng, nhất là kinh tế thị trường định hướng XHCN; năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dàm làm, dám chịu trách nhiệm; có trình độ phù hợp với công
việc, có kỹ năng, phương pháp làm việc tốt, có tác phong nhanh nhẹn, có thái độ thân
thiện cởi mở, với tinh thần phục vụ nhân dân. Do đó, cần phải chú trọng nâng cao năng
lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã ở Hà Tĩnh.
1.3.3. Xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã
CBCC chính quyền cấp xã có vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; hình
ảnh và uy tín của họ là niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay một số CBCC chính quyền cấp xã chưa xứng với
các vị trí, vai trò chưa làm tròn bổn phận của mình, còn quan liêu hách dịch, cửa quyền,
lên mặt làm "quan cách mạng" của nhân dân; chưa kịp thời giải quyết và phản ánh những
yêu cầu chính đáng cấp thiết của nhân dân, bản thân và gia đình chưa đi đầu gương mẫu

trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; hiểu biết
đường lối, chính sách chưa có hệ thống, chưa sâu sắc, tự trao cho mình những đặc quyền,
đặc lợi làm mất dân chủ ở cơ sở, dẫn đến hiệu lực quản lý nhà nước chưa đảm bảo, hiệu
quả quản lý nhà nước chưa cao, ảnh hưởng đến sự ổn định của cả hệ thống chính trị như
ở Thái Bình, Tây Nguyên. Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình để thực hiện âm mưu
"diễn biến hoà bình" làm cho lòng tin của nhân dân bị giảm sút.
Để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta, chúng ta phải quán
triệt sâu sắc rằng: Mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn


minh" phải bắt đầu từ cơ sở, CNH, HĐH phải bắt nguồn từ CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, mà động lực của mục tiêu trên là CBCC chính quyền cấp xã.
Chính vì vậy, muốn đảm bảo hiệu lực và nâng cao hiệu quả quản lý phải nâng cao
năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã. Vì nâng cao năng lực quản lý
nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã mới phát huy được vị trí, vai trò của CBCC
chính quyền cấp xã.
1.3.4. Xuất phát từ thực trạng bất cập về năng lực quản lý nhà nước của cán
bộ, công chức chính quyền cấp xã
1.3.4.1. Những bất cập về trình độ
Qua số liệu tổng hợp của Viện khoa học Tổ chức Nhà nước - Bộ Nội vụ, những
bất cập về trình độ cán bộ cấp xã được thể hiện qua những chỉ tiêu cụ thể sau:
- Tính bình quân cả nước:
Bảng 1.1: Trình độ của đội ngũ cán bộ cấp xã (trong cả nước) [2]

Các chức danh

Trình độ văn
hoá (tỷ lệ %)

Trình độ

chuyên môn
(tỷ lệ %)
Trung
Đại
cấp
học

Trình độ chính Qua lớp
trị
quản lý
(tỷ lệ %)
nhà
nước
Trung
CC-CN
(tỷ lệ %)
cấp

THCS

THPT

Bí thư Đảng uỷ,
CTHĐND, CTUBND

37,8

55,8

9,7


5,3

57,5

5,4

Phó BTĐU, phó CT
HĐND,
phó
CT
UBND

41,7

52,1

7,3

3,5

41,7

1,8

CTMTTQ và trưởng
4 đoàn thể

50,9


35,6

9,5

2,3

20,5

1,1

Bốn
chức
chuyên môn

33,7

60,7

14,6

2,8

10,7

1,2

Các chức danh khác
thuộc UBND

45,5


42,5

11,8

2,2

19,2

0,1

Bình quân

41,9

49,3

10,5

3,2

30,0

1,9

danh

20,96

32,83



Qua số liệu trên cho thấy, trình độ văn hoá của đội ngũ cán bộ cấp xã vẫn còn 8,8%
là tiểu học; trình độ chuyên môn cả trung cấp và đại học chỉ chiếm 13,7%; trình độ lý
luận chính trị cả trung cấp, cao cấp và cử nhân chỉ chiếm 31,9%.
- Tính theo vùng
Bảng 1.2: Trình độ cán bộ cấp xã (tính theo vùng) [2]
Trình độ văn
hoá (tỷ lệ %)

Trình độ
chuyên môn
(tỷ lệ %)

Trình độ
chính trị (tỷ
lệ %)

THCS

THPT

Trung
cấp

Đại
học

Trung
cấp


CCCN

14,1

85,7

10,2

15,5

60,5

8,3

54,4

15 tỉnh miền núi phía
Bắc

53,6

34,5

11,6

1,8

40,8


0,8

32,3

14 tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ, khu bốn cũ

34,6

64,4

10,1

4,3

55,0

1,7

43,8

11 tỉnh miền Trung và
Tây Nguyên

42,4

43,1

6,9


2,8

38,7

4,0

39,1

17 tỉnh Nam Bộ

34,7

61,2

5,5

3,1

55,3

10,0

37,0

Vùng

4 thành phố
Trung ương

trực


Qua
lớp
quản
lý nhà
nước
(tỷ lệ
%)

Qua số liệu trên, các thành phố Trung ương có các chỉ số về năng lực trình độ cao
hơn hẳn các vùng khác.
- Cán bộ thuộc 4 chức danh chuyên môn
Bảng 1.3: Trình độ cán bộ cấp xã (theo 4 chức danh chuyên môn) [2]
Trình độ văn
hoá (tỷ lệ %)

Trình độ
chuyên môn
(tỷ lệ %)

Trình độ
chính trị (tỷ lệ
%)

Vùng

Qua
lớp
quản lý
nhà

nước
(tỷ lệ
%)

THCS

THPT

Trung
cấp

Đại
học

Trung
cấp

CCCN

4 thành phố trực
Trung ương

11,3

88,5

25,5

10,4


17,2

1,4

31,2

15 tỉnh miền núi
phía Bắc

46,2

40,9

11,1

1,8

7,9

0,8

11,6


14 tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ, khu bốn


29,6


68,5

15,2

2,5

12,1

1,4

22,6

11
tỉnh
miền
Trung và Tây
Nguyên

33,8

56,0

13,1

2,0

7,4

2,0


18,3

17 tỉnh Nam Bộ
30,7
67,5
13,6
1,7
10,2
0,8
12,1
Về trình độ quản lý nhà nước nhìn chung đối với 4 chức danh chuyên môn là thấp,
thấp nhất vẫn là các khu vực các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh Nam Bộ, các tỉnh miền
Trung và Tây Nguyên.
Ngoài ra sự bất cập về trình độ còn thể hiện qua số liệu về kết quả điều tra và khảo
sát ở 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương từ tháng 4 đến tháng 7/2000 do Vụ chính
quyền địa phương - Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ tiến hành đối với 18.014 cán bộ xã,
phường, thị trấn, với kết quả được tổng hợp như sau:
- Về độ tuổi: Dưới 35 tuổi: 19,23%; Từ 35 đến 50 tuổi: 57,77%; Trên 50 tuổi: 23%.
- Nguồn cán bộ trước khi làm cán bộ xã, phường, thị trấn là: CBCC, viên chức nhà
nước: 8,69%; là công an, bộ đội xuất ngũ: 26,38%; người đang hưởng chế độ hưu trí hoặc
mất sức: 9,29%; là thương binh, bệnh binh: 3,69%; là lao động nông nghiệp với các đối
tượng khác: 51,95%.
- Thời gian công tác của cán bộ xã, phường, thị trấn: từ 15 năm trở lên: 25,73%; từ
10 năm đến dưới 15 năm: 21,91%; từ 5 năm đến dưới 10 năm: 24,60%; dưới 5 năm:
27,76%.
- Về trình độ chuyên môn: Sơ cấp: 14,44%; trung cấp: 20,96%; đại học 8,84%;
chưa qua đào tạo: 55,76%.
- Về bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước: 22,74% đã được bồi dưỡng kiến thức
quản lý nhà nước, còn 77,26% chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước.
Qua thực trạng trên có thể đánh giá chung: Trình độ của đa số cán bộ cấp xã còn

thấp: Tính chung cả nước, số lượng cán bộ cấp xã có trình độ THPT đang còn ít chỉ
chiếm 49,3%, ít nhất là ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc chỉ chiếm 34,5%; số cán bộ đã học
trung cấp, cao cấp, cử nhân chính trị chưa nhiều chỉ chiếm 31,9%; số lượng chưa qua đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ, chưa được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước đang nhiều;
số người có độ tuổi dưới 35 đang còn ít, giữa các vùng đang có sự bất cập: Ở các thành


phố trực thuộc Trung ương, trình độ cán bộ cấp xã cao hơn so với các vùng khác, thấp
nhất là các vùng miền núi. Ở những vùng sâu, vùng cao, vùng xa nhiều cán bộ không biết
xây dựng chương trình kế hoạch, họ thường ỷ lại, thụ động trong công việc. Tỷ lệ cán bộ
hưu trí tham gia đội ngũ cán bộ cơ sở còn khá cao, mặc dù họ có kinh nghiệm, có trình độ
(lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ) nhưng họ lại thiếu kiến thức quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế ở cơ sở, họ thoát ly địa phương tương đối dài nên tình hình địa phương họ
nắm không chắc, tuổi đời khá cao, sự phấn đấu vươn lên giảm, hoạt động cầm chừng, nên
đã hạn chế đến năng lực quản lý nhà nước của cán bộ cấp xã, hiệu quả quản lý nhà nước
chưa cao.
Ngoài ra, số cán bộ cấp xã tham gia công tác lâu năm chiếm một tỷ lệ khá cao, từ
10 năm trở lên là 47,64%. Nhìn chung, họ có mặt tích cực là am hiểu địa phương, quen
việc, có kinh nghiệm, nhưng họ cũng có nhược điểm là chậm đổi mới tư duy (nhất là tư
duy kinh tế), tự bằng lòng, thoả mãn, không có ý chí vươn lên.
Thực trạng của cán bộ cấp xã như trên đã làm cho chất lượng của đội ngũ cán bộ
cấp xã đang còn thấp, hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp xã chưa cao. Do vậy, nâng cao
năng lực quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã, phải không ngừng nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, trong đó phải chú trọng đến các mặt, các
yếu tố: Trẻ hoá đội ngũ, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, kiến
thức quản lý kinh tế, kiến thức quản lý nhà nước, kỹ năng và phương pháp quản lý nhà
nước... đang là những vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay.
1.3.4.2. Về kỹ năng và phương pháp quản lý nhà nước
Đa số CBCC chính quyền cấp xã kỹ năng quản lý nhà nước còn yếu kém, họ làm
việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, chưa vận dụng tốt những kiến thức khoa học

vào thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình. Cụ thể như: Thu thập thông tin chưa nhanh
nhạy, xử lý thông tin chưa kịp thời; báo cáo chưa khách quan trung thực; giải quyết công việc
đột xuất, giải quyết tình huống quản lý nhà nước còn lúng túng, nhất là tranh chấp đất đai,
chế độ chính sách; chưa lắng nghe hết ý kiến nhân dân, giải quyết yêu cầu của nhân dân chưa
kịp thời, triệt để; phân bổ quỹ thời gian làm việc chưa khoa học, thời gian nghiên cứu văn
bản Nhà nước còn ít, thời gian hội họp nhiều. Văn bản ban hành còn sai thể thức, ngôn ngữ
và câu văn chưa chuẩn. Kỹ thuật soạn thảo đang còn yếu, kỹ năng tuyên truyền, phổ biến


pháp luật cho nhân dân còn hạn chế, hình thức tuyên truyền chưa phong phú, kỹ năng quản lý
hồ sơ, sổ sách chưa khoa học.
Phương pháp quản lý nhà nước của CBCC chính quyền cấp xã: Nhiều CBCC chính
quyền cấp xã phương pháp quản lý chưa tốt, chưa biết kết hợp hài hoà, nhuần nhuyễn
giữa các phương pháp. Có những nơi CBCC thiên về phương pháp giáo dục tư tưởng,
đạo đức XHCN mà đối tượng quản lý không tự giác thực hiện mà không áp dụng phương
pháp hành chính để đối tượng thực hiện; không sử dụng phương pháp giáo dục tư tưởng,
đạo đức XHCN mà lại áp dụng ngay phương pháp hành chính mang tính mệnh.lệnh đơn
phương nhằm bắt buộc nhân dân thực hiện. Chưa kịp thời nêu gương và động viên khen
thưởng đối với "người tốt việc tốt", chưa phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, hiện
tượng tham nhũng, thói vô trách nhiệm, tư tưởng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, chưa
nắm bắt được diễn biến tâm lý của đồng nghiệp, của cộng đồng dân cư; có những cán bộ
thực hiện điều tra, kiểm soát, thu thập thông tin không kiên quyết, trung thực dẫn tới ra
các quyết định không phù hợp với thực tế, làm kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội.
Kỹ năng và phương pháp quản lý nhà nước như trên đã dẫn đến năng lực quản lý
nhà nước của CBCC ở cơ sở thấp.
1.3.4.3. Thực trạng về phẩm chất đạo đức
Đa số CBCC chính quyền cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, có lối sống trong
sạch, giản dị, quan tâm chăm lo đến sự nghiệp chung. Nhưng có một bộ phận không nhỏ cán
bộ cơ sở do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, đã có biểu hiện suy thoái về phẩm chất
đạo đức: Sống xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, mất dân chủ, tham nhũng, lãng phí,

lợi dụng chức quyền làm trái các nguyên tắc quản lý, bán sang nhượng đất trái phép, tham ô
công quỹ, tiền xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình, dự án do nhà nước đầu tư ở cơ sở, thậm
chí bớt xén, chia nhau tiền đóng góp của nhân dân ủng hộ người nghèo bị thiên tai, lũ lụt...
gây tổn hại đến uy tín và làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, có
nơi chính quyền đối lập với nhân dân, dân không tin vào cán bộ cơ sở. Một số bộ phận cán
bộ có tư tưởng cục bộ, kèn cựa địa vị, ý thức tổ chức, kỷ luật kém, phát ngôn và làm việc tuỳ
tiện, gây mất đoàn kết nội bộ.
Với thực trạng về trình độ, kỹ năng, phương pháp quản lý nhà nước, phẩm chất đạo
đức nêu trên, yêu cầu khách quan là phải nâng cao năng lực quản lý nhà nước của CBCC
chính quyền cấp xã mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới, nhiệm vụ mới trong
giai đoạn hiện nay.




×