Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Tăng cường sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách tại huyện Thuận Thành hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.08 KB, 78 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Lời cảm ơn
Là sinh viên năm cuối, được làm khóa luận là một thuận lợi lớn đối với em.
Thông qua quá trình nghiên cứu, em có điều kiện để vận dụng và trau dồi những
kiến thức đã được học trong suốt bốn năm học trên ghế Học viện. Đồng thời, giúp
em có cái nhìn khái quát nhất về lĩnh vực mà mình đang nghiên cứu.
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các
thầy cô trong Học viện, đặc biệt là các thầy cô trong khoa Hành chính học đã tận
tình, tâm huyết truyền thụ những kiến thức cơ bản về quản lý Nhà nước và giúp đỡ,
hướng dẫn em hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn Huyện Ủy, UBND, và các tổ chức đoàn thể, cá
nhân huyện Thuận Thành đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ em trong quá trình
nghiên cứu và tìm kiếm tài liệu trong quá trình thực hiện đề tài.
Em xin cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè những người luôn quan tâm động
viên em trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Sinh viên
Vương Thị Nhung

Lớp KH9QLC2

1


Khóa luận tốt nghiệp

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN


UBND: Ủy ban Nhân dân
HĐND: Hội đồng Nhân dân
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
QCDC: Quy chế Dân chủ

Lớp KH9QLC2

2


Khóa luận tốt nghiệp

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU ĐIỀU TRA

Bảng 1: Hình thức nắm bắt thông tin về chính sách của người dân…….……......39
Bảng 2: Sự tham gia chủ yếu của người dân vào quá trình thực thi chính sách….46
Bảng 3: Giải pháp chủ yếu để tăng cường sự tham gia của người dân…………...54

Lớp KH9QLC2

3


Khóa luận tốt nghiệp

Lớp KH9QLC2

4



Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói về điều kiện để giúp một quốc gia hùng mạnh người ta thường hình
dung về những yếu tố như tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học công nghệ, hay tiềm
lực quân sự. Tuy nhiên yếu tố đó sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu thiếu đi niềm tin, sự
ủng hộ và đoàn kết sức mạnh của toàn thể nhân dân vào việc giữ gìn và xây dựng
đất nước. Thực tế lịch sử nước ta không thiếu những bài học cho thấy sự tham gia
của người dân, sức mạnh toàn dân tộc đã vượt qua những cuộc chiến tranh khốc
liệt, đánh bại những kẻ thù hùng mạnh trên thế giới. Đảng ta luôn nhấn mạnh
“Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân”. Sự nghiệp ấy không chỉ thực hiện trong
thời kháng chiến chống quân xâm lược mà còn đặt lên vai tất cả chúng ta trong thời
bình. Đó là sự nghiệp chống lại các thế lực phản động, tệ nạn tham nhũng, là xóa
đói giảm nghèo, là đưa đất nước đi lên CNXH có nền kinh tế phát triển vững mạnh
sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Sự nghiệp ấy không thể thiếu đi sự tham
gia của toàn thể nhân dân. Việc mở rộng hình thức tham gia của người dân vào hoạt
động quản lý Nhà nước không chỉ đòi hỏi từ yêu cầu xây dựng Nhà nước Pháp
quyền, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân mà nó còn đóng góp quan trọng cho
việc xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện hiện nay.
Vừa qua Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã công bố văn
kiện “Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt
Nam”. Các tác giả ghi nhận: “Việt Nam đã và đang áp dụng nhiều biện pháp tăng
cường nguyên tắc giải trình trong cuộc sống xã hội và sự tham gia của người dân
trong công tác chính quyền.” Từ khi Đảng và Nhà nước ban hành chủ trương xây
dựng và thực hiện quy định về dân chủ cơ sở, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
trong đó có tăng cường sự tham gia của người dân vào các khâu trong quá trình
thực thi chính sách, cho đến nay chúng ta đã triển khai rộng khắp trong toàn quốc
và đạt được nhiều thành tựu, bài học quan trọng trong xây dựng, củng cố đất nước.
Lớp KH9QLC2


5


Khóa luận tốt nghiệp

Huyện Thuận Thành là một mảnh đất “Bên kia sông Đuống” nằm ở phía
nam tỉnh Bắc Ninh. Từ bao đời nay được biết đến là một vùng quê “lúa nếp thơm
nồng”, nhiều lễ hội dân gian, Thuận Thành mang trong mình nhiều giá trị lịch sử,
văn hóa đáng quý của vùng đất cổ. Trong những năm gần đây Đảng bộ, Chính
quyền và nhân dân Thuận Thành đã cùng nhau đoàn kết, phát huy mạnh mẽ quyền
làm chủ của mình thực thi thành công nhiều chính sách. Có thể nói huyện Thuận
Thành là một trong những địa phương đi đầu ở tỉnh Bắc Ninh thực hiện tốt quy chế
dân chủ cơ sở, thu hút nhiều sự tham gia của người dân vào các công việc của Nhà
nước. Bên cạnh đó thực trạng Huyện còn nhiều khó khăn, một số chính sách đề ra
bị chững lại, tồn tại bộ phận nhỏ người dân còn thờ ơ, thiếu niềm tin vào Chính
quyền. Yêu cầu về tăng cường tham gia của người dân hơn nữa trong thực thi chính
sách tại Huyện là một vấn đề đang được quan tâm sâu sắc của Đảng bộ, Chính
quyền để thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
Xuất phát từ nhận thức đó em đã chọn đề tài “Tăng cường sự tham gia của
người dân trong thực thi chính sách tại huyện Thuận Thành hiện nay” cho khóa
luận tốt nghiệp của mình với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả sự tham gia
của người dân trong công tác quản lý nhà nước tại huyện Thuận Thành thông qua
những đề xuất và kiến nghị thực tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng sự tham gia của người dân trong việc thực
thi chính sách tại huyện Thuận Thành để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp,
kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả cho sự tham gia của người dân trong công
tác quản lý của nhà nước nói chung và đối với Chính quyền huyện Thuận Thành
nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Hoạt động tham gia của người dân trong việc thực thi chính sách tại huyện
Thuận Thành trong 5 năm (2006 - 2011).
4. Phương pháp nghiên cứu
Lớp KH9QLC2

6


Khóa luận tốt nghiệp

4.1. Phương pháp biện chứng
4.2. Phương pháp kết hợp lịch sử - logic
4.3. Phương pháp phỏng vấn
4.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp
4.5. Phương pháp điều tra bảng hỏi
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các bảng số
liệu khoa học phụ, nội dung chính của đề tài được kết cấu như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách.
Chương 2: Thực trạng sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách tại
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường sự tham gia của người dân trong
thực thi chính sách tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh hiện nay.

Lớp KH9QLC2

7



Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
TRONG THỰC THI CHÍNH SÁCH
1. SỰ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN
1.1. Khái niệm
Khởi đầu người ta xem sự tham gia của người dân chỉ đơn thuần là việc
đóng góp sức lao động vào việc thực hiện các hoạt động của chính sách. Hình
thức tham gia này của người dân chỉ đơn giản giới hạn trong việc thực thi các quyết
định, kế hoạch, mục tiêu, hoạt động được xây dựng trước của chính quyền. Việc
loại bỏ tiếng nói của người dân trong quá trình thực thi chính sách của Nhà nước sẽ
là một trở ngại cho việc thực thi các hoạt động của chính sách. Trên thực tế khi
người dân không được tham gia vào quá trình ra quyết định, thực thi chính sách họ
sẽ không quan tâm, hiểu biết nhiều về chính sách. Dẫn đến việc thực thi chính sách
kém hiệu quả. Vì vậy hiểu được đúng bản chất về sự tham gia của người dân có vai
trò hết sức quan trọng.
• Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tham gia của người dân
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất
cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có
liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế,
lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người giải thích “Dân là người đã không tiếc
máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành
nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là
chủ của nước”.1 Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng
hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm
chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Người vẫn luôn nhắc nhở cán bộ Đảng viên rằng :“Dễ trăm lần không dân cũng
1


Giáo trình Dân vận – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Lớp KH9QLC2

8


Khóa luận tốt nghiệp

chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.2 Tăng cường sự tham gia của người dân vào
công tác quản lý nhà nước được Người cụ thể một cách dễ hiểu qua công tác dân
vận như sau : “Dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân
không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những công việc nên làm…”3
• Quan niệm của Đảng về tăng cường sự tham gia của người dân
Qua các kỳ đại hội toàn quốc, Đảng ta luôn thể hiện quan điểm, phương
hướng rõ rang về đẩy mạnh dân chủ, tăng cường sự tham gia của người dân vào các
công việc của đất nước. Đảng chỉ rõ rằng nhân dân có quyền và trách nhiệm trực
tiếp xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Cần phải có cơ chế để nhân dân thường xuyên tham gia đề xuất kiến
nghị với Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò lãnh đạo, nêu cao trách nhiệm đối
với sự nghiệp đổi mới.4
• Các văn bản pháp lý về sự tham gia của người dân
Ngay sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám nhằm đảm bảo cho Nhà
nước giữ vững bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, đảm bảo hiệu lực,
hiệu quả của các chính sách, pháp luật được ban hành, bản Hiến pháp năm 1946 đã
khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1); “Tất
cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế,
văn hóa” (Điều thứ 6); “…đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến thiết

tùy theo tài năng và đức hạnh của mình” (Điều thứ 7).
Việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc quản lý Nhà nước,
xây dựng các chính sách, pháp luật ở nước ta tiếp tục được đề cao. Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 chỉ rõ: “Nhà nước Cộng hòa xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
2

Hồ Chí Minh toàn tập – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Giáo trình Dân vận – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
4
Đại hội Đảng XI
3

Lớp KH9QLC2

9


Khóa luận tốt nghiệp

do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân…” (Điều
2); “Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng Nhân
dân…” (Điều 6); “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham
gia thảo luận các vấn đề chung của Nhà nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan
Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý” (Điều 53).
Đảm bảo sự tham gia của nhân dân còn được ghi trong những Bộ Luật: Luật
Bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; Luật Tổ chức Quốc hội; Luật Tổ chức
Chính phủ; Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân; Luật Ban hành
văn vản quy phạm pháp luật; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng chống tham
nhũng. Trong đó quy định cụ thể các điều kiện, hình thức, phương thức để nhân

dân tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước như việc các đại biểu, cơ quan
Nhà nước phải tiếp nhận và giải quyết các đề xuất, kiến nghị, khiếu nại của người
dân, tiếp thu các ý kiến đóng góp vào các văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành, các chương trình, chính sách phát triển kinh tế - xã hội… Các luật về tổ chức
chính trị - xã hội như Luật Công Đoàn, Luật Thanh niên… cụ thể hóa quy định của
Hiến pháp về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội tham gia công việc quản lý
Nhà nước.
Cùng với những quy định chung đó, trong tiến trình phát huy dân chủ phải kể
đến sự ra đời của Pháp lệnh dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn năm 2007. Ngày
18/02/1998 Bộ Chính trị (Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII) đã ra chỉ thị
số 30/1998/CT-TW về việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Theo
đó ngày 11/05/1998 Chính Phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Quy chế này quy định những việc chính
quyền địa phương phải thông tin và công khai để dân biết, những việc dân bàn và
quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến trước khi nhà nước quyết định,
những việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện Quy chế dân chủ.
Tiếp đó đến ngày 21/09/2000 Thủ tướng Chính Phủ ra Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg
về việc tăng cường công tác dân vận nhằm phát huy tốt hơn và nhiều hơn nữa
Lớp KH9QLC2

10


Khóa luận tốt nghiệp

quyền làm chủ của nhân dân. Để tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở ngày 07/07/2003 Chính Phủ ban hành Nghị định số
79/2003/NĐ-CP Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Sau một quá trình điều
chỉnh đến năm 2007 Pháp lệnh Dân chủ ở xã, phường, thị trấn ra đời. Pháp lệnh
này có một ý nghĩa và vai trò quan trọng trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta và

tiếp tục khuyến khích, phát huy sự tham gia của người dân vào các công việc của
nhà nước. Theo điều 1 Chương 1 của Pháp lệnh có chỉ ra phạm vi điều chỉnh rất cụ
thể như sau: “Pháp lệnh này quy định những nội dung phải công khai để nhân
dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; những nội dung nhân
dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; những nội
dung nhân dân giám sát; trách nhiệm của chính quyền, cán bộ, công chức xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã), của cán bộ thôn, làng, ấp, bản,
phum, sóc (sau đây gọi chung là thôn), tổ dân phố, khu phố, khối phố (sau đây
gọi chung là tổ dân phố), của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và của
nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cấp xã”.
Như vậy các văn bản pháp lý hiện hành đã quy định khá cụ thể các hình
thức, phương thức tham gia của người dân trong việc quản lý, xây dựng, thực thi
các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đó là những khuôn khổ pháp lý cần thiết để mở rộng sự tham gia của người
dân vào các công việc của nhà nước ở địa phương.
Qua đó có thể hiểu một cách chung nhất về sự tham gia của người dân trong
thực thi chính sách như sau:
Sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách là một quá trình bàn
bạc, đề xuất, kiến nghị, xây dựng một cách cởi mở, bình đẳng từ khâu ban hành
chính sách, cho đến việc thực thi các chính sách đó.
1.2. Hình thức tham gia của người dân
• Sự tham gia của người dân một cách gián tiếp

Lớp KH9QLC2

11


Khóa luận tốt nghiệp


Sự tham gia của người dân thông qua các cơ quan đại diện được quy định cụ
thể trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
Pháp lệnh dân chủ cơ sở, thể hiện mối quan hệ giữa đại biểu và nhân dân.
Là hình thức nhân dân thông qua các đại biểu, các đoàn thể đại diện, các
phương tiện khác để bày tỏ chính kiến của mình. Các tổ chức đoàn thể được coi là
cầu nối để người dân có thể tiếp cận tới các hoạt động quản lý nhà nước. Các tổ
chức đại diện tập hợp những ý kiến, nguyện vọng của các thành viên trong tổ chức
mình để đưa lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết. Đồng
thời phổ biến thông tin của nhà nước, chính quyền tới người dân để thảo luận tại
các cuộc họp địa phương. Qua đó tham gia giải quyết, quyết định các vấn đề chung
của cộng đồng.
Ưu điểm của hình thức này là dễ tổ chức thực hiện, dễ tập trung thống nhất,
không tốn kém về mặt thơi gian. Tuy nhiên khó bao quát được thực tiễn đời sống
xã hội như ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
• Sự tham gia của người dân một cách trực tiếp
Là hình thức nhân dân bày tỏ trực tiếp chính kiến của mình, trực tiếp tham
gia quyết định các vấn đề chung của cộng đồng, xã hội. Như tổ chức các cuộc họp
cử tri, hoặc cử tri đại diện hộ gia đình, phát phiếu lấy ý kiến người dân, hòm thư
góp ý của người dân, bầu cử, biểu quyết, tham gia ý kiến các công việc ở địa
phương, giám sát việc thực thi chính sách, hoạt động của chính quyền nơi sở tại.
Hình thức này khó tổ chức một cách thống nhất, tập trung nhưng bao quát được
mọi khía cạnh của đời sống thực tế cũng như ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp
nhân dân, thể hiện được tính ưu việt của quyền lực nhân dân trong quản lý.
Trong quản lý xã hội cần phải kết hợp cả hai hình thức tham gia trên của
người dân tùy thuộc vào tính chất, mức độ công việc, thực thi chính sách mà ta
thiên về hình thức nào hơn.
1.3. Các cấp độ tham gia của người dân

Lớp KH9QLC2


12


Khóa luận tốt nghiệp

Các cấp độ tham gia của người dân được thể hiện qua sơ đồ sau theo mức độ
tăng dần của sự tham gia:

Được

Được hỏi ý Được bàn Được tham

Được giám

Được

thông

kiến

báo

bạc, thảo

gia bỏ phiếu,

sát, có

quyết


luận

cùng ra

quyền làm

định việc

quyết định

chủ thực

nghiệm

sự

thu, bàn
giao

Trong thực tiễn, nhất là những địa phương cấp cơ sở mức độ tham gia của người
dân thường chỉ dừng lại ở việc được thông báo, được hỏi ý kiến về các công việc
của chính sách. Họ thụ động trong việc thực thi các chính sách của Nhà nước, tức
là được biết, nghe theo và làm theo các công việc đề ra. Nếu người dân không được
tham gia đưa ý kiến hoặc chỉ đơn thuần đóng vai trò là đối tác để cán bộ lãnh đạo
tham khảo ý kiến thì sự tham gia của họ chỉ mang tính hình thức mà thôi. Qua
nhiều năm thực tiễn ở nước ta hình thức tham gia của người dân “luôn là cách tiếp
cận theo kiểu từ trên xuống, từ việc trồng giống lúa mới cho tới kế hoạch hóa gia
đình. Do vậy tham gia trên thực tế là vận động ủng hộ nhà nước”.5
1.4. Các yếu tố đóng vai trò quyết định đến sự tham gia của người dân
1.4.1. Yếu tố khách quan

• Yếu tố chính trị
5

Trang 14, Đẩy mạnh chiều sâu dân chủ và tăng cường sự tham gia của người dân ở Việt Nam. UNDP

Lớp KH9QLC2

13


Khóa luận tốt nghiệp

Theo quan điểm của Mác – Lê nin thì chính trị là sinh hoạt xã hội gắn liền
với các quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt
nhân của nó là vấn đề giành giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Nó bao hàm cả
những phương hướng, mục tiêu xuất phát từ lợi ích cơ bản của giai cấp và cả hoạt
động thực tiễn của các giai cấp, các nhóm xã hội, các Đảng phái chính trị, các chính
khách và của mỗi người dân trong việc thể hiện lợi ích giai cấp.
Một quốc gia có môi trường chính trị dân chủ, giai cấp nắm chính quyền đại
diện cho đa số quyền lợi của nhân dân thì sự tham gia của người dân vào công việc
của nhà nước cũng như trong thực thi chính sách sẽ nhiều hơn, lôi kéo được sự
quan tâm của người dân nhiều hơn và ngược lại.
• Sự phát triển kinh tế - xã hội
Sự phát triển của nền kinh tế - xã hội phản ánh thực trạng đời sống vật chất
của người dân. Khi nền kinh tế phát triển, hệ thống các phương tiện thông tin,
truyền thông được mở rộng, người dân có cơ hội nắm bắt thông tin về các vấn đề
liên quan tới họ tốt hơn. Từ đó sẽ thúc đẩy nhu cầu tham gia của người dân. Đồng
thời Nhà nước tiếp nhận lại phản hồi từ phía người dân cũng nhanh chóng, dễ dàng
hơn, quan nhiều kênh thông tin hơn.
• Yếu tố văn hóa

Taylor – nhà nhân loại học đầu tiên của nước Anh định nghĩa về văn hóa
rằng: “Văn hoá là một tổng thể phức tạp, bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, pháp luật, phong tục và cả những năng lực, thói quen mà con người đạt
được trong xã hội”. Trong thực tế những yếu tố thuộc về văn hóa này có ảnh hưởng
rất quan trọng đến sự tham gia của người dân vào các công việc của nhà nước. Mỗi
vùng miền do đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội khác nhau lại có những đặc trưng
riêng về tâm lý, thói quen, phong tục tập quán của người dân khác nhau thể hiện
qua cách ứng xử, giao tiếp, lao động và sản xuất. Do vậy trong quá trình tổ chức
triển khai thực hiện chính sách, nếu chính quyền cơ sở không tính đến những yếu tố
này sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Ví dụ ở những địa
Lớp KH9QLC2

14


Khóa luận tốt nghiệp

phương làm nông nghiệp trồng lúa nước ổn định theo mùa vụ người dân thường rụt
rè trong giao tiếp. Điều này tác động không nhỏ đến hoạt động, mong muốn tham
gia công tác xã hội của người dân. Trái lại với những nơi có truyền thống đấu tranh
cao trong lịch sử, phong cách giao tiếp cởi mở, thẳng thắn, công việc đối mặt với
nhiều áp lực thì người dân sẽ chủ động hơn, tích cực hơn trong việc tham gia các
công việc của chính quyền. Bên cạnh đó các yếu tố như giới tính, tín ngưỡng…
cũng chi phối rất lớn đến mức độ tham gia của người dân vào công tác xã hội.
• Xu hướng dân chủ trong nước và trên thế giới hiện nay
Bước sang thế kỷ 21, thế giới phải đối diện với nhiều thách thức hơn, các
yếu tố môi trường tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội tác động đến từng quốc gia và
cả ở phạm vi khu vực và quốc tế nhanh hơn, mạnh hơn. Xu hướng phi tập trung
hóa,dân chủ hóa, chuyển giao quyền hạn của trung ương sang dần cho địa phương
của các nước trên thế giới đã làm thay đổi cách thức hoạt động của bộ máy nhà

nước. Việt Nam so với trước đây đã có nhiều cải cách hành chính quan trọng.
Thầm quyền địa phương được mở rộng hơn và xu hướng giảm bớt các cấp trung
gian trong chính quyền ngày càng phổ biến. Hoạt động của nhà nước phải chịu sự
tham gia, giám sát chặt chẽ của các tổ chức và khu vực. Những xu hướng này đang
có ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần và ý thức tham gia của người dân vào công
việc của nhà nước.
1.4.2. Yếu tố chủ quan
• Phạm vi, đối tượng thụ hưởng của chính sách
Mức độ quan tâm, tham gia của người dân còn bị chi phối bới nội dung của
chính sách mà nó hướng tới. Những chính sách có tầm ảnh hưởng trên phạm vi
rộng và nhiều đối tượng thụ hưởng sẽ lôi cuốn được sự tham gia của nhiều người
hơn. Ví dụ ở địa bàn nông thôn thì những chính sách như khuyến nông về giống
cây trồng vật nuôi sẽ thu hút được đông đảo bà con nông dân tham gia, song những
chính sách như xóa đói giảm nghèo ở khu vực thành thị lại ít người dân quan tâm
hơn.
Lớp KH9QLC2

15


Khóa luận tốt nghiệp

• Ý thức tham gia của người dân
Ý thức tham gia của người dân là sự tự giác, ý muốn tham gia một cách trách
nhiệm với quyền lợi của chính mình và cũng là nghĩa vụ với đất nước. Nếu mọi tổ
chức cá nhân tham gia thực hiện các chính sách của Nhà nước đều có trách nhiệm,
ý thức như vậy thì sẽ tiết kiệm đáng kể những chí phí về nhân lực, vật lực, thời gian
để thực hiện các mục tiêu đề ra. Đồng thời tính tự giác giúp họ kết thành một sức
mạnh tổng hợp để thực thi chính sách, chủ động hơn trong việc tìm kiếm các biện
pháp thực hiện chính sách của Nhà nước. Người dân sẽ tích cực tham gia vào hoạt

động quản lý của Nhà nước để đóng góp xây dựng các phương án tổ chức thực thi,
sáng kiến và giám sát tình hình điều hành công việc cũng như chính sách Nhà
nước. Tuy nhiên để có được điều này cần phải có nền kinh tế phát triển, chính trị ổn
định, trình độ dân trí cao và đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền hơn nữa đến
người dân.
• Công tác vận động, tuyên truyền của chính quyền sở tại
Đây là công tác quan trọng của chính quyền sở tại ảnh hưởng đến mức độ
tham gia của người dân trong công việc của Nhà nước. Nó là cách thức tác động
lên đối tượng bằng lý tưởng, ý thức để họ hiểu được trách nhiệm của mình và có
mong muốn tham gia thực hiện chính sách một cách tự giác, tích cực. Thực hiện
công tác tuyên truyền tốt sẽ tạo nên sự thống nhất trong hành động toàn Đảng, toàn
dân, sự đồng thuận trong xã hội, cổ vũ quần chúng thực hiện thắng lợi mục tiêu
kinh tế - xã hội của Đảng đề ra. Để thực hiện được tốt công tác này cần nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, lực lượng vận động quần chúng tại địa
phương. Đẩy mạnh tính hiệu quả các phương tiện truyền thông đại chúng và các
phong trào học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
• Trình độ dân trí của người dân
Dân trí là trình độ văn hóa chung của xã hội hoặc đơn giản là trình độ học
vấn trung bình của người dân. Hồ Chí Minh quan niệm rằng “Một dân tộc dốt là

Lớp KH9QLC2

16


Khóa luận tốt nghiệp

một dân tộc yếu”, “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. 6 Vấn đề dân
trí không phải tới thời đại Hồ Chí Minh mới được đề cập mà từ thời xa xưa ông cha
ta đã sớm chỉ ra “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Trình độ dân trí sẽ ảnh

hưởng đến năng lực tiếp cận thông tin, chính sách, đến nhận thức của người dân về
các vấn đề xã hội. Khi người dân có trình độ dân trí cao, họ sẽ ý thức cao được về
quyền và trách nhiệm của mình trong xã hội. Trong việc tham gia thực thi các
chính sách họ sẽ nhanh chóng nắm bắt và thực thi có chất lượng, hiệu quả hơn.
1.5. Điều kiện để sự tham gia của người dân có hiệu quả
Để sự tham gia của người dân có hiệu quả trong các công việc của chính
quyền cũng như trong thực thi chính sách tại địa phương cần có những điều kiện
như sau:
• Đội ngũ cán bộ, công chức, cơ quan liên quan phải có phương pháp, kỹ năng,
biện pháp thích hợp tạo cơ hội để người dân tham gia có hiệu quả.
• Sự động viên cần thiết để người dân tích cực tham gia.
• Sự tham gia của người dân có kết quả, hiệu quả thực sự.
Thiếu một trong ba điều kiện này thì sự tham gia chỉ là hình thức. ít có hiệu quả.
Sau đây là những yêu cầu và hành động cụ thể để thực hiện tốt từng điều kiện trên:
Yêu cầu của thực thi chính sách có Hành động thực tế.
sự tham gia của người dân.
• Đội ngũ cán bộ, công chức, cơ

• Các cán bộ, công chức liên

quan liên quan phải có phương

quan được tập huấn về kỹ năng

pháp, kỹ năng, biện pháp thích

công tác cộng đồng.

hợp tạo cơ hội để người dân
tham gia có hiệu quả.

• Sự động viên cần thiết để người
dân tích cực tham gia.

• Có kinh phí để mua phương
tiện, cơ sở vật chất thích hợp.
• Cán bộ, công chức liên quan
được tập huấn về kỹ năng động
viên và thúc đẩy.

6

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Lớp KH9QLC2

17


Khóa luận tốt nghiệp

• Có kinh phí cho các khoản chi
• Sự tham gia của người dân có
kết quả, hiệu quả thực sự.

cần thiết.
• Trao quyền cụ thể
• Luôn đánh giá hiệu quả của sự
tham gia, rút kinh nghiệm.

2. KHÁI NIỆM VÀ QUÁ TRÌNH THỰC THI CHÍNH SÁCH

2.1. Khái niệm chính sách và thực thi chính sách
2.1.1 Khái niệm chính sách
Trong hệ thống các công cụ quản lý được Nhà nước dùng để điều hành hoạt
động kinh tế - xã hội thì chính sách được coi là công cụ nền tảng định hướng cho
các công cụ khác, thể hiện thái độ và cách ứng xử của Nhà nước đối với những hiện
tượng phát sinh trong đời sống cộng đồng.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như
sau: “ Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định trên những lĩnh vực nào
đó. Bản chất, nội dung, phương hướng của chính sách tùy theo tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo James Anderson thì: “Chính sách là một quá trình hành động có mục
đích theo đuổi bới một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ
quan tâm”.
Các chính sách có thể đề ra và thực hiện ở những tầng lớp khác nhau: Chính
sách của Liên hợp quốc; Chính sách của một Chính Phủ; Chính sách của địa
phương; Chính sách của một đoàn thể, hiệp hội; Chính sách của một doanh
nghiệp…
Các tổ chức, các doanh nghiệp, các hiệp hội, đoàn thể… có thể đề ra những
chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vị một tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội
hay đoàn thể đó. Các chính sách này đặt ra nhằm giải quyết các vấn đề cho tổ chức.
Lớp KH9QLC2

18


Khóa luận tốt nghiệp

Chính sách chỉ có hiệu lực thi hành trong các tổ chức ban hành nó. Vì vậy chúng
mang tính chất riêng biệt và được coi là “chính sách tư”. Tuy nhiên trên thực tế

khái niệm “chính sách tư” rất ít được sử dụng hoặc gần như không sử dụng.
Nhà nước là chủ thể đại diện cho quyền lực của nhân dân, ban hành chính
sách công để mưu cầu lợi ích cho xã hội. Hoạt động của Nhà nước không chỉ tác
động đến một khu vực, một bộ phận dân cư nhất định mà tác động rộng khắp mọi
đối tượng trên phạm vi quốc gia. Tác động của Nhà nước đến các đối tượng có thể
mang tính chính trị, hành chính, kinh tế hay kỹ thuật được lồng ghép vào các cơ
chế quản lý điều hành thống nhất. Đồng thời trong những kỳ phát triển khác nhau,
chức năng – nhiệm vụ của nhà nước cũng có sự thay đổi một cách thích hợp, vì thế
mà quan niệm về chính sách công cũng được tiếp cận từ các góc độ khác nhau.
Paul Samuelson cho rằng: “Chính sách còn là sự thỏa hiệp của Chính phủ
đối với nền kinh tế ngay cả khi không ban hành chính sách”.
Từ những năm 60 – 70 của thế kỷ XX quan niệm về chính sách tỏ rõ chính
sách là sự lựa chọn hành động của Nhà nước trong những điều kiện hoàn cảnh nhất
định để đạt được mục tiêu.
Đúc rút kết quả phân tích các mặt lý luận và thực tiễn trên đây có thể đi đến
khái niệm tổng quát về chính sách như sau:
Chính sách là những hành động ứng xử của chủ thể với các hiện tượng tồn
tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định.
Từ khái niệm chung về chính sách chúng ta có thể đi đến khái niệm về chính
sách công như sau:
Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề
phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác
nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển.
2.1.2. Khái niệm thực thi chính sách
Theo nguyên lý triết học, xung quạng chúng ta là các dạng vật chất tồn tại
khách quan với những chức năng nhất định. Chức năng là tập hợp các hoạt động có
Lớp KH9QLC2

19



Khóa luận tốt nghiệp

mục đích, gắn với sự tồn tại và phát triển của thực thể theo yêu cầu của đời sống xã
hội, hay nói một cách vắn tắt: chức năng là lý do tồn tại của các dạng thức vật chất
nhất định. Chính sách là một trong những công cụ quản lý quan trọng của Nhà
nước nên nó cũng cần thực hiện những chức năng để tồn tại. Song muốn thực hiện
được chức năng, chính sách phải tham gia vào quá trình vận động như các vật chất
khác. Nghĩa là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai thực hiện trong
đời sống xã hội. Do vậy, tổ chức thực thi chính sách là tất yếu khách quan dể duy
trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của Nhà nước và cũng là
để đạt mục tiêu đề ra của chính sách. Chúng ta biết rằng, nếu đưa vào thực thi các
chính sách phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, không
những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần
làm tăng uy tín của Nhà nước trong quá trình quản lý đất nước, quản lý xã hội. Với
cách tư duy này có thể đi đến khái niệm về tổ chức thực thi chính sách sau đây:
“Tổ chức thực thi chính sách là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ
thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục
tiêu định hướng”. 7
2.2 Vị trí, ý nghĩa của tổ chức thực thi chính sách
2.2.1 Vị trí của tổ chức thực thi chính sách
Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu
thiếu vắng công đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại. Tổ chức thực
thi chính sách là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một
hệ thống, nhất là với hoạt động chính sách. So với các khâu khác trong chu trình
chính sách, tổ chức thực thi có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước thực hiện
hóa chính sách trong đời sống xã hội. Bởi một chính sách dù tốt đến đâu thì cũng sẽ
trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào thực hiện. Điều đó cho chúng ta
nhận thức đầy đủ về vị trí quan trọng của thực thi chính sách, từ đó có ý thức tự
giác trong việc tổ chức thực thi chính sách công.

7

Trang 77, Giáo trình Hoạch định và Phân tích chính sách công – Học viện Hành Chính.

Lớp KH9QLC2

20


Khóa luận tốt nghiệp

2.2.2. Ý nghĩa của tổ chức thực thi chính sách
Thực thi chính sách là giai đoạn biến ý đồ chính sách thành hiện thực.
Trong quản lý xã hội, công cụ được Nhà nước dùng để chuyển tải thái độ ứng xử
của mình đến các đối tượng quản lý là chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý phát
triển nền kinh tế ở từng thời kỳ, Nhà nước chủ động ban hành các chính sách để thể
hiện ý chí trong quan hệ với các thành phần kinh tế theo định hướng. Vì vậy thực
thi chính sách là giai đoạn biến thái độ ứng xử của nhà nước với các đối tượng quản
lý thành hiện thực.
Tổ chức thực thi chính sách để từng bước thực hiện các mục tiêu chính
sách và mục tiêu chung. Mục tiêu chính sách có liên quan đến nhiều hoạt động
kinh tế, chính trị, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên không thể cùng một lúc
giải quyết các vấn đề có liên quan và cũng không thể đốt cháy giai đoạn của mỗi
quá trình. Tổ chức thực thi chính sách để giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ
biện chứng với các mục tiêu cơ bản nhất để thúc đẩy quá trình vận động của cả hệ
thống đến mục tiêu chung.
Thực thi chính sách là để khẳng định tính đúng đắn của chính sách.Các
vấn đề của chính sách phản ánh nhu cầu cơ bản của xã hội về việc giải quyết mâu
thuẫn phát sinh. Nếu nhu cầu đó là chính đáng, bức xúc cần được áp dụng để xã hội
tồn tại phát triển thì vấn đề chính sách được coi là đúng đắn và ngược lại.Vì vậy

khi chính sách được thực hiện, triển khai rộng rãi trong đời sống xã hội thì tính
đúng đắn của nó được khẳng định ở mức cao hơn so với giai đoạn hoạch định. Bởi
một chính sách sau khi hoạch định được coi là tốt thì giá trị của nó mới chỉ dừng lại
ở phương diện nguyện vọng, mong muốn còn khi chính sách ấy được thực thi thì
được cả xã hội thừa nhận, nhất là đối tượng thụ hưởng chính sách.
Quá trình thực thi chính sách giúp chính sách ngày càng hoàn chỉnh.
Chính sách được hoạch định bởi một tập thể nên không thể tránh khỏi sự ảnh
hưởng của ý chí chủ quan. Đồng thời các quá trình kinh tế - xã hội lại thường
xuyên vận động, phát triển, trong khi chính sách được hoạch định lại dựa chủ yếu
Lớp KH9QLC2

21


Khóa luận tốt nghiệp

vào thực trạng của môi trường sống và có khoảng cách khá lớn về thời gian kể từ
khi hoạch định đến lúc tổ chức thực thi. Vì vậy khoảng cách ấy cần được lấp đầy
bằng những điều chỉnh về chính sách hay các biện pháp tổ chức thực thi chính sách.
Những điều chỉnh, bổ sung về mục tiêu hay biện pháp chính sách trong quá trình
thực thi chính là hoạt động hoàn chỉnh những chính sách đang có và góp phần đúc
rút kinh nghiệm cho hoạch định các chinh sách sau.
2.3. Quy trình thực thi chính sách
Quy trình thực thi chính sách gồm các bước cơ bản sau
• Bước 1: Xây dựng kế hoạch tiển khai thực hiện chính sách, đây là bước cần
thiết và quan trọng vì tổ chức thực thi chính sách là quá trình phức tạp, lại diễn ra
trong thời gian dài nên cần phải có kế hoạch thực hiện.
Kế hoạch này phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào trong cuộc
sống, các cơ quan từ Trung ương đến địa phương đều phải lập kế hoạch theo các
bước cơ bản sau:

1. Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội
ngũ nhân sự và cơ chế thực thi.
2. Kế hoạch cung cấp các nguồn lực như: vật lực, tài chính…
3. Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện.
4. Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách.
5. Dự kiến về quy chế, nội dung về tổ chức và thực thi chính sách.
• Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách. Đây là công đoạn tiếp theo sau
khi chính sách đã được thông qua. Nó cũng cần thiết vì giúp cho nhân dân, các cấp
chính quyền hiểu được về chính sách và giúp cho chính sách được triển khai thuận
lợi và có hiệu quả
Để làm được việc tuyên truyền này thì chúng ta cần được đầu tư về trình độ
chuyên môn, phẩm chất chính trị, trang thiết bị kỹ thuật.... vì đây là đòi hỏi của
thực tế khách quan.

Lớp KH9QLC2

22


Khóa luận tốt nghiệp

Việc tuyên truyền này cần phải thực hiện thường xuyên liên tục, ngay cả khi
chính sách đang được thực thi, và với mọi đối tượng và trong khi tuyên truyền phải
sử dụng nhiều hình thức như tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp trao đổi...
• Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách. Một chính sách thường
được thực thi trên một địa bàn rộng lớn và nhiều tổ chức tham gia do đó phải có sự
phối hợp, phân công hợp lý để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mặt khác các hoạt động
thực thi mục tiêu là hết sức đa dạng, phức tạp chúng đan xen, thúc đẩy lẫn nhau,
kìm hãm bởi vậy nên cần phối hợp giữa các cấp, ngành để triển khai chính sách
Nếu hoạt động này diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ

động khoa học sáng tạo thì sẽ có hiệu quả cao, và duy trì ổn định.
• Bước 4: Duy trì chính sách, đây là bước làm cho chính sách tồn tại được và
phát huy tác dụng trong môi trường thực tế
Để duy trì được chính sách đòi hỏi phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều
yếu tố như Nhà nước và người tổ chức thực thi chính sách phải tạo điều kiện và
môi trường để chính sách được thực thi tốt.
Đối với người chấp hành chính sách phải có trách nhiệm tham gia tích cực
vào thực thi chính sách. Nếu các hoạt động này được tiến hành đồng bộ thì việc
duy trì chính sách là việc làm không khó
• Bước 5: Điều chỉnh chính sách, việc làm này là cần thiết, diễn ra thường
xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Nó được thực hiện bởi các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền (thông thường cơ quan nào lập chính sách thì có
quyền điều chỉnh).
Việc điều chỉnh này phải đáp ứng được việc giữ vững mục tiêu ban đầu của
chính sách, chỉ điều chinh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu. Hoạt động này
phải hết sức cẩn thận và chính xác, không làm biến dạng chính sách ban đầu

Lớp KH9QLC2

23


Khóa luận tốt nghiệp

• Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Bất cứ triển
khai nào thì cũng phải kiểm tra, đôn đốc để dảm bảo các chính sách này được thực
hiện đúng và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực
Các cơ quan Nhà nước thực hiện việc kiêm tra này và nếu tiến hành thường
xuyên thì giúp nhà quản lý nắm vững được tình hình thực thi chính sách từ đó có
những kết luận chính xác về chính sách

Công tác kiểm tra này cũng giúp cho các đối tượng thực thi nhận ra những
hạn chế của mình để điêù chỉnh bổ sung, hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả của
chính sách.
• Bước 7: Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm, khâu này được tiến hành liên tục
trong thời gian duy trì chính sách. Trong quá trình này ta có thể đánh giá từng phần
hay toàn bộ chính sách ở việc đánh giá này phải tiến hành đối với cả các cơ quan
Nhà nước và đối tượng thực hiện chính sách
Trong các nước trên thì bước tổ chức thực thi là quan trọng nhất vì đây là
bước đầu tiên làm cơ sở cho các bước tiếp theo, ở bước này đã dự kiến cả việc triển
khai thực hiện kế hoạch phân công thực hiện, kiểm tra... Hơn nữa tổ chức thực thi
là quá trình phức tạp do đó lập kế hoạch là việc làm cần thiết.
2.4. Vị trí, ý nghĩa sự tham gia của người dân trong thực thi chính sách
Để đánh giá được vị trí và vai trò của người dân trong thực thi chính sách,
chúng ta cần làm rõ sự sự tham gia của họ trong từng bước của quy trình thực thi
chính sách.
Trong khâu lập kế hoạch thực thi chính sách.
Hơn ai hết người dân là những người hiểu nhất về vấn đề, thực trạng, tình
hình kinh tế - xã hội của địa phương mình. Vì thế người dân có thể tham gia vào
việc lập kế hoạch thực thi chính sách bằng những ý tưởng, sáng kiến, ý kiến của
mình với cơ quan chính quyền một cách thiết thực nhất với đời sống của họ.

Lớp KH9QLC2

24


Khóa luận tốt nghiệp

Khi có sự tham gia của người dân bản kế hoạch được xây dựng sẽ phù hợp
với hoàn cảnh thực tế, khả năng của địa phương và nguyện vọng của nhân dân.

Không những vậy kế hoạch sẽ có tính cam kết cao hơn vì kế hoạch do chính người
dân trực tiếp tham gia xây dựng, nên người dân thấy rằng việc thực hiện nó là trách
nhiệm của mình và việc huy động các nguồn lực từ nhân dân cũng dễ dàng hơn. Nó
khuyến khích tính sáng tạo, tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong nhân dân.
Trong khâu phổ biến, tuyên truyền chính sách. Hồ Chí Minh định nghĩa và
xác định rõ mục đích của tuyên truyền như sau: “Tuyên truyền là đem một việc gì
nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm. Nếu không đạt được mục đích đó là
tuyên truyền thất bại.” Bên cạnh công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách từ phía
chính quyền ra thì sự tham gia của chính người dân vào công tác này sẽ tạo nên
thành công rất lớn giúp “Dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm”. Sẽ không gì dễ
hiểu và đơn giản hơn khi chính những người dân sẽ là người truyền tai cho nhau
nghe những vấn đề về chính sách. Các vấn đề của chính sách sẽ được phổ biến một
cách nhanh chóng đến toàn dân thông qua kênh truyền miệng. Sự tham gia của
người dân sẽ tạo nên một sức mạnh rất lớn về tập trung, thống nhất, đẩy nhanh tiến
độ thực thi chính sách.
Trong công tác phân công, phối hợp, thực hiện chính sách. Chính sách
được thực hiện trên phạm vi rộng lớn, số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác
động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi của Nhà nước.
Người dân là đối tượng trực tiếp thực hiện, thụ hưởng chính sách, nếu như không
có sự tham gia của họ thì chính sách không thể thành công được. Thậm chí trong
nhiều trường hợp, nhờ sự sáng tạo và kinh nghiệm người dân còn thực hiện rất tốt
những công việc của chính sách mà cán bộ cũng không thể ngờ. Đúng như Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng nhân dân rất nhạy bén, khôn khéo, anh hùng: “Dân
chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà
những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.8
8

Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia

Lớp KH9QLC2


25


×