BỘ NỘI VỤ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
TIỂU LUẬN
Giải pháp phân loại nợ, phòng ngừa rủi ro tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam theo thông lệ quốc tế
Học viên:
Lớp
:
§¬n vÞ
:
Hµ Néi, th¸ng 6/2011
MỞ ĐẦU
Tín dụng là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của các ngân hàng
thương mại, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản của các ngân hàng. Tín
dụng đã và đang là hoạt động tạo ra thu nhập chủ yếu cho các ngân hàng
thương mại. Tuy nhiên, cùng với việc đem lại thu nhập đáng kể cho ngân
hàng thì lĩnh vực tín dụng cũng là lĩnh vực có rủi ro lớn nhất. Tác động của
rủi ro tín dụng đối với hoạt động ngân hàng thương mại thường rất nặng nề:
làm tăng thêm chi phí của ngân hàng, thu nhập lãi bị chậm hoặc mất đi cùng
với sự thất thoát vốn vay, làm xấu đi tình hình tài chính và cuối cùng làm tổn
hại đến uy tín và vị thế của ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là điều không tránh khỏi, nó tồn tại
khách quan cùng với sự tồn tại của hoạt động tín dụng. Thực tiễn hoạt động
tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua cũng cho thấy
hoạt động tín dụng luôn song hành với rủi ro. Vì vậy việc tìm ra những giải
pháp phát hiện, phòng ngừa nợ xấu để hạn chế rủi ro tín dụng luôn là mối
quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu cũng như của các nhà điều hành
ngân hàng.
Với xu hướng toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế và đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay khi nước ta đã hội nhập AFTA, ra nhập WTO, hội
nhập với cộng đồng tài chính khu vực và quốc tế. Đặc biệt trong cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ hiện nay đang xảy ra trên quy mô toàn thế
giới thì việc phát hiện sớm để ngăn chặn, phòng ngừa và xử lý dứt điểm
các khoản nợ xấu của các ngân hàng là đòi hỏi cấp bách để tạo điều kiện
phát triển nền kinh tế, đổi mới và cơ cấu lại doanh nghiệp, tiết kiệm chi
phí cho nhà nước, có cơ hội để các ngân hàng đổi mới hoạt động tạo đà
phát triển.
Nhận thức tầm quan trọng của việc làm trong sạch bảng tổng kết
tài sản, các hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và các
ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng đã xây dựng đề án xử lý nợ
xấu tồn đọng, lành mạnh hoá tình hình tài chính của mình và hướng các
hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế, xây dựng ngân hàng theo hướng
tập đoàn tài chính hiện đại trong tương lai.
2
Tuy nhiên, việc phát hiện, phòng ngừa và xử lý nợ xấu trong hoạt
động ngân hàng là công việc thực sự khó khăn từ trước tới nay chưa
được làm triệt để, dứt điểm. Vì vậy, muốn làm tốt cần phải thay đổi tư
duy từ trong cách nghĩ đến cách làm, từ cấp ra văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn đến cấp thực hiện. Việc quản lý và xử lý nợ xấu trong hoạt động
ngân hàng phải được thực hiện một cách thực sự cầu thị, linh hoạt và có
hiệu quả.
Các ngân hàng thương mại Việt Nam, trong những năm qua đã có
những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh
những kết quả đó các ngân hàng thương mại cũng gặp phải không ít khó khăn
trong hoạt động xử lý nợ xấu. Đối với hoạt động phân loại, xử lý nợ xấu còn
chưa đồng bộ, chưa có chiến lược rõ ràng. Nội dung chủ yếu trong xử lý nợ
xấu hạn chế ở phạm vi từng khoản vay đã phát sinh mà chưa có chiến lược
phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn rủi ro tín dụng, quản lý danh mục cấp tín
dụng. Từ các góc độ trên mà tiểu luận “Giải pháp phân loại nợ, phòng ngừa
rủi ro tại các ngân hàng thương mại Việt Nam theo thông lệ quốc tế”
được lựa chọn nghiên cứu.
3
NỘI DUNG
I. Nội dung tình huống
Từ năm 2002, thực hiện các dự án hỗ trợ kỹ thuật do Ngân hàng Thế
giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á và một số nước phát
triển tài trợ, một số NHTM nhà nước và NHTM cổ phần đã thực hiện kiểm
toán quốc tế theo cả hai chuẩn mực kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán
quốc tế từ năm 2000 đến 2005.
Theo đánh giá của một số tổ chức kiểm toán quốc tế (Ernst & Young,
Price Whaterhouse Coopers, KPMG) đã thực hiện kiểm toán tại một số
NHTM nhà nước và NHTM cổ phần trong giai đoạn từ năm 2000-2010, đều
khuyến cáo tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng này đang ở mức rất cao, đặc biệt ở
một vài NHTM nhà nước. Tuy nhiên, các phương pháp cũng như kết quả
kiểm toán quốc tế tại các NHTM cho đến nay vẫn chưa được công bố rõ ràng
và đầy đủ, ngoại trừ Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam công bố số liệu
nợ xấu theo đánh giá của kiểm toán quốc tế năm 2004 - 2005 lên đến vài chục
phần trăm.
Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế có những đánh giá thận trọng
hơn, ước đoán tình hình nợ xấu bình quân của các NHTM Việt Nam vào
khoảng 30% ở giai đoạn 2000-2002, khoảng 15% ở giai đoạn 2004-2005 và
năm 2010 vào khoảng dưới 10%.
Đánh giá về các ngân hàng Việt Nam, một trong 3 tổ chức định mức tín
nhiệm lớn nhất thế giới là Công ty Standard and Poor’s cho rằng: Các NHTM
Việt Nam đang hoạt động với nhiều rủi ro như công khai tài chính kém, thiếu
minh bạch; chất lượng tài sản kém; trình độ quản lý rủi ro thấp; trình độ thẩm
định dự án và cho vay của các ngân hàng còn yếu kém… Các NHTM nhà
nước cho vay vẫn còn tập trung nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước trong
khi các doanh nghiệp này hoạt động kém hiệu quả, khiến các NHTM nhà
nước luôn đứng trước rủi ro lớn, Các NHTM cổ phần tuy không bị gánh nặng
hành chính cồng kềnh như các NHTM nhà nước nhưng vốn điều lệ lại quá
nhỏ, khoảng 5 triệu USD một ngân hàng, nên không thể tập trung cho các
khoản vay lớn. Các NHTM nhà nước và cổ phần đều không thể thoát khỏi
4
tình trạng nợ khê đọng và quá hạn thực tế chiếm tỷ lệ cao. Việc đánh giá chất
lượng tín dụng bị ảnh hưởng do báo cáo kém và tình trạng thiếu minh bạch.
Vµo giữa năm 2004 và năm 2009, Ng©n hµng Nhµ níc thùc hiÖn kh¶o
s¸t về tình hình nợ xấu t¹i mét sè NHTM nhµ níc, với nội dung tập trung vào
các khách hàng là doanh nghiệp có dư nợ cho vay và bảo lãnh từ 3 tỷ đồng trở
lên, với c¸c tiªu chÝ đánh giá dựa trên: kết quả hoạt động kinh doanh; tỷ lệ nợ
trung dài hạn trên vốn chủ sở hữu; lịch sử cho vay, trả nợ và tình hình công
nợ (nợ khoanh, nợ chờ xử lý, nợ khó đòi, nợ đã bị xử lý bằng dự phòng rủi ro)
tại các tổ chức tín dụng… Kết quả đợt khảo sát này cũng cho thấy tỷ lệ nợ xấu
tại các NHTM ở mức khá cao, gần với kết quả của kiểm toán quốc tế. Trong
đó, dư nợ của những khách hàng thua lỗ đến mức âm vốn chủ sở hữu, hoặc đã
ngừng hoạt động, hoặc đang bị khởi kiện lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng; các
khoản vay không có tài sản bảo đảm vẫn còn chiếm số lượng khá lớn; nguồn
vốn hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước là vốn vay ngân hàng…
Tỷ lệ nợ xấu ở mức cao phản ánh chất lượng hoạt động, năng lực tài
chính yếu kém của ngân hàng; hạn chế khả năng mở rộng quy mô kinh doanh;
làm giảm uy tín của ngân hàng, là nguyên nhân có thể gây ra sự đổ vỡ cục bộ
tại một ngân hàng và có khả năng gây phản ứng lan truyền đến an toàn hoạt
động của toàn hệ thống, ảnh hưởng đến nền kinh tế và tiềm ẩn nguy cơ khủng
hoảng kinh tế.
Để nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường năng lực tài chính, bảo
đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của
hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn mở cửa dịch vụ tài
chính ngân hàng và hội nhập kinh tế quốc tế, việc phõn loại nợ và xử lý nợ
xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo thông lệ quốc tế để đề xuất các
giải pháp xử lý là thiết thực và cấp bách.
II. Ph©n tÝch t×nh huèng
1. Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa đánh giá của Việt Nam
và các tổ chức quốc tế về nợ xấu của NHTM
Số liệu nợ xấu theo công bố của các NHTM Việt Nam và đánh giá của
các tổ chức tài chính ngân hàng, kiểm toán quốc tế đã trình bày ở trên có sự
khác biệt rất lớn. Nguyên nhân của sự khác biệt này, một phần do các tiêu chí
và phương pháp phân loại nợ xấu giữa Việt Nam và quốc tế khác nhau; phần
5
nữa do trình độ của hệ thống thông tin thống kê, kế toán khác nhau; do môi
trường kinh tế, cách thức tiếp cận nợ xấu và văn hoá hành xử khác nhau...
Trong đó, nguyên nhân cốt lõi là do các NHTM Việt Nam mới thực hiện phân
loại nợ theo từng khoản nợ riêng lẻ, trong khi đó thông lệ quốc tế chủ yếu
thực hiện phân loại nợ theo từng khách hàng.
1.1. Về mặt tiêu chí và phương pháp phân loại nợ
Xét về mặt hình thức và quy định trên các văn bản pháp lý, nợ xấu theo
định nghĩa của Việt Nam và thông lệ quốc tế về cơ bản đều được xác định
dựa trên 2 yếu tố: (i) thời gian quá hạn trên 90 ngày và/hoặc (ii) có bằng
chứng để nghi ngờ về khả năng trả nợ. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa
Việt Nam và thông lệ quốc tế về phân loại nợ, đó là cách thức lựa chọn, áp
dụng các tiêu chí, chuẩn mực và sử dụng các công cụ hỗ trợ để thực hiện, cụ
thể: Tiêu chí áp dụng phân loại nợ của Việt Nam hiện nay thiên về định lượng
(chủ yếu dựa vào thời gian quá hạn của khoản nợ cụ thể) mà chưa có sự kết
hợp hợp lý giữa tiêu chí định lượng và định tính (đánh giá đầy đủ về tình hình
tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng dựa trên cơ sở kết quả đánh giá
của Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng theo thông lệ quốc
tế). Do đó thực tế nhiều trường hợp khách hàng có kết quả kinh doanh thua lỗ,
âm vốn chủ sở hữu, nhưng chưa đến kỳ hạn trả nợ hoặc liên tục được gia hạn
nên vẫn được một số Ngân hàng Việt Nam phân loại vào nợ nhóm 1 hoặc
nhóm 2 (nhóm nợ tốt), trong khi đó nếu phân loại nợ theo thông lệ quốc tế với
các tiêu chí định tính thì các khoản nợ này phải bị xếp vào nợ nhóm 3, nhóm
4, hoặc nhóm 5 (nhóm nợ xấu).
1.2. Về trình độ của hệ thống thông tin, kế toán
So với hầu hết các quốc gia phát triển trong khu vực và quốc tế, hệ
thống thông tin của Việt Nam chưa đạt mức độ đầy đủ và minh bạch, trong đó
đặc biệt là các thông tin về tình hình tài chính của các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống công nghệ thông tin lạc hậu, hệ thống
kiểm tra, giám sát của nhà nước, hệ thống dịch vụ tư vấn tài chính, kiểm toán
của thị trường còn non yếu và chưa đầy đủ. Hầu hết báo cáo tài chính hoàn
toàn do các doanh nghiệp tự lập và kê khai với cơ quan thuế, mà không có ý
kiến đánh giá của các cơ quan kiểm toán độc lập. Vì vậy, nhiều số liệu trên sổ
sách tài chính kế toán doanh nghiệp chưa phản ánh đúng và đầy đủ tình hình
6
tài chính của khách hàng, thậm chí đã bị sai lệnh do bị che dấu, do chậm hoặc
không công bố công khai.
Khi đánh giá về tính công khai minh bạch về thông tin, thông thường
kiểm toán quốc tế sẽ xác định các khoản vay của những khách hàng này thuộc
các nhóm nợ nghi ngờ, dưới tiêu chuẩn.
1.3. Về văn hoá hành xử và rủi ro đạo đức
Là một quốc gia có nền kinh tế đang chuyển đổi, Việt Nam vẫn còn ít
nhiều sự can thiệp, ràng buộc về mặt chính sách đối với các doanh nghiệp,
đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước; các ngành nghề, vùng miền với các
mức độ ưu đãi khác nhau. Một khách hàng, một doanh nghiệp nhà nước có
thể vay vốn tại nhiều ngân hàng với nhiều cơ chế vay khác nhau, có khoản
vay theo chỉ định, kế hoạch nhà nước, vay không có tài sản bảo đảm hoặc sử
dụng bảo đảm bằng tài sản tình thành từ vốn vay; có khoản vay cơ chế thương
mại thông thường. Theo đó, không ít khách hàng kinh doanh thua lỗ, không
có khả năng trả nợ, được Nhà nước hỗ trợ nguồn để xoá nợ hoặc Ngân hàng
phải sử dụng dự phòng để xử lý nhưng vẫn tiếp tục nhận được các khoản vay
mới từ ngân hàng đã xoá nợ hoặc từ các ngân hàng khác, và các khoản vay
này vẫn được xếp loại vào nhóm nợ tốt. Trường hợp này, kiểm toán quốc tế
có thể sẽ phân loại tất cả các khoản vay của khách hàng này vào nhóm nợ
xấu, căn cứ vào một hoặc một số khoản nợ của không được hoàn trả, trong
khi các ngân hàng Việt Nam không làm như vậy.
Một lý do khá quan trọng ảnh hưởng đến kết quả phân loại nợ của các
ngân hàng Việt Nam thấp hơn so với đánh giá của các tổ chức quốc tế phải kể
đến tình trạng che dấu nợ xấu ở các ngân hàng do nhiều mục tiêu khác nhau.
Đối với các NHTM nhà nước có thể là do sức ép về thành tích, về chế độ
lương, thưởng… trong khi đối với các NHTM cổ phần lại là muốn thổi phồng
thương hiệu nhằm tạo uy tín để thu hút cổ đông và dễ dàng huy động vốn cho
hoạt động kinh doanh…
2. Nh÷ng rủi ro tiÒm Èn gia tăng nî xÊu xác định theo thông lệ quốc
tế cña c¸c NHTM Việt Nam
2.1. Năng lực quản trị ngân hàng nói chung và quản lý rủi ro của
các NHTM còn yếu
7
Mặc dù đã có sự cố gắng nỗ lực trong việc triển khai thực hiện Đề án
tái cơ cấu ngân hàng, tuy nhiên đến nay năng lực tài chính và hoạt động của
hệ thống NHTM Việt Nam vẫn chưa đạt được mức trung bình trong khu vực
và thế giới. Vốn điều lệ nhỏ bé, công nghệ dịch vụ ngân hàng còn lạc hậu;
năng lực quản trị ngân hàng còn thấp; năng lực, trình độ cán bộ ngân hàng
còn nhiều hạn chế. Hầu như các NHTM vẫn chưa thiết lập được Hệ thống
kiểm soát nội bộ hiệu quả để kịp thời phát hiên, ngăn chặn và phòng ngừa rủi
ro. Nhiều NHTM chưa xây dựng được Chính sách quản lý rủi ro tín dụng,
chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, chính
sách khách hàng và Sổ tay tín dụng; một vài NHTM đã bước đầu xây dựng,
ban hành các chính sách này nhưng quá trình áp dụng vẫn còn nhiều bất cập
do năng lực cán bộ và công nghệ thông tin lạc hậu. Do đó, nhiều rủi ro trong
hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng chưa được kịp
thời phát hiện và phòng ngừa hiệu quả.
Quy mô tài sản nhỏ bé, nhưng bộ máy hoạt động cồng kềnh làm tăng
nhiều chi phí, hoạt động chưa hiệu quả. Bộ máy kiểm toán nội bộ vẫn còn
thiếu và yếu, chưa được coi trọng đúng mức.
2.2. Cơ cấu tín dụng của hệ thống NHTM chậm chuyển dịch
Trong những năm gần đây, cơ cấu tín dụng của hệ thống NHTM đang
có những chuyển dịch nhất định, tuy nhiên chưa tạo được những thay đổi cơ
bản.
Tính đến cuối năm 2010, cơ cấu tín dụng của hệ thống ngân hàng như
sau: gần 35% tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước, 5% tín dụng cho kinh
tế tập thể, 60% tín dụng cho các thành phần kinh tế khác. Tín dụng của khu
vực kinh tế nhà nước tăng bình quân 15%; khu vực kinh tế tập thể, tư nhân, cá
thể tăng 25%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng bình quân 18%.
Như vậy, khách hàng chủ yếu của các NHTM Việt Nam vẫn là các
doanh nghiệp nhà nước, trong đó tập trung chủ yếu ở các NHTM nhà nước.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tính đến năm 2010, số nợ phải trả của khối
doanh nghiệp nhà nước lên tới vài trăm nghìn tỷ đồng, trong khi vốn tự có chỉ
đạt từ 5- 10% tổng vốn hoạt động, phần còn lại là vốn vay ngân hàng và nợ
các doanh nghiệp khác, hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng tài
sản đều rất thấp, khó có khả năng trả nợ ngân hàng. Đây thực sự là điều đáng
lo ngại cho chất lượng tín dụng và an toàn hệ thống ngân hàng.
8
Một lượng vốn khá lớn của ngân hàng đang được đầu tư vào bất động
sản lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Trong đó, khối NHTM nhà nước chiếm
khoảng 50% thị phần cho vay bất động sản. Khi thị trường bất động sản trầm
lắng, cùng với một loạt các vấn đề về thông tin, thủ tục đăng ký và xử lý tài
sản bảo đảm chưa hoàn thiện và minh bạch sẽ làm gia tăng rủi ro cho các
NHTM.
Hiện tượng cho vay đầu tư chứng khoán đang khá phổ biến. Hiện chưa
có số liệu đầy đủ về tổng dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu và sử dụng vốn vay
để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, trong giai đoạn khủng
hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, nhiều chuyên gia ngân hàng và các phương
tiện thông tin đại chúng đã cảnh báo về hiện tượng một số lượng vốn vay
ngân hàng khá lớn đang được đầu tư trên thị trường chứng khoán. Thực tế đã
có không ít con nợ bị thua lỗ, mất vốn không có khả năng trả nợ ngân hàng.
2.3 Tốc độ tăng trưởng tín dụng nóng
Nền kinh tế đang tăng trưởng cao, đòi hỏi nhu cầu vốn rất lớn, trong
khi đó, kênh huy động vốn của nền kinh tế vẫn phụ thuộc chủ yếu vào hệ
thống ngân hàng. Tính bình quân giai đoạn 2000-2010, tốc độ tăng trưởng tín
dụng của hệ thống NHTM luôn ở mức trên 25%, trong đó các NHTM nhà
nước khoảng 20% và các NHTM cổ phần trên 30%. Cùng với tốc độ tăng
trưởng tín dụng, số lượng chi nhánh của các NHTM cũng gia tăng rất nhanh,
trong đó các chi nhánh NHTM nhà nước được trao quyền lớn trong việc huy
động vốn và cấp tín dụng, có biểu hiện gần như một ngân hàng độc lập. Sự
gia tăng nhanh của hệ thống chi nhánh, trong khi trình độ, công nghệ quản lý
ngân hàng còn yếu kém, là một yếu tố tiềm ẩn rủi ro và gia tăng nợ xấu ngoài
tầm kiểm soát của từng NHTM và cả Ngân hàng Nhà nước.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cạnh tranh trong hoạt động
kinh doanh rất cao và chứa đựng nhiều rủi ro. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam
chưa xây dựng được thương hiệu, tiềm lực tài chính nhỏ và phân tán, chi phí
sản xuất cao và thiếu hiểu biết trong hoạt động thương mại quốc tế. Hiệu quả
kinh doanh không ổn định và rủi ro của khách hàng cũng dẫn tới rủi ro trong
hoạt động ngân hàng.
2.4. Cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng
9
Thời gian qua, các NHTM hoạt động trong môi trường cạnh tranh khá
gay gắt, đặc biệt trong lĩnh vực cấp tín dụng là lĩnh vực mang lại nhiều lợi
nhuận cho các ngân hàng. Các giải pháp cạnh tranh của các ngân hàng thường
là cạnh tranh về cơ chế lãi suất và loại hình dịch vụ phù hợp với nhiều nhóm
khách hàng, tuy nhiên cũng không ít ngân hàng vì mục tiêu lợi nhuận trước
mắt, đã hạ thấp các điều kiện cho vay để thu hút khách hàng vay vốn, dẫn đến
việc buông lỏng khâu thẩm định hiệu quả sản xuất kinh doanh, một số trường
hợp cho vay chỉ căn cứ vào giá trị của tài sản bảo đảm.
Việc hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện cho vay cũng đồng nghĩa với
việc hạ thấp chất lượng tín dụng. Đây là điều hết sức đáng lo ngại đối với an
toàn tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay.
2.5. Tình trạng “đánh bóng” ngân hàng trong ngắn hạn để thu hút
các nhà đầu tư
Trong điều kiện nền kinh tế đang tăng trưởng cao và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, việc thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược vào
các ngân hàng đang là một xu thế tất yếu để cải cách công nghệ quản trị ngân
hàng và làm tăng vị thế của các ngân hàng cả ở trong nước và quốc tế. Mặt
khác, một bảng cân đối kế toán “lành mạnh” sẽ nâng cao uy tín của ngân
hàng, tạo thuận lợi trong việc thu hút các nguồn vốn trên thị trường chứng
khoán, làm lợi trực tiếp cho các cổ đông và những người đang sở hữu ngân
hàng.
Vì vậy, hầu hết các ngân hàng đều có xu hướng tranh thủ cơ hội hiện
nay để đánh bóng vị thế và thương hiệu của mình bằng một bảng cân đối kế
toán “lành mạnh” với chất lượng tín dụng cao và tỷ lệ nợ xấu đang bị khống
chế ở mức thấp. Hậu quả là các số liệu về nợ xấu thường bị che dấu bằng các
biện pháp điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ, giãn nợ, thậm chí cho vay đảo
nợ. Cùng với cách “xử lý” nợ xấu mang tính “kỹ thuật” này, các ngân hàng
tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng tín dụng với khách hàng mới, do đó tỷ
lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam đều ở mức rất thấp, tương đương với
những ngân hàng hoạt động hiệu quả nhất trong khu vực và quốc tế.
Với cách thức xử lý như trên, nợ xấu của các ngân hàng có thể chưa
bộc lộ trong ngắn hạn khi nền kinh tế đang tăng trưởng tốt, nhưng khi nền
kinh tế có biến động xấu, tăng trưởng chậm lại, doanh nghiệp lâm vào tình
10
trạng khó khăn về tài chính thì nợ xấu tại các ngân hàng sẽ cao đột biến mà
ngân hàng không có nguồn dự phòng để kịp thời bù đắp.
2.6. Môi trường kinh tế kém minh bạch
Môi trường kinh tế Việt Nam nhìn chung còn kém minh bạch và công
khai thể hiện qua: hệ thống pháp luật chưa đầy đủ, ý thức chấp hành pháp luật
yếu kém, việc xử lý vi phạm chưa nghiêm và triệt để; nhiều thông tin không
được công bố, chậm công bố, thậm chí sai lệch; vẫn còn sự can thiệp của Nhà
nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; công nghệ thông tin lạc
hậu, hệ thống kiểm tra, giám sát của nhà nước chưa hiệu quả, dịch vụ tư vấn,
xếp hạng, kiểm toán độc lập còn non yếu.
Luật Doanh nghiệp được ban hành đã góp phần tạo điều kiện để nhiều
doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, cơ chế xử lý
doanh nghiệp yếu kém còn nhiều bất cập. Trong số hàng trăm nghìn doanh
nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân được thành lập từ trước đến
nay, có không ít doanh nghiệp thua lỗ, không hiệu quả, chây ỳ trả nợ khách
hàng và tiền lương của người lao động, nhưng tính đến năm 2010, số doanh
nghiệp bị xử lý theo thủ tục phá sản chỉ vào khoảng hàng trăm, số doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản từ năm 2010 cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Hoạt
động thu hồi nợ và xử lý tài sản của con nợ theo thoả thuận và kể cả theo
phán quyết của các cơ quan tài phán vẫn là nỗi ám ảnh và trăn trở của các chủ
nợ, trong đó có NHTM.
Việc công bố công khai kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp chưa được coi trọng. Hầu hết báo cáo tài chính hoàn toàn do các
doanh nghiệp tự lập và kê khai với cơ quan thuế, mà không có ý kiến đánh giá
của các cơ quan kiểm toán độc lập. Vì vậy, nhiều số liệu trên sổ sách tài chính
kế toán doanh nghiệp chưa phản ánh đúng và đầy đủ tình hình tài chính của
khách hàng, thậm chí đã bị sai lệnh do bị che dấu, hoặc không công bố.
Hoạt động tín dụng đối với khách hàng vẫn còn sự can thiệp của một số
cơ quan nhà nước; duy trì nhiều cơ chế tín dụng khác nhau đối với khách
hàng, ngay trong một khách hàng là doanh nghiệp nhà nước cũng tồn tại
nhiều khoản vay tại nhiều ngân hàng, có khoản vay theo chỉ định, kế hoạch
nhà nước, có khoản vay theo cơ chế ưu đãi, không có tài sản bảo đảm, có
khoản vay theo cơ chế thương mại, thị trường.
11
Quá trình cải cách, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước luôn chậm so
với kế hoạch và chịu sự can thiệp của nhiều cơ quan nhà nước, vai trò của các
chủ nợ và NHTM còn rất hạn chế.
Ngoài ra, nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước và ngay trong bản
thân các NHTM, các doanh nghiệp dẫn đến không ít khoản vay mang tính áp
đặt, ưu đãi sai nguyên tắc, không có tài sản bảo đảm... gây ra nợ xấu của hệ
thống ngân hàng.
Môi trường kinh tế pháp lý kém minh bạch, tham nhũng gây ra nhiều
khó khăn trong hoạt động của các doanh nghiệp và ngân hàng, làm gia tăng
mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
2.7. Nợ mất vốn theo dõi ngoại bảng còn chiếm số lượng lớn
Cơ chế xử lý nợ tồn đọng và nợ xấu của NHTM trong thời gian qua
mới chỉ tập trung vào việc xử lý trên sổ sách, chuyển từ nội bảng sang theo
dõi ngoại bảng, mà chưa được xử lý triệt để từ phía khách hàng. Các NHTM
vẫn tiếp tục theo dõi đôn đốc để tận thu hồi nợ của khách hàng.
Tổng số nợ xấu nội bảng và các khoản nợ mất vốn đang theo dõi ngoại
bảng của các NHTM Việt Nam hiện lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng, chiếm
tới tỷ lệ không nhỏ tổng dư nợ cho vay, đang thực sự là một gánh nặng của
các doanh nghiệp và nền kinh tế. Sẽ có không ít doanh nghiệp không có khả
năng trả nợ ngân hàng nếu không có một cơ chế tổng thể để cơ cấu lại khoản
nợ và xoá số nợ cũ.
Mặt khác, theo thông lệ quốc tế về phân loại nợ đối với khách hàng,
những khách hàng có tình hình tài chính yếu kém với những khoản nợ không
có khả năng thanh toán tại một ngân hàng, thì toàn bộ dư nợ của khách hàng
đó tại ngân hàng đó và các tổ chức tín dụng khác đều có thể bị phân vào nhóm
nợ xấu có rủi ro cao, làm gia tăng các khoản nợ xấu mới cho NHTM.
2.8. Cơ chế phân loại nợ hiện hành chưa phát huy tác dụng buộc
các NHTM phải bộc lộ đúng nợ xấu
Mặc dù về mặt pháp lý các NHTM được phép thực hiện phân loại nợ
theo 2 phương pháp: định lượng và định tính, bước đầu tiếp cận các thông lệ
quốc tế về phân loại nợ. Tuy nhiên, do quy định của Nhà nước không có điều
khoản ràng buộc các ngân hàng phải thực hiện phân loại nợ theo các tiêu chí
thống nhất, nên thực tế hiện nay các ngân hàng mới chỉ tập trung vào việc
12
thc hin phng phỏp phõn loi n theo nh lng, da vo thi gian quỏ
hn ca tng khon vay riờng l m khụng thc hin c vic ỏnh giỏ tng
th v kh nng tr n v tỡnh hỡnh ti chớnh xỏc nh mc ri ro ca
tng khỏch hng. Do ú, cỏc khon n ca mt khỏch hng vn c phõn
loi nhiu nhúm n khỏc nhau, cú khon n tt, cú khon n xu; kt qu
phõn loi n ca cỏc NHTM cú cựng loi hỡnh, quy mụ, iu kin hot ng
cng khỏc xa nhau.
Ti Ngõn hng u t v phỏt trin Vit Nam, t l n xu trờn tng d
n trong cỏc nm 2005, 2006 ln lt l 12,47% v 9,1%; trong khi ú ti
Ngõn hng Cụng thng Vit Nam l 1,88%, Ngõn hng Nụng nghip v phỏt
trin Nụng thụn Vit Nam ch l 2,22% v 1,76%.
Nh vy, vi quy nh v phõn loi n hin hnh, thc cht n xu ca
cỏc NHTM cha c bc l y . Trng hp cỏc NHTM thng nht thc
hin phõn loi n theo tng khỏch hng thỡ s liu n xu ti tt c cỏc ngõn
hng s u ln hn nhiu so vi cỏc s liu ó bỏo cỏo.
Túm li, t nhng s liu v ỏnh giỏ nờu trờn cho thy: cht lng tớn
dng ca cỏc NHTM hin cha c phn ỏnh ỳng thc cht; phng phỏp
v ch v phõn loi n vn cũn khong cỏch khỏ xa so vi thụng l quc
t; hot ng tớn dng ca cỏc NHTM cũn tim n nhiu ri ro. ũi hi phi
cú gii phỏp tng th, mnh m kp thi chn chnh hot ng phõn loi n
v phũng nga, x lý n xu ca h thng NHTM theo thụng l quc t.
III: Đề xuất giải pháp PHN LOI N V phòng ngừa
RI RO của NHTM việt nam theo thông lệ quốc tế
xỏc nh ỳng thc trng n xu ca cỏc NHTM Vit Nam theo
thụng l quc t, Ngõn hng Nh nc cn ban hnh Quy ch mu v xp
hng tớn dng i vi khỏch hng v quy nh bt buc cỏc NHTM phải xây
dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản
lý chất lợng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của
NHTM.
Quy ch mu v xp hng tớn dng i vi khỏch hng v Hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ ca NHTM cn c thit k theo cỏc nhúm ch tiờu
ỏnh giỏ v c cu, h s cho im i vi tng nhúm, loi hỡnh khỏch hng.
13
Về cơ bản các đối tượng khách hàng chủ yếu tại các ngân hàng gồm 3 nhóm
có tính chất và đặc điểm khác nhau: nhóm khách hàng là doanh nghiệp, nhóm
khách hàng là tổ chức tín dụng và nhóm khách hàng là cá nhân.
1. Hệ thống chỉ tiêu
Tương ứng với từng nhóm khách hàng này, NHTM xây dựng các nhóm
chỉ tiêu cụ thể để đánh giá về tình tình tài chính và khả năng trả nợ của khách
hàng như sau:
1.1. Đối với những khách hàng là doanh nghiệp
Việc thực hiện đánh giá xếp hạng khách hàng là doanh nghiệp thực
hiện theo các nhóm chỉ tiêu chủ yếu bao gồm:
a. Nhóm chỉ tiêu thanh khoản, bao gồm các chỉ tiêu:
(i) Khả năng thanh toán hiện hành được xác định bằng hệ số giữa giá trị
tài sản lưu động trên nợ phải trả ngắn hạn;
(ii) Khả năng thanh toán nhanh được xác định bằng hệ số giữa tổng giá
trị tài sản lưu động trừ hàng tồn kho trên nợ phải trả ngắn hạn;
(iii) Khả năng thanh toán tức thời được xác định bằng tổng số tiền mặt
và các khoản có giá trị như tiền trên nợ phải trả ngắn hạn;
b. Nhóm chỉ tiêu hoạt động bao gồm các chỉ tiêu
(i) Vòng quay vốn lưu động được xác định bằng hệ số giữa tổng
Doanh thu thuần với tổng Tài sản ngắn hạn bình quân năm;
(ii) Vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng tổng giá vốn hàng
bán/ hàng tồn kho bình quân;
(iii) Vòng quay các khoản phải thu được xác định bằng tổng doanh thu
thuần / các khoản phải thu bình quân năm;
(iv) Hiệu suất sử dụng TSCĐ được xác định bằng tổng Doanh thu
thuần / Giá trị còn lại của TSCĐ bình quân năm;
c. Nhóm chỉ tiêu cân đối nợ bao gồm các chỉ tiêu :
(i) Tổng nợ phải trả/ tổng tài sản;
(ii) Nợ dài hạn / nguồn vốn chủ sở hữu ;
d. Nhóm chỉ tiêu thu nhập bao gồm các chỉ tiêu:
14
(i) Lợi nhuận gộp / doanh thu thuần;
(ii) Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh/ doanh thu thuần;
(iii) Lợi nhuận sau thuế / vốn chủ sở hữu;
(iv) Lợi nhuận sau thuế/ Tổng tài sản bình quân;
(v) Lợi nhuận trước thuế + chi phí lãi vay)/ chi phí lãi vay;
đ. Nhóm chỉ tiêu về khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ gồm:
(i) Chỉ tiêu về khả năng trả nợ trung dài hạn được xác định bằng hệ số
giữa tổng Thu nhập thuần sau thuế dự kiến cộng với Chi phí khấu hao dự kiến
chia cho Vốn vay đầu tư trung dài hạn đến hạn trả dự kiến;
(ii) Chỉ tiêu về nguồn trả nợ của khách hàng theo đánh giá của Ngân
hàng dựa trên các thông tin rõ ràng như: số dư hiện có của tài khoản tiền gửi
cho những khoản vay sắp đến hạn trả; hợp đồng kinh tế của khách hàng với
các đối tác; công nợ chờ thu và có khả năng chắc chắn thu hồi được; các
nguồn thu khác…
e. Nhóm chỉ tiêu về môi trường nội bộ và trình độ quản lý doanh
nghiệp khách hàng gồm: các vấn đề về nhân thân như trình độ học vấn và
kinh nghiệm chuyên môn của người đứng đầu và Ban lãnh đạo doanh nghiệp;
năng lực điều hành, tính gắn bó của các thành viên Ban lãnh đạo, quan hệ với
các tổ chức liên quan; môi trường kiểm soát nội bộ, cơ cấu tổ chức của doanh
nghiệp khách hàng; tầm nhìn của doanh nghiệp.
g. Nhóm chỉ tiêu về mối quan hệ với ngân hàng cho vay, được xem xét
trên cơ sở hiện tại và lịch sử quan hệ (ít nhất trong 12 tháng gần nhất) như:
lịch sử quan hệ với ngân hàng, bao gồm lịch sử trả nợ gốc, lãi (kể cả các cam
kết ngoại bảng); số lần cơ cấu lại nợ và tỷ trọng trên tổng dư nợ; tình hình nợ
quá hạn/ dư nợ hiện tại; tình hình cung cấp thông tin theo yêu cầu của Ngân
hàng; mức độ sử dụng dịch vụ của ngân hàng (tiền gửi, thanh toán và các dịch
vụ khác), tỷ trọng sử dụng doanh thu qua ngân hàng / tổng doanh thu của
khách hàng; đánh giá định hướng quan hệ của ngân hàng với khách hàng.
h. Nhóm chỉ tiêu về các nhân tố bên ngoài như: triển vọng của ngành,
lĩnh vực đang hoạt động; tính cạnh tranh của sản phẩm; tính ổn định của
nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra; các ảnh hưởng của Chính sách bảo
hộ, ưu đãi của nhà nước (nếu có) đối với thị trường chính của khách hàng;
15
mức độ phụ thuộc của hoạt động kinh doanh của khách hàng đối với các điều
kiện tự nhiên, thiên tai dịch bệnh…
i. Nhóm chỉ tiêu về các đặc điểm hoạt động khác như: mức độ phụ
thuộc vào một số ít nhà cung cấp đối với các yếu tố đầu vào, hoặc vào một số
ít người tiêu dùng đối với các sản phẩm đầu ra; tốc độ tăng trưởng doanh thu,
lợi nhuận sau thuế; uy tín, thương hiệu của khách hàng, quy mô, phạm vi hoạt
động; khả năng tiếp cận các nguồn vốn…
1.2. Đối với khách hàng là tổ chức tín dụng
Đối với nhóm khách hàng là các tổ chức tín dụng, các nhóm chỉ tiêu cơ
bản để đánh giá khách hàng gồm các nhóm cơ bản sau:
a. Nhóm chỉ tiêu về bảo đảm an toàn vốn, bao gồm các tỷ lệ như: hệ số
an toàn vốn (tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có rủi ro), trong đó xác định tỷ
lệ vốn cấp 1 trên tổng tài sản có rủi ro; tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu trên tổng tài
sản.
b. Nhóm chỉ tiêu về chất lượng tài sản, bao gồm các tỷ lệ như: nợ xấu/
tổng dư nợ; tổng tài sản có sinh lời/tổng tài sản; Tổng dự phòng rủi ro/tổng nợ
xấu; tổng số vốn chủ sở hữu và dự phòng đã trích/ tổng nợ xấu.
c. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh khoản, bao gồm các tỷ lệ như: tổng
tài tản thanh toán/tổng tài sản; tổng dư nợ ròng/ tổng vốn huy động; Dư nợ
trung dài hạn/ tổng vốn huy động.
d. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời, bao gồm các tỷ lệ như: Lợi
nhuận thuần/Vốn chủ sở hữu (ROE); Lợi nhuận thuần/ tổng tài sản (ROA);
thu nhập lãi cận biên; Chi phí hoạt động/ tổng thu nhập; thu nhập ngoài lãi
vay/tổng thu nhập; chi phí dự phòng/tổng thu nhập.
đ. Nhóm chỉ tiêu về năng lực quản trị điều hành của Ban lãnh đạo, hệ
thống kiểm soát nội bộ (nhận thức về rủi ro và kiểm soát rủi ro, quy trình
nghiệp vụ đối với các hoạt động chính, kiểm toán nội bộ, phân công trách
nhiệm) và khả năng cạnh tranh của tổ chức tín dụng (thương hiệu, thị
phần…); hệ thống công nghệ thông tin…
e. Nhóm chỉ tiêu về khả năng duy trì năng lực kinh doanh của tổ chức
tín dụng như: khả năng duy trì trong dài hạn hệ số bảo đảm an toàn vốn,
ROA, ROE…; mức độ đa dạng hoá hoạt động kinh doanh (danh mục sản
16
phẩm, dịch vụ, mạng lưới chi nhánh, đối tượng khách hàng…); các chính sách
về nhân sự, phúc lợi của tổ chức tín dụng…
g. Các yếu tố khác như mức độ can thiệp của nhà nước vào hoạt động
của tổ chức tín dụng, mức độ tuân thủ pháp luật, khả năng tiếp cận các nguồn
vốn vay, tài trợ; hỗ trợ kỹ thuật từ nhà nước, từ các đối tác chiến lược …
h. Nhóm chỉ tiêu về các yếu tố môi trường vĩ mô như tốc độ tăng trưởng
kinh tế, mức dự trữ ngoại hối, nợ nước ngoài, sự ổn định và phát triển của hệ
thống tài chính ngân hàng; lịch sử thanh toán nợ của các tổ chức tín dụng,
mức độ minh bạch thông tin tài chính…
1.3. Đối với khách hàng là cá nhân
Đối với nhóm khách hàng là cá nhân (vay tiêu dùng hoặc kinh doanh),
các nhóm chỉ tiêu cơ bản để đánh giá khách hàng gồm các nhóm cơ bản sau:
a. Nhóm chỉ tiêu về nhân thân, có thể bao gồm các thông tin về tuổi tác,
năng lực lao động, tình trạng chỗ ở, cơ cấu gia đình, nghề nghiệp, lịch sử tư
pháp (tiền án, tiền sự);
b. Nhóm chỉ tiêu về khả năng trả nợ, bao gồm các thông tin về mức thu
nhập ròng ổn định hàng tháng; tỷ trọng giữa số tiền phải trả trong kỳ và nguồn
trả nợ có thể chứng minh được (hợp pháp); tình hình trả nợ gốc và lãi vay
ngân hàng, kể cả các tổ chức tín dụng khác (nếu có); tình hình sử dụng các
dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng cho vay…
c. Nhóm chỉ tiêu về giá trị tài sản bảo đảm, bao gồm các thông tin về
loại tài sản bảo đảm; giá trị tài sản bảo đảm so với tổng dư nợ; các rủi ro, chi
phí liên quan đến việc tiếp nhận và xử lý tài sản bảo đảm.
2. Xác định cơ cấu tính điểm, xếp hạng khách hàng
Trên cơ sở xác định các nội dung cụ thể của các bộ tiêu chí nói trên,
các NHTM xác định các nhóm khách hàng chủ yếu của ngân hàng mình để
cân nhắc các định hệ số tính điểm cho từng bộ chỉ tiêu phù hợp. Các yếu tố
tác động đến cách thức điểm khách hàng còn phụ thuộc vào ngành nghề hoạt
động, quy mô hoạt động (về vốn, tổng tài sản, doanh thu thuần, số lượng sử
dụng lao động) và loại hình sở hữu của khách hàng. Đối với nhóm khách hàng
là doanh nghiệp, các ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến các chỉ tiêu quan trọng
có ý nghĩa quyết định đến việc đánh khách hàng là nhóm chỉ tiêu về: quan hệ
giữa khách hàng và ngân hàng cho vay (trong đó đáng chú ý là chỉ tiêu về lịch
17
sử trả nợ, số lần cơ cấu lại nợ…); trình độ quản lý doanh nghiệp; các đặc
điểm hoạt động; nhóm chỉ tiêu về thanh khoản, thu nhập, cân đối nợ và chỉ
tiêu hoạt động… Khi thực hiện chấm điểm cũng cần lưu ý, có sự phân biệt
nhất định đối với những khách hàng có báo cáo tài chính đã được kiểm toán
và chưa được kiểm toán.
Trong khi đó, đối với nhóm khách hàng là cá nhân, các nhóm chỉ tiêu
quan trọng là chỉ tiêu về thu nhập hàng tháng, lịch sử trả nợ, nghề nghiệp của
người vay và giá trị tài sản bảo đảm…
Tổng số điểm tổng hợp đánh giá khách hàng được thiết kế theo thang
100 điểm và thực hiện phân loại thành các mức: (AAA, AA, A), (BBB, BB,
B), (CCC, CC), C và D; hoặc các mức: tốt, khá, trung bình, yếu, kém. Tương
ứng với kết quả xếp hạng tín dụng đối với từng khách hàng ở một trong năm
mức này, toàn bộ dư nợ của khách hàng đó sẽ được phân loại vào một trong
năm nhóm nợ: 1, 2, 3, 4, 5. Trong đó, dư nợ của khách hàng bị phân loại vào
các nhóm 3, 4, 5 là khách hàng có nợ xấu.
3. Kết hợp phương pháp định tính và định lượng
Để bảo đảm kết quả xếp hạng khách hàng đạt mức an toàn và hỗ trợ tốt
nhất cho việc phân loại nợ, các ngân hàng cần kết hợp giữa các các tiêu chí
định tính và định lượng khi thực hiện phân loại nợ đối với khách hàng. Theo
đó, trước hết thực hiện xếp hạng khách hàng theo phương pháp định tính làm
căn cứ để phân loại nợ; sau đó, có thể kết hợp với các tiêu chí định lượng để
xác định theo nguyên tắc:
- Trừ trường hợp Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của ngân hàng cho
kết quả phân loại nợ ở nhóm nợ có mức độ rủi ro cao hơn, đối với khách hàng
có bất kỳ khoản nợ nào đã quá hạn thanh toán nợ gốc và/hoặc nợ lãi trên 90
ngày thì mọi khoản nợ của khách hàng đó tại NHTM dù chưa đến hạn cũng
cần được phân loại vào nhóm 3; tương tự như vậy, có bất kỳ khoản nợ nào đã
quá hạn thanh toán nợ gốc và/hoặc nợ lãi trên 180 ngày thì toàn bộ dư nợ của
khách hàng đó tại NHTM được phân loại vào nhóm 4; có bất kỳ khoản nợ nào
đã quá hạn thanh toán nợ gốc và/hoặc nợ lãi trên 360 ngày thì toàn bộ dư nợ
của khách hàng đó tại NHTM cần được phân loại vào nhóm 5.
18
- Cỏc trng hp khỏch hng ó b gii th, phỏ sn, ngng hot ng;
hoc b thu hi giy phộp hot ng, hoc thua l lu k dn n khụng cũn
hoc b õm vn ch s hu phi b phõn loi vo n nhúm 5.
- Vic xp hng tng khỏch hng v phõn loi n cn c xỏc nh i
vi ton b s d cp tớn dng ti mt ngõn hng, bao gm d n cho vay,
bo lónh, chit khu, bao thanh toỏn. Trng hp khỏch hng b xp loi cú
ri ro cao thỡ ton b d cp tớn dng ca khỏch hng ti ton b ngõn hng
ú s b coi l n xu v phi c hch toỏn, theo dừi cht ch v thc hin
trớch lp d phũng ri ro bự p.
Thc hin gii phỏp ny, ton b cỏc khon n xu ca cỏc NHTM Vit
Nam s bc l rừ theo sỏt vi chun mc quc t, bo m s cụng khai, minh
bch thụng tin ca NHTM.
4. Xỏc nh tng s d phũng phi trớch lp bự p ri ro
Vic tớnh toỏn s d phũng c th bự p cho cỏc ri ro cú th xy ra
i vi tng khỏch hng thc hin theo cụng thc sau:
Rk = {max[0, (A1 - C1)] + max{0, (A2 - C2)} + max[0, (An - Cn)]}
xr
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích ca tng khỏch hng k
A1, A2, An: giá trị của tng khon cp tớn dng cho khỏch
hng k
C1, C2, Cn: giá trị của tài sản bảo đảm ca tng khon cp
tớn dng cho khỏch hng k
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể theo kt qu phõn loi n i
vi khỏch hng k
Vic xỏc nh t l d phũng theo tng nhúm n, t l ti a xỏc nh
ti sn bo m c thc hin nh quy nh ti Quyt nh 493 hin hnh.
5. Tng hp n xu ca ton h thng NHTM Vit Nam
Ton b danh mc n ca cỏc khỏch hng l doanh nghip ti cỏc
NHTM c bỏo cỏo v Trung tõm Thụng tin tớn dng (CIC) theo cỏc tiờu chớ
bỏo cỏo nh: mó s khỏch hng, tng d n, giỏ tr ti sn bo m, d phũng
phi trớch lp phũng nga ri ro...
19
Căn cứ báo cáo của các NHTM, CIC sẽ đối chiếu danh sách khách
hàng (thông qua mã số khách hàng) tương ứng với kết quả phân loại nợ của
từng ngân hàng để tổng hợp phân loại nợ của từng khách hàng tại toàn hệ
thống NHTM. Trường hợp một khách hàng bị xếp hạng tín dụng và phân loại
nợ ở nhiều mức khác nhau tại nhiều NHTM thì phải thông báo cho các
NHTM điều chỉnh lại theo nguyên tắc: Trường hợp một khách hàng đã bị ít
nhất một NHTM xếp hạng tín dụng ở mức thấp, tương ứng với kết quả phân
loại nợ ở các nhóm 4 và /hoặc nhóm 5, thì các NHTM khác phải thực hiện
đánh giá, rà soát lại hệ thống xếp hạng tín dụng đối với khách hàng đó và toàn
bộ dư nợ cấp tín dụng của khách hàng đó tại các ngân hàng khác sẽ bị phân
loại vào nhóm nợ xấu (từ nhóm 3 trở xuống) và xác định mức trích lập dự
phòng phù hợp.
Các NHTM thực hiện rà soát lại kết quả xếp hạng tín dụng và phân loại
nợ theo từng khách hàng, tính toán số tiền trích lập dự phòng cho khách hàng
đó và báo cáo cho CIC và Thanh tra Ngân hàng Nhà nước tổng hợp số liệu nợ
xấu của từng khách hàng là doanh nghiệp ở toàn hệ thống NHTM trên phạm
vi toàn quốc.
Căn cứ kết quả phân loại nợ của các NHTM theo tiêu chí trên, cần thực
hiện phân loại các nhóm ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu so với tổng dư nợ ở các
mức độ: an toàn và trung bình (dưới 5%), mức cao (trên 5%- 10%) và mức
nguy hiểm (trên 10%); nhóm các NHTM có khả năng trích lập đủ dự phòng,
các NHTM không có khả năng trích lập đủ dự phòng, để có các giải pháp xử
lý phù hợp.
6. Giải pháp xử lý các khoản nợ xấu của NHTM
Cơ chế áp dụng các giải pháp xử lý nợ xấu được thực hiện linh hoạt
cho từng ngân hàng và khách hàng, căn cứ vào các chỉ tiêu như:
- Thực hiện xử lý nợ theo từng nhóm khách hàng gồm: doanh nghiệp,
tổ chức tín dụng và các cá nhân;
- Theo hình thức sở hữu và quy mô nợ xấu gồm: doanh nghiệp nhà
nước có quy mô nợ xấu từ 50 tỷ đồng trở lên; doanh nghiệp nhà nước có quy
mô nợ xấu dưới 50 tỷ đồng và các doanh nghiệp phi nhà nước;
20
- Theo mc n khú ũi ti tng NHTM gm cỏc mc : t l n
xu/tng d n cp tớn dng di 5%; t 5% n di 10%; v mc trờn 10%
v kh nng trớch lp d phũng ca tng ngõn hng.
Kt lun v kin ngh
Thực tế thời gian qua, các NHTM Việt Nam mới thực hiện việc phân
loại nợ theo các chỉ tiêu định lợng căn cứ vào thời gian quá hạn của từng
khoản nợ riêng lẻ, cha thực hiện phân loại nợ theo từng khách hàng. Do đó, s
liu n xu theo kết quả phân loại nợ của các NHTM Việt Nam luôn thấp hơn
nhiều lần so với đánh giá của các tổ chức tài chính ngân hàng và kiểm toán
quốc tế có uy tín, cha phản ánh đúng chất lợng tín dụng và tiềm ẩn nhiều rủi
ro trong hoạt động của hệ thống NHTM.
Trờn c s nghiờn cu v khỏi nim, cỏc tiờu chớ v phng phỏp phõn
loi n ca NHTM theo cỏc thụng l quc t tt nht; kinh nghim x lý n
xu ca cỏc quc gia trong khu vc v quc t; nhng ỏnh giỏ v thc trng
phõn loi n ca NHTM Vit Nam, D ỏn ó xut gii phỏp nhm xỏc nh
ỳng thc trng n xu ca h thng NHTM Vit Nam theo thụng l quc t.
Theo ú, phng phỏp phõn loi n v xỏc nh n xu ca NHTM Vit Nam
c xut ch yu xõy dng da trờn cỏc tiờu chớ nh tớnh ỏnh giỏ v
tỡnh hỡnh ti chớnh v kh nng tr n ca tng khỏch hng, cú kt hp vi
mt s ch tiờu nh lng phự hp vi thc t. Nhm giỳp cho NHNN v cỏc
NHTM Vit Nam cú cỏc gii phỏp ngn chn, phũng nga n xu.
c bit hin nay, Ngõn hng Nh nc Vit Nam ang d tho
Thụng t ca Thng c thay th Quyt nh s 493/2005/Q-NHNN ngy
20/05/2005 ca Thng c NHNN v phõn loi n, trớch lp d phũng v x
lý ri ro trong hot ng ngõn hng. Hy vng nhng ý kin xut gi m
nờu trờn s c nghiờn cu, tip thu a vo ni dung Thụng t mi.
21
Thời gian qua đợc học tại lớp bồi dỡng kiến thức quản lý Nhà nớc chơng trình chuyên viên chính do Trung tõm o to bi dng cỏn b, cụng
chc- B Ni v t chc Học viện Ngân hàng Ngân hàng Nhà nớc Việt
Nam đã giúp đỡ tôi củng cố bổ sung nhiều kiến thức về lý luận nhận thức
phục vụ cho quá trình công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên của Trung tõm o to bi
dng cỏn b, cụng chc- B Ni v đã đem hết khả năng truyền đạt những
kinh nghiệm, kiến thức về lý luận cũng nh thực tiến để giúp tôi hoàn thành
tiểu luận này. Do năng lực và thời gian hạn chế, chắc chắn tiểu luận này còn
nhiều khiếm khuyết. Rất mong nhận đợc sự góp ý của các thầy, cô giáo để bài
tiểu luận này ngày càng đợc hoàn thiện hơn.
DANH MC TI LIU THAM KHO
I. Phn ting Vit
1. Lut cỏc t chc tớn dng nm 2010.
2. Quy ch cho vay ca t chc tớn dng i vi khỏch hng.
3. Quy ch phõn loi n v trớch lp d phũng x lý ri ro ca t chc tớn dng
ban hnh theo Quyt nh 493/2005/Q-NHNN ngy 22/05/2005 ca Thng c Ngõn
hng Nh nc.
4. U ban kinh t v ngõn sỏch Quc hi - Bỏo cỏo s 2872/UBKTNS ngy
14/9/2006 v Kt qu giỏm sỏt Cht lng tớn dng v an ton ca h thng NHTM Vit
Nam.
5. Ngõn hng Nh nc Vit Nam- Bỏo cỏo tng kt thc hin ỏn x lý n tn
ng ca cỏc NHTM, nm 2005
6. Ngõn hng Nh nc Vit Nam- Bỏo cỏo s kt tỡnh hỡnh thc hin ỏn tỏi c
cu ca cỏc NHTM nh nc, nm 2006
7. D tho sa i Quy ch phõn loi n v trớch lp d phũng x lý ri ro ca
t chc tớn dng ban hnh theo Quyt nh 493/2005/Q-NHNN ngy 22/05/2005 ca
Thng c Ngõn hng Nh nc
8. Ngõn hng Nh nc Vit Nam- Ti liu hi tho v gii phỏp x lý n xu
trong quỏ trỡnh tỏi c cu NHTM Vit Nam, thỏng 1 nm 2003
22
9. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt
Nam,
10. Các tiêu chí phân loại nợ và Chính sách dự phòng rủi ro tín dụng vốn cho vay
của ngân hàng bán buôn, ngân hàng bán lẻ và ngân hàng cá nhân của Tập đoàn Citigroup.
11. Sổ tay tín dụng của bốn NHTM nhà nước
12. Hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế.
13. Uỷ ban Basel- Những vấn đề cơ bản cho hoạt động thanh tra Ngân hàng có hiệu
quả.
I. Phần tiếng Anh
1. International Finacial Corporation, Vietnam Finacial Sector Diagnostic, by
Margarete Biallas, Hanh Nam Nguyen- August, 2006.
2. SNA/M2.04/07 IMF working paper: The treament of Non performing loans in
macroeconomic statistic, by Russel Freeman, IMF.
3. WP/01/209 IMF working paper: The treament of Non Performing Loans in
Macroeconomic Statistic.
4. WP/05/2001- IMF Working paper, Debt Maturity, Risk, and Asymmetric
Information- Octorber 2005.
5. International Standard for Impairment and Provisions and their Implication for
Finacial Soundness Indicator (FSIs), by Russell Prueger- July 2002.
6. 2006 International Monetary Fund. IMF Country Report No.06/22 January 2006,
Vietnam: 2005 Article IV Concultation- Staff Report, Staff Statement; Public Information
Notice on the Executive Board Discussion; and Statement by the Excutive Director for
Vietnam.
7. Non-performing Loans in China, 2003 Annual Review, by Ernst & Young.
8. Bad loans and Their Impacts on Japanese Economy: Conceptual and Practical
Issues, and Policy Options, by Se-Hark-Park.
9. Corporate Restructuring in Korea and its application to Japan, by Hyoung
Taekim – Vice president Korea securities Reseach Institute.
Các trang web:
; ;
23
; ;
24
MỤC LỤC
Rk = {max[0, (A1 - C1)] + max{0, (A2 - C2)} +… max[0, (An - Cn)]} x r.......................19
25