A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài :
Trong thời đại kinh tế thị trường như hiện nay, học sinh ở lứa tuổi THCS là
một lứa tuổi rất dễ đua đòi, dễ học theo người khác và rất dễ bị sa ngã. Điều đó
không chỉ do sự tác động của môi trường bên ngoài mà còn chịu ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố mà một trong những yếu tố quan trọng là tâm sinh lý lứa tuổi học
sinh THCS. Bởi vì có nhiều giáo viên đảm nhiệm việc giáo dục học sinh bậc
THCS cho rằng, lâu nay các nhà giáo dục mới chỉ quan tâm học sinh vào lớp một
và khi học sinh chuẩn bị tốt nghiệp THPT, chưa quan tâm khi học sinh bước vào
bậc THCS. Họ chưa thấy được rằng đây mới là quãng thời gian vô cùng quan
trọng khi trẻ có những chuyển biến phức tạp về tâm sinh lý. Lứa tuổi học sinh
THCS được đánh giá là lứa tuổi có nhiều đột phá, biến chuyển tâm sinh lý khá
mạnh mẽ, nó được biểu hiện một cách tập trung nổi bật giữa cái tốt và cái xấu; khi
thì mạnh mẽ can trường, khi thì đua đòi, tò mò bắt chước cái tốt lẫn cái xấu,…
Đây là thời kỳ phát triển phong phú, đa dạng, phức tạp nhưng vô cùng quan trọng
trong quá trình phát triển, hình thành nhân cách và trí tuệ của mỗi cá nhân. Đây là
độ tuổi chịu sự tác động mạnh của xã hội, gia đình và nhà trường mà đặc điểm nổi
bật là tiếp nhận nhanh những cái tốt và cái xấu mà thực ra bản thân các em chưa
phân biệt được.
Tôi nghĩ rằng, là giáo viên ai cũng mong ước đem lại những điều tốt đẹp
nhất cho các em, những nụ cười và đôi mắt sáng sung sướng khi trẻ nhận được
những thành tích trong học tập và mong ước thành tựu giáo dục của mình ngày
một tốt đẹp hơn. Để thực hiện được mong ước đó, gia đình, nhà trường và xã hội
phải phối hợp chặt chẽ với nhau để cùng làm tốt công tác giáo dục học sinh nhằm
ngăn chặn, hạn chế và khắc phục tình trạng học sinh chưa ngoan, học sinh chậm
tiến bộ trong nhà trường. Trong nhiều năm qua với vai trò là người quản lý, không
ít lần tôi đã băn khoăn, trăn trở suy nghĩ, tìm tòi nhiều giải pháp để nâng cao chất
lượng giáo dục đạo đức nói chung và học sinh chưa ngoan, học sinh chậm tiến bộ
trong nhà trường nói riêng.
Xuất phát từ những lý do trên nên trong năm học 2011 – 2012 tôi chọn đề
tài nghiên cứu là “ Một số kinh nghiệm trong việc giáo dục học sinh chưa ngoan,
học sinh chậm tiến bộ cấp THCS” ở trường TH&THCS Ba Sao. Với mong muốn
các em sẽ trở thành những người chủ nhân tương lai của đất nước, những con
ngoan, trò giỏi, có ích cho gia đình và cho xã hội.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu :
Đánh giá được thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở trường
THCS, thông qua đó đề ra biện pháp giáo đạo dức học sinh một cách có hiệu quả
giúp cho các em trở thành những người tốt trong xã hội.
III. Giới hạn của đề tài :
Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp giáo dục đạo đức học sinh cấp THCS
ở trường TH&THCS Ba Sao trong năm học 2011 - 2012.
IV. Phương pháp nghiên cứu :
- Trên cơ sở những kiến thức về tâm lý, giáo dục học và những quan điểm
đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về đánh giá xếp
loại, khen thưởng và kỷ luật học sinh.
- Nhìn nhận lại thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường
trong năm học. Đưa ra một số biện pháp về việc thực hiện công tác giáo dục đạo
đức cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay.
- Thời gian nghiên cứu : Từ tháng 08 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận :
Trong kết luân Hội nghị T. Ư 6 (khóa IX) có đoạn nêu : các nhiệm vụ và
giải pháp cần thực hiện tốt để phát triển giáo dục đến năm 2020 là : Nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên, mở rông quy mô giáo dục hợp lý.
Cần coi trọng cả ba mặt giáo dục : dạy làm người, dạy chữ, dạy nghề; đặc
biệt chú ý giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, lịch sử, truyền thống
văn hóa dân tộc, giáo dục về Đảng. Phát triển năng lực, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, làm cho thế hệ trẻ có đủ khả năng và bản lĩnh thích ứng với những biến
đổi nhanh chóng của thế giới. Bồi dưỡng cho thanh thiếu niên lòng yêu nước nồng
nàn, tự hào, tự tôn dân tộc và khát vọng mãnh liệt về xây dựng đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh.
II. Cơ sở thực tiễn :
Kinh tế xã hội phát triển ngày càng cao và sự bùng nổ thông tin, dẫn đến việc
một bộ phận gia đình khá giả chiều chuộng con mình, tạo nên sự đua đòi trong các
em.
Điện thoại di động, Internet, phim ảnh, của các Website đen đã tác động không
nhỏ đến nhận thức, lối sống và cách hành xử của học sinh, làm hư hỏng học sinh
bởi bản tính tò mò, hiếu động của tuổi mới lớn.
Tuy nhiên việc vi phạm đạo đức của học sinh không chỉ diễn ra ở địa bàn
thành phố, đô thị hay chỉ rơi vào trường hợp các em gia đình có điều kiện kinh tế.
Các trường vùng sâu, xa, học sinh nghèo chưa có điều kiện tiếp cận nhiều với
Internet vẫn đang phải đối mặt với vấn nạn vi phạm đạo đức của học sinh.
Trong tất cả các mặt giáo dục đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì Hồ
Chủ Tịch đã nêu: “ dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách
mạng thì có tài cũng vô dụng ”
Trong nhà trường THCS, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt
coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ
được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác.
Để thực hiện những yêu cầu về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong
trường THCS thì vai trò của môn giáo dục công dân cũng góp phần không nhỏ đối
với công tác này.
Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp; còn quá
trình giáo dục đạo đức không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện
thông qua tất cả các hoạt động có thể có trong nhà trường .
Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải có công phu,
kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần.
III. Thực trạng :
Ba Sao là một xã vùng sâu có điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn.
Tình hình giáo dục của xã những năm qua có nhiều chuyển biến tốt, phụ huynh
học sinh đa số đều quan tâm đến công tác giáo dục và việc học tập của con em
mình. Tuy nhiên trong nhà trường vẫn còn một bộ phận học sinh chưa ngoan,
chậm tiến bộ trong học tập và rèn luyện, có những biểu hiện như : trốn học, vô lễ
với người lớn và thầy cô, nói tục – chưởi thề, tham gia nhậu rượu…..
Trong độ tuổi học sinh THCS, nhiều học sinh đã bắt đầu dậy thì và có
những diễn biến rất phức tạp về tâm sinh lý. Trong khi đó chương trình học kín
mít, giáo viên thì hầu hết chỉ lo việc dạy kiến thức, cha mẹ thì có nhiều lý do để
bận, … và đến một lúc nào đó nhìn lại thì thấy rằng các em đã có những biểu hiện
tiêu cực. Có em thì trở nên lười biếng ở tất cả các môn học hoặc một vài môn học
nào đó, thường lơ đãng trong giờ học, không chịu nghe thầy cô giảng bài, kiểm tra,
thi cử thì quay cóp hoặc nhờ người khác làm hộ … Có em lại không chấp hành nội
quy, không tham gia phong trào, thường xuyên đi học trễ, lừa dối cha mẹ, thầy cô,
bạn bè, thậm chí còn cúp tiết tụ tập, la cà ở các hàng quán, gây gỗ và đánh nhau …
Những biểu hiện đó là những biểu hiện chung nhất của những em “ học sinh chưa
ngoan”. Ngoài ra, điều dễ nhận thấy nhất ở những học sinh này là cách nói năng,
đi đứng, ăn mặc, hành động rất khác thường ở các em và những em này thường
luôn tạo sự chú ý đối với người khác. Vì thế chúng ta phải quan tâm đến những
biểu hiện của học sinh để giáo dục kịp thời nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu
cực làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục, ảnh hưởng đến phong trào thi đua của
nhà trường, trật tự trị an xã hội, hạnh phúc gia đình và nghiêm trọng hơn là ảnh
hưởng đến tương lai tươi đẹp của chính bản thân các em.
* Một số nguyên nhân:
a. Môi trường gia đình :
Môi trường gia đình bao gồm các giá trị văn hóa mà cộng đồng gia đình góp
sức tạo lập, xây dựng, giữ gìn và phát triển tạo nên không gian sống riêng để tiếp
nhận hoặc từ chối các tác động xã hội. Môi trường văn hóa gia đình có tính bền
vững và kế thừa. Môi trường gia đình góp phần rất lớn trong việc hình thành nhân
cách của học sinh. Môi trường gia đình tốt, có văn hóa, cha mẹ biết quan tâm,
thương yêu con cái một cách đúng mức thì sẽ tạo nên một môi trường văn hóa
lành mạnh cho các em. Môi trường gia đình không bền vững, ẩn chứa nhiều yếu tố
tiêu cực tất yếu dẫn đến nhận thức sai lầm, góp sức tạo ra những tính cách xấu,
thiếu sức đề kháng đối với tác động xấu của xã hội và môi trường. Cụ thể là những
gia đình nào tạo ra bầu không khí phi đạo đức, thiếu lành mạnh như cha mẹ li hôn,
vợ chồng mâu thuẫn với nhau, gia đình có người nghiện ngập ma túy, rượu chè, cờ
bạc … thường đối xử thô bạo với các em thì tỉ lệ học sinh vi phạm nội quy, vi
phạm đạo đức là rất cao. Bởi vì nếu các em sống trong một gia đình bất ổn như thế
thì các em sẽ cảm thấy mình ít được quan tâm, ít được giáo dục, các em sẽ cảm
thấy mình mất đi chỗ dựa từ phía gia đình nên hư hỏng, sống bất cần, phó mặc cho
cuộc sống, dẫn đến các em dễ sa ngã, không làm chủ được bản thân. Đây là
nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự hình thành nhân cách cho học sinh. Bên cạnh đó,
do địa bàn dân cư, đại bộ phận dân cư sống bằng nghề nông, có những gia đình vì
cuộc sống quá khó khăn, thiếu thốn kinh tế nên các em phải lo toan cuộc sống
bằng cách phụ bố mẹ làm một công việc gì đó để kiếm tiền, các em không có điều
kiện để học tập sa sút dẫn đến chán nản lười học. Mặt khác, do một số gia đình có
điều kiện, kinh tế gia đình khá giả, cha mẹ chỉ biết làm ăn kiếm tiền, ít quan tâm
đến việc giáo dục con cái mà chỉ bỏ tiền ra chiều theo nhu cầu không chính đáng
của con cái. Chính vì sự nuông chiều quá mức của cha mẹ, chỉ biết làm cho các em
thỏa mãn những tính hiếu kỳ, những ước muốn kỳ quặc … sẽ làm nảy sinh ở các
em tính e ngại lao động. Từ việc cha mẹ thiếu quan tâm, kiểm tra, đôn đốc, nhắc
nhở, động viên các em trong học tập và vui chơi đã làm cho các em không rèn
luyện được thói quen trong học tập, sinh hoạt tập thể. Điều đó đã vô tình tạo cho
các em tính lười biếng, không chịu rèn luyện, dẫn đến có nhiều thói hư tật xấu.
Đặc biệt hơn cả là có những gia đình phó thác hẳn việc giáo dục con cái cho thầy
cô giáo, cho nhà trường. Họ cứ cho rằng đó là trách nhiệm của các thầy cô giáo
nên khi xảy ra vụ việc gì họ đều đỗ lỗi cho nhà trường, đỗ lỗi cho giáo viên mà
không nhận trách nhiệm về phía mình. Từ đó việc giáo dục học sinh càng thêm
lỏng lẻo, gia đình thiếu biện pháp giáo dục, thiếu kết hợp với nhà trường, với các
lực lượng giáo dục khác thì những việc làm xấu sẽ lôi cuốn các em.
b. Môi trường nhà trường :
Môi trường nhà trường tác động quyết định đến học sinh THCS trong việc
hình thành nhân cách, đạo đức cho học sinh trên các phương diện, hình thành nhân
sinh quan, thế giới quan. Nó là một nhân tố mạnh mẽ tạo nên nhân phẩm, đạo đức
của các em. Việc giáo dục, hình thành nhân cách, phẩm chất đạo đức cho học sinh
THCS là sự thống nhất hữu cơ giữa dạy chữ và dạy người. Giáo dục đạo đức và
hình thành nhân cách là hệ thống biện pháp đồng bộ từ truyền thụ kiến thức bộ
môn đến các hoạt động giảng dạy và quản lý giáo dục trong nhà trường. Do đó
không gì có thể thay thế nhà trường trong việc hình thành năng lực tư duy, rèn
luyện phương pháp tư duy, quá trình tích lũy tri thức, hình thành các phẩm chất,
nhân cách làm người cho học sinh. Ngoài gia đình và xã hội, nhà trường là nhân tố
quan trọng tác động mạnh đến hướng đi, thắp sáng tương lai cho các em bước vào
đời. Vì thế nhà trường không những bồi bổ cho các em về kiến thức sách vở mà
cần phải trang bị được kỹ năng sống cho các em. Cụ thể là trong một lớp học có sỉ
số quá đông cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến việc học của trẻ. Nếu lớp học quá
đông giáo viên không thể quan tâm sâu sắc đến từng em, không thể kiểm tra, đôn
đốc việc học tập cho từng em. Mà kinh nghiệm cho thấy nếu giáo viên hằng ngày
không quan tâm đến các em, không thường xuyên kiểm tra bài cũ, bài tập về nhà
của các em thì các em rất dễ lơ là việc học tập và các em sẽ thường xuyên không
làm bài, không học bài, dẫn đến việc học tập ngày càng sa sút, kiến thức cơ bản bị
hỏng làm cho các em chán nản việc học hành dẫn đến các em bỏ bê luôn cả việc
học, xem việc học như là một gánh nặng của bản thân. Từ đó các em sẽ dễ bị sa
ngã theo những bạn xấu, nhất là những bạn học sinh cá biệt cùng lớp. Vì thế lớp
học có nhiều học sinh chưa ngoan cũng là môi trường không tốt đối với trẻ. Còn
đối với học sinh cá biệt thì chỗ ngồi cũng ảnh hưởng rất lớn đến trẻ. Một học sinh
cá biệt ngồi xa tầm quan sát của giáo viên thì giáo viên ít có điều kiện theo dõi
những hành động quậy phá, nói chuyện hoặc lơ đãng việc học của học sinh. Bên
cạnh đó, mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng là một yếu tố quyết định.
Nếu thầy cô quan tâm sâu sát học sinh, nắm vững tâm lý học sinh thì sẽ dễ dàng
giáo dục các em. Ngược lại, nếu thầy cô không tìm hiểu các em, có những thành
kiến nghiêm khắc đối với các em thì sẽ làm cho trẻ chán nản, không thích học. Vì
thế giáo viên cần tránh đối xử thô bạo, trách móc các em và phải tôn trọng các em.
Nhà trường là một lực lượng giáo dục rất quan trọng góp phần hình thành
nhân cách của học sinh. Trên thực tế hiện nay, các hoạt động, phong trào trong nhà
trường ( trừ hoạt động giảng dạy ) nhìn chung vẫn còn nghèo nàn, chưa phong
phú, chưa lôi cuốn, hấp dẫn, chưa huy động đông đảo lực lượng học sinh tham gia.
Bên cạnh đó, những buổi sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt lớp hay họp phụ huynh vẫn
chưa đi sâu giáo dục đạo đức cho học sinh. Nhất là những buổi họp phụ huynh
diễn ra một năm chỉ khoảng ba lần, nội dung buổi họp chủ yếu là công bố kết quả
thi, tổng kết học kỳ và các khoản tiền vận động xã hội hóa đóng góp. Chỉ những
học sinh cá biệt đã từng gây gỗ đánh nhau, bỏ học nhiều thì mới nêu ra trong buổi
họp còn bình thường thì không thấy ai bàn về những bức xúc, mâu thuẫn xảy ra
hằng ngày của các em. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những biểu hiện xấu của
các em. Do đó vấn đề cần quan tâm là nhà trường cần phải phối hợp chặt chẽ với
hai lực lượng giáo dục gia đình và xã hội, phải tạo được sự đồng bộ, đồng thuận
trong việc giáo dục các em.
c. Môi trường xã hội :
Môi trường xã hội là sự tác động thường xuyên, hằng ngày của các hiện
tượng chính trị, kinh tế, xã hội đối với nhận thức, hiểu biết của học sinh, điều
chỉnh thế giới quan, nhân sinh quan của các em theo các chiều hướng khác nhau,
đa dạng và khá phức tạp, có khi các em rất khó phân biệt được thật giả, tốt và xấu,
hiện tượng và bản chất. Môi trường xã hội chính là thuốc thử hàng đầu về thử
thách trí tuệ, nhân cách, phẩm giá con người nói chung và đối với học sinh THCS
nói riêng.
Thực trạng xã hội hiện nay còn nhiều tệ nạn xã hội ( cướp giật, ma túy …)
nếp sống của con người chưa cao, thiếu hiểu biết ( mê tín, vứt rác bừa bãi, không
chấp hành luật lệ giao thông, … ). Một số cán bộ công chức thiếu gương mẫu,
tham ô, hối lộ. Một số gia đình cha mẹ làm ăn bất chính ảnh hưởng đến lối sống
các em. Cha mẹ không gương mẫu thiếu sự quan tâm đến các em, một số người đã
lợi dụng phương tiện thông tin truyền bá những văn hóa phẩm xấu, những đoạn
clip về học sinh đánh nhau, những bài viết về tệ nạn hiếp dâm, những hình ảnh
không lành mạnh gây suy nghĩ lệch lạc … kích thích sự tò mò của học sinh làm
ảnh hưởng xấu đến việc học tập của các em.
Hiện nay, một bộ phận học sinh chịu sự tác động từ những mặt tiêu cực của
xã hội, thiếu ý thức đạo đức, vi phạm pháp luật, có những học sinh có những hành
động côn đồ như đuổi đánh, xúc phạm thầy cô giáo, nói tục, chửi thề khá phổ biến,
tham gia vào các tệ nạn xã hội, tóc nhuộm đủ màu, móng tay sơn đủ kiểu, ăn mặc
nhiều kiểu mốt không phù hợp với lứa tuổi học sinh. Đặc biệt là hiện nay tình
trạng học sinh THCS chưa đúng tuổi quy định đã chạy xe gắn máy, có em còn
không đội cả mũ bảo hiểm và chở hai, chở ba lạng lách trên đường phố. Tất cả
những điều đó đã làm mất đi sự hồn nhiên của tuổi học trò.
d. Tâm sinh lý :
Đặc điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, vui buồn chuyển hóa dễ
dàng, tình cảm còn mang tính chất bồng bột, hăng say … Các em dễ có những
phản ứng mãnh liệt trước sự đánh giá, nhất là sự đánh giá thiếu công bằng của
người lớn. Điều này do ảnh hưởng của sự phát dục và thay đổi một số cơ quan nội
tạng và hoạt động thần kinh gây nên làm cho trẻ không tự kiềm chế nổi. Các em
trở nên hiếu động, thích làm nổi, thích tự khẳng định mình … và dần dần bị ảnh
hưởng bởi những thói hư, tật xấu và dần dần trở thành những học sinh cá biệt.
IV. Các giải pháp :
Để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường trong năm học
2011 - 2012 chúng tôi đã thực hiện các giải pháp như sau :
1. Phải hiểu rõ:
- Tìm hiểu tình hình của lớp thông qua giáo viên chủ nhiệm cũ. Đây là dịp để kiện
toàn lại đội ngũ cán bộ lớp, bổ sung những cái chưa làm được và phát huy những
mặt mạnh mà lớp đã có. Từ đó giáo viên chủ nhiệm có thể triển khai dễ dàng kế
hoạch giáo dục học sinh “chưa ngoan” dựa trên những bao quát khởi đầu mà giáo
viên chủ nhiệm cũ cung cấp.
- Tìm hiểu một cách hết sức tế nhị học sinh “chưa ngoan” từ cán bộ lớp đến cả
những em thuộc “nhóm” của học sinh “chưa ngoan” để từ đó có kế hoạch hợp lý
và phối hợp với gia đình để giáo dục các em.
2. Phải hợp tác:
Khi đã tiếp xúc được với phụ huynh của học sinh “chưa ngoan”, điều cần tránh
là không nên gay gắt, dồn dập việc báo cáo và phê bình con em họ, vì hơn ai hết
họ đã từng nghe nhiều lời ca thán và đã biết rõ con em mình. Điều đó sẽ không có
tác dụng gì mà ngược lại làm mất đi ý nghĩa của sự hợp tác, phối hợp giáo dục. Vì
vậy, cần phải giao tiếp ở một góc độ cởi mở một cách hết sức tâm lý và tế nhị
nhưng chân tình, tạo cho phụ huynh học sinh một sự tin tưởng, một tình cảm gần
gũi, thân mật, một thái độ tận tâm hợp tác để giáo dục con em họ trở thành người
tốt.
Hợp tác tốt sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu và chia sẻ với gia đình những khó
khăn trong việc dạy dỗ các em, và ngược lại gia đình sẵn sàng hợp tác với giáo
viên chủ nhiệm để giáo dục con em mình suốt năm học. Vấn đề ở đây là các em
cần phải được giáo dục để hiểu, nhận ra và chống lại tác động tiêu cực của những
con người và sự việc xấu bằng sự quan tâm của gia đình và của giáo viên chủ
nhiệm.
3. Phải quan tâm:
Giáo viên chủ nhiệm quan tâm bằng cách trực tiếp hỏi thăm học sinh “chưa
ngoan” về hoàn cảnh gia đình để giúp các em dần dần ý thức về việc quan tâm đến
gia đình mình kết hợp với quan tâm thăm hỏi học sinh “chưa ngoan” về bạn bè
thân thích thường hay chơi với nhau. Đồng thời thông qua phối hợp chặt chẽ gia
đình, giáo viên bộ môn để hiểu thêm về năng lực học tập cũng như thái độ và sự
tôn trọng, lễ phép của học sinh “chưa ngoan” và gián tiếp giúp đỡ, quan tâm, ân
cần hơn đối với các em.
Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường để gắn các em vào
những hoạt động mà các em ưa thích, hoặc chia sẻ, giúp đỡ các em những khó
khăn. Kêu gọi và yêu cầu các em khác trong lớp biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ
bạn mình (là những học sinh “chưa ngoan”), không nên xem thường và cô lập bạn,
hoặc phê phán một cách thái quá hay gay gắt dẫn đến mâu thuẫn chỉ vì thi đua của
lớp quá thấp. Điều đó lại có thể thúc đẩy việc tìm kiếm bạn bên ngoài nhà trường
(nhất là những nhóm thiếu niên hư hỏng sẽ có khả năng dẫn đến những hậu quả
đáng tiếc).
4. Phải quan sát:
Quan sát, theo dõi học sinh “chưa ngoan” hằng ngày về việc thực hiện nội quy,
quy chế trường lớp, về thái độ học tập bằng nhiều hình thức khác nhau sẽ giúp cho
giáo viên chủ nhiệm nắm vững và sẽ không vội vàng kết luận mội vi phạm nào đó
khi chưa tích lũy đầy đủ các sự kiện cần quan sát nhằm tránh làm tổn thương đến
tâm lý và tình cảm của các em.
5. Phải nghiêm khắc:
Giáo viên chủ nhiệm cần xử lí những vi phạm của tất cả học sinh trong lớp với
một thái độ nghiêm khắc, công bằng và tôn trọng học sinh, cho dù đó là cán bộ lớp
hay học sinh “chưa ngoan”. Có như vậy những em “chưa ngoan” sẽ cảm thấy giáo
viên chủ nhiệm đã tôn trọng tất cả thành viên trong lớp, không thiên vị, không hề
“ghét bỏ” mình (theo suy nghĩ của các em). Cần lưu ý: nếu nghiêm khắc quá mức
sẽ dẫn đến “phản sư phạm” và phản tác dụng.
6. Phải ngọt dịu:
Giáo viên chủ nhiệm phải là người tận tụy với công việc, có tình yêu thương,
tấm lòng độ lượng và bao dung đối với học sinh. Tuy nhiên lòng yêu thương ấy
không thể pha trộn với những nét ủy mị, mềm yếu và thiếu sự đề ra yêu cầu
nghiêm khắc đối với các em, mà ngược lại. Với sự ngọt dịu này sẽ xóa bỏ khoảng
cách, làm cho học sinh “chưa ngoan” cảm thấy mình không bị “ghét bỏ” hay bị
“bỏ rơi.” Tình cảm thầy-trò dần được hình thành, tạo điều kiện thuận lợi cho
những tâm sự, những chia sẻ... Khi đó những lời động viên, những định hướng của
giáo viên chủ nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.
7. Phải động viên:
- Trong việc giáo dục học sinh “chưa ngoan” thì sự động viên và khuyến khích có
vai trò rất quan trọng. Học sinh “chưa ngoan” đa số là những em có học lực yếu
kém, dẫn đến bất mãn, không thiết tha gì đến học tập, hay nói cách khác, không có
động cơ, ý thức học tập. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người trực tiếp
quan tâm, động viên các em trên tinh thần “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, “có công
mài sắt, có ngày nên kim”.
- Cần huy động và vận hành cả guồng máy: Gia đình học sinh - Giáo viên - Đoàn
thể - Các tổ chức xã hội - Bạn bè học sinh – và cả cá nhân học sinh “chưa ngoan”
để động viên, hỗ trợ, giúp đỡ các em có được tinh thần, động cơ, và ý thức trong
rèn luyện đạo đức và học tập.
8. Phải định hướng:
Học sinh “chưa ngoan” thường là những em không định hướng được mình
cần phải rèn luyện những gì để giúp ích cho bản thân mình để hoàn thành nhiệm
vụ của mình là học tốt và rèn luyện tốt. Chính vì vậy giáo viên chủ nhiệm sẽ là
người giúp các em biết quan tâm đến bản thân, gia đình ... cũng như suy nghĩ đến
việc chọn nghề để các em có hoài bão, ước mơ và trở thành người hữu ích.
9. Phải tâm huyết và trách nhiệm :
Chính tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho giáo viên chủ nhiệm có được năng
lực “cảm hóa” học sinh nói chung, học sinh “chưa ngoan” nói riêng. Đó là năng
lực gây ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí.
Tâm huyết và trách nhiệm nằm trong nhân cách của người thầy giáo. Giáo viên
chủ nhiệm phải dùng nhân cách của mình để tác động vào học sinh, giáo dục các
em nên người. Đây chính là dùng nhân cách để giáo dục nhân cách là vậy.
Có thể nói rằng chỉ có người giáo viên nào luôn ý thức sẽ cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ, lấy việc hy sinh phấn đấu
hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người làm hạnh phúc cao cả của đời mình thì
mới có thể thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách xứng đáng.
V. Hiệu quả áp dụng :
Thống kê kết quả hạnh kiểm của học sinh qua các năm như sau :
Năm học
Tổng số HS
Tốt (%)
Khá (%)
2009-2010
2010-2011
2011-2012
(học kỳ I)
118
162
200
62,4
68
71,5
30,6
26,1
28
VI.
Trung
bình(%)
07
5,9
0,5
Yếu (%)
0,0
0,0
0,0
PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa :
Nhà trường là nơi đào tạo con người không chỉ về mặt kiến thức mà cả về
đạo đức, lối sống. Trong nhà trường, bất kì một bậc học nào, lớp học nào cũng có
môn học liên quan đến giáo dục đạo đức. Trực tiếp như: đạo đức, giáo dục công
dân... là các môn học trang bị cho các em những tri thức, kỹ năng và chuẩn mực về
hành vi đạo đức. Ngoài ra, các môn học khác cũng có tác dụng giáo dục đạo đức
cho học sinh như: văn học, hóa học, vật lý... rèn luyện cho các em tính nhân văn,
tính chính xác, cần cù, chăm chỉ, vượt khó, yêu sự thật, yêu khoa học,…cảm phục
tinh thần lao động, sáng tạo không ngừng của các nhà khoa học....
Cũng trong quá trình học tập đó, các mối quan hệ liên nhân cách giữa học
sinh - giáo viên, giữa học sinh - học sinh, học sinh - tập thể học sinh tạo ra môi
trường lý tưởng cho học sinh hình thành và phát triển nhân cách, làm các em được
thực hành những chuẩn mực về đạo đức đã được học.
Như vậy, dạy học không chỉ có tác dụng cung cấp tri thức cho học sinh mà
còn có tác dụng phát triển toàn bộ phẩm chất đạo đức ở học sinh, nhà giáo dục
“thông qua dạy chữ để dạy người” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
II. Khả năng áp dụng :
Với những giải pháp đã nêu trong đề tài này thì khả năng áp dụng rộng rải
được cho tất cả giáo viên chủ nhiệm ở các cấp học.
III. Bài học kinh nghiệm :
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, thì việc giáo dục đạo đức học sinh chính là
trang đầu của quốc sách ấy. Vai trò của Giáo dục thật sự quan trọng và có thể ảnh
hưởng đến sự tồn vong của một dân tộc. Giáo dục là trụ cột của một quốc gia để
tạo dựng, giữ gìn và phát triển các giá trị xã hội.
Giáo dục đạo đức học sinh đâu phải chỉ là nhiệm vụ của môn học Đạo Đức
trong nhà trường, hay chỉ là của ngành Giáo Dục. Đã đến lúc cả xã hội cần nhìn
nhận vấn đề đạo đức học sinh trong nhà trường hiện nay với một tinh thần trách
nhiệm và nghiêm túc.
Cần phải đổi mới hoàn toàn cách thức mà lâu nay chúng ta đã dùng để giáo
dục đạo đức học sinh. Bản thân giáo dục đã mang tính xã hội hóa, nhà nước cần
tạo điều kiện để toàn dân tham gia vào công tác giáo dục học sinh.
Điều quan trọng là cần có một môi trường xã hội lành mạnh, mọi người sống
tuân thủ pháp luật và tôn trọng những giá trị đạo đức xã hội.
Một môi trường xã hội tốt sẽ tác động vào nhận thức của học sinh và các em
cũng phải tuân thủ những nguyên tắc ứng xử đã được học trong nhà trường mà cả
xã hội đang áp dụng. Mong rằng không quá trễ cho tương lai những mầm non đất
nước.
IV. Đề xuất, kiến nghị :
- Phòng Giáo dục và Đào tạo cần đẩy mạnh việc tổ chức các buổi Hội thảo để
tìm ra nguyên nhân và giải pháp về nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
học sinh.
- Các ban ngành đoàn thể ở địa phương cần tác động đến người dân bằng
nhiều hình thức nhằm làm chuyển biến nhận thức của họ một cách tích cực.
- Cần xử lý nghiêm đối với những cơ sở có hành vi kinh doanh văn hóa
không lành mạnh.
- Các đơn vị trường học phải đa dạng hóa việc nêu gương học sinh thành đạt
của trường mình nói riêng và của cả nước nói chung trên tất cả các lĩnh vực.
Ba Sao, ngày 25 tháng 02 năm 2012
NGƯỜI THỰC HIỆN
ĐẶNG HOÀNG THÁM